Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST ngày 06/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST ngày 06/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng
Số hiệu: 25/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/06/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị H và anh D có đăng ký kết hôn tại UBND xã K (nay là xã P), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương vào ngