Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST ngày 10/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2025/HNGĐ-ST ngày 10/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 27/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Nguyễn Thị C xin ly hôn anh Nguyễn Văn V và giải quyết về con chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƢƠNG
Bản án số: 27/2025/HNGĐ-ST
Ngày 10-6-2025
“V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƢƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quân.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Thanh Hải và bà Nguyễn Thị Hồng
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Hùng- Thƣ ký TAND huyện Tứ Kỳ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tham gia
phiên toà: Bà Nguyễn Thanh Vân- Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dƣơng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2025/TLST-HNGĐ ngày
06 tháng 01 năm 2025 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đƣa
vụ án ra xét xử số 23/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2025, Quyết
định hoãn phiên tòa số 18/2025/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2025, giữa
các đƣơng sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1987; ĐKHKTT: Thôn T, xã T
(nay là xã K), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng; hiện trú tại: Thôn L, xã H, huyện Tứ
Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1983; ĐKHKTT và hiện trú tại:
Thôn T, xã T (nay là xã K), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.
- Người làm chứng: Bà Đoàn Thị Thái, sinh năm 1967; ĐKHKTT và hiện
trú tại: Thôn T, xã T (nay là xã K), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.
Chị C, anh V đều có mặt; ngƣời làm chứng vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai và các tài liệu khác có tại hồ sơ,
nguyên đơn chị Nguyễn Thị C trình bày:
+ Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn V kết hôn với nhau trên cơ sở đƣợc
tự do tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T(nay là xã K),
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng ngày 06/02/2009. Sau khi kết hôn, anh chị chung
sống cùng với bố mẹ chồng ở thôn Thiết Tái, xã K. Vợ chồng hạnh phúc đến năm
2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau
2
trong cách sống, sinh hoạt. Anh V không chịu làm ăn, kinh tế gia đình chủ yếu do
một mình chị phải gánh vác. Nhiều lần chị bỏ đi, anh V có đến tìm, vì thƣơng các
con chị lại về. Chị đã đi vay tiền để anh V đi xuất khẩu lao động nhƣng vẫn không
chịu làm ăn, đi đƣợc ít ngày lại về. Để trả nợ, chị đã đi lao động ở Đài Loan, hàng
tháng có gửi tiền về cho mẹ chồng để chăm lo cho các con. Trong thời gian chị lao
động ở ngoài nƣớc, mỗi khi chị gọi điện về anh V đều chửi, mắng, xúc phạm chị.
Tháng 6/2024, chị về nƣớc hẳn, nhƣng chị không về đoàn tụ với anh V nữa, vợ
chồng ly thân cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không
có khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị đƣợc ly hôn anh V để hai
bên sớm ổn định cuộc sống.
- Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu khác có tại hồ sơ, bị
đơn anh Nguyễn Văn V trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn thống nhất nhƣ
chị C đã trình bày. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng với bố mẹ anh tại thôn
Thiết Tái, xã K. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn,
nguyên nhân thời điểm đó chị C xuất khẩu lao động sang Đài Loan, đến tháng
5/2024 thì mới về nƣớc. Trong thời gian chị C đi nƣớc ngoài, anh ở nhà nuôi con,
chăm lo cho gia đình, còn chị C chỉ gửi cho con đƣợc vài thùng sữa, có tháng gửi
01 triệu, có tháng gửi 1,5 triệu đồng cho con, các chi phí khác cho gia đình chủ yếu
do một mình anh lo liệu. Trong thời gian đó chị C bảo em trai gọi điện xúc phạm
anh và em gái chị C dùng mạng xã hội Facebook lan truyền những thông tin không
đúng, ảnh hƣởng đến danh dự của anh. Tháng 5/2024 chị C về nƣớc nhƣng không
về nhà mà về nhà bố mẹ đẻ ở. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Anh có
đề nghị vợ chồng gặp mặt để giải quyết việc tình cảm giữa hai bên nhƣng chị C
tránh mặt không gặp. Bản thân chị C trong thời gian ở Đài Loan đã có quan hệ
ngoài luồng với ngƣời đàn ông khác. Nay chị C làm đơn xin ly hôn, anh xác định
không còn tình cảm gì với chị C nhƣng anh không nhất trí ly hôn vì: Trong thời
gian chị C đi Đài Loan không đóng góp gì về kinh tế cho gia đình. Chị C và một
vài ngƣời trong gia đình đã nhiều lần xúc phạm danh dự của anh.
- Về con chung: Chị C và anh V đều xác định vợ chồng có hai con chung là
Nguyễn Mai Thanh T, sinh ngày 05/11/2009 và Nguyễn Đức T1, sinh ngày
15/9/2012. Hiện nay cháu T1 đang ở với chị C, cháu T đang ở với anh V. Cháu T
có nguyện vọng ở với anh V, cháu T1 có nguyện vọng ở với chị C. Anh chị đều
thống nhất chị C xin nuôi dƣỡng cháu T1, anh V đề nghị đƣợc nuôi dƣỡng cháu T,
hai bên không phải cấp dƣỡng tiền nuôi con chung cho nhau cho đến khi con
chung trƣởng thành (đủ 18 tuổi).
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị C và anh V đều thống nhất không yêu cầu
Toà án giải quyết.
3
+ Kết quả làm việc với bà Đoàn Thị T (thím ruột anh V) xác định: chị C, anh
V đƣợc tự do tìm hiểu, tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết
hôn, anh chị chung sống cùng với bố mẹ chồng anh V. Quá trình chung sống vợ
chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do
không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt, cũng nhƣ làm ăn phát triển kinh tế gia
đình. Chị C đi làm nhƣng không gửi tiền về nhà cho anh V chăm lo cho các con.
Sau khi về nƣớc, chị C không về sống cùng với anh V mà bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở,
vợ chồng ly thân từ tháng 5/2024 đến nay. Anh chị có hai con chung nhƣ chị Vũ
đã trình bày, hiện cháu đang ở với anh V. Cả hai cháu đƣợc anh V nuôi dƣỡng,
phát triển tốt, trƣờng hợp anh chị ly hôn, đề nghị mỗi ngƣời nuôi một con.
+ Kết quả làm việc với đại diện UBND xã và các đoàn thể xã K, trƣởng thôn
T đều cung cấp: Anh V, chị C đƣợc tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn theo luật
định. Sau khi kết hôn, anh chị sinh sống cùng với bố mẹ anh V ở Thôn T, xã T
(nay là xã K). Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau trong cách sống sinh
hoạt cũng nhƣ làm ăn kinh tế gia đình. Chị C đi xuất khẩu lao động nhƣng không
gửi tiền về cho anh V để chăm lo cho gia đình, con cái và kinh tế gia đình chủ yếu
do một mình anh V gánh vác. Khoảng tháng 6/2024, chị C về nƣớc nhƣng không
về ở cùng anh V mà về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó đến nay, không
đoàn tụ với nhau. Vợ chồng có 02 con chung nhƣ anh chị đã trình bày, hiện đang ở
với anh V. Nay, chị C xin ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung, đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, chị C vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn anh V và đề nghị
Tòa án giao mỗi ngƣời nuôi một con chung. Chị xin nuôi cháu T1 để anh V nuôi
cháu T (hiện cháu T1 đang ở với chị C, cháu T đang ở với anh V), hai bên không
phải cấp dƣỡng nuôi con. Anh V xác định tình cảm giữa anh và chị C không còn
nhƣng anh vẫn giữ nguyên quan điểm không nhất trí ly hôn với lý do anh đã trình
bày. Về con chung; anh V xin đƣợc nuôi dƣỡng cả hai con chung, trƣờng hợp Tòa
án giao cháu T cho anh nuôi dƣỡng, cháu T1 cho chị C nuôi dƣỡng thì anh cũng
nhất trí, trong mọi trƣờng hợp anh không yêu cầu cấp dƣỡng. Anh đề nghị Tòa án
xem xét khoản tiền đã cho chị C vay 2.000.000 đồng và một số khoản tiền khác.
Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thƣ ký phiên tòa và
của những ngƣời tham gia tố tụng đến trƣớc thời điểm HĐXX nghị án và đề nghị
Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 51, Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia
đình; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội về ... án
phí và lệ phí Toà án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho chị
4
Nguyễn Thị C đƣợc ly hôn anh Nguyễn Văn V; Về con chung: Giao cho chị
Nguyễn Thị C đƣợc tiếp tục nuôi dƣỡng, chăm sóc con chung Nguyễn Đức T1,
sinh ngày 15/9/2012, giao cho anh Nguyễn Văn V đƣợc đƣợc tiếp tục nuôi dƣỡng,
chăm sóc con chung Nguyễn Mai Thanh T, sinh ngày 05/11/2009 cho đến khi con
chung trƣởng thành (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị C, anh V không
yêu cầu cấp dƣỡng nuôi con. Chị C, anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm
sóc con chung không ai đƣợc cản trở. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị C, anh
V không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Chị Nguyễn Thị C phải chịu
300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đƣợc thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Văn V kết hôn trên cơ
sở đƣợc tự do tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T(nay là xã
K), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng vào ngày 06/02/2009 là hôn nhân hợp pháp.
[2] Sau khi kết hôn, vợ chồng hạnh phúc, hoà thuận đến đầu năm 2016 thì
phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị không hợp nhau trong cách
sống, sinh hoạt, vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm. Theo chị C trình bày, anh
V mải chơi, không chịu làm ăn gì, mọi gánh nặng về kinh tế đều do chị gánh vác,
chị đã vay mƣợn cho anh V đi lao động nƣớc ngoài nhƣng chỉ đƣợc ít ngày lại về
nên chị phải tiếp tục đi để làm kinh tế, trong thời gian này, mỗi khi chị điện về thì
anh V liên tục chửi bới, xúc phạm chị. Theo lời khai của anh V thì khi chị C đi làm
ở nƣớc ngoài anh phải ở nhà nuôi con, nhƣng chị C không gửi tiền hoặc có gửi thì
chỉ gửi rất ít cho con, mọi vấn đề kinh tế trong gia đình đều do anh gánh vác. Mặc
dù anh V không đồng ý ly hôn chị C, tuy nhiên chính anh V cũng thừa nhận không
còn tình cảm gì với chị C. Từ khi chị C về nƣớc anh V cũng không có giải pháp
nào dàn xếp chuyện tình cảm để vợ chồng về đoàn tụ, vợ chồng sống ly thân từ
tháng 6/2024 đến nay. Nhƣ vậy, đã có đủ cơ sở kết luận tình trạng hôn nhân giữa
chị C và anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt đƣợc, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho
chị C đƣợc ly hôn với anh V là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình
để hai bên sớm ổn định cuộc sống.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Mai Thanh T, sinh
ngày 05/11/2009 và Nguyễn Đức T1, sinh ngày 15/9/2012. Xét quan điểm của chị
C, anh V về nuôi dƣỡng con chung, cũng nhƣ nguyện vọng của các con chung thấy
rằng: Cả cháu T và cháu T1 đều đã trên 7 tuổi, cháu T muốn ở với bố, cháu T1
muốn ở với mẹ. Nguyện vọng của các con cũng phù hợp với quan điểm của chị C,
anh V trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Xét thấy, chị C và anh V đều có việc làm,
5
có thu nhập và đủ điều kiện nuôi con. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt
cho con chung, HĐXX giao cho chị C đƣợc tiếp tục nuôi dƣỡng con chung
Nguyễn Đức T1, giao cho anh V đƣợc nuôi dƣỡng con chung Nguyễn Mai Thanh
T cho đến khi con chung trƣởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp với các điều 81, 82,
83 Luật HNGĐ. Chấp nhận sự tự nguyện của chị C, anh V không yêu cầu cấp
dƣỡng nuôi con. Chị C và anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai
đƣợc cản trở
[4] Về tài sản chung, vay nợ chung: Trong quá trình chuẩn bị xét xử, cả chị
C, anh V đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, anh V mới có ý kiến
đề nghị Tòa án xem xét về khoản tiền cho chị C vay và một số khoản tiền khác,
HĐXX thấy rằng: Quá trình Tòa án giải quyết, các đƣơng sự đều xác định không
yêu cầu, đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản, nợ chung. Tòa án cũng đã giải thích
trƣờng hợp chị C, anh V thấy cần phải giải quyết về khoản tiền cho nhau vay và
các khoản khác thì anh chị có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung sau khi
ly hôn bằng một vụ án khác. Vì vậy, HĐXX không giải quyết trong vụ án này.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên
phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của
Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội về ...án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật
Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147, Điều 271,
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội về ... án
phí và lệ phí Toà án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị C đƣợc ly hôn anh Nguyễn Văn V.
2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị C tiếp tục đƣợc nuôi dƣỡng,
chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Đức T1, sinh ngày 15/9/2012; giao cho anh
Nguyễn Văn V đƣợc tiếp tục nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn
Mai Thanh T, sinh ngày 05/11/2009 đến khi con chung trƣởng thành (đủ 18 tuổi).
Chấp nhận sự tự nguyện của chị C, anh V không yêu cấp dƣỡng nuôi con. Chị C,
anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai đƣợc cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ
thẩm ly hôn, đƣợc đối trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai ký
hiệu: BLTU/23, số: 0005821 ngày 06/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.

6
4. Về quyền kháng cáo: Chị C, anh V có mặt tại phiên tòa đƣợc quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Tứ Kỳ;
- Chi cục THA dân sự huyện Tứ Kỳ;
- UBND xã K, huyện Tứ Kỳ
(để ghi vào sổ hộ tịch);
- Các đƣơng sự;
- Lƣu: Hồ sơ vụ án, VP;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Quân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm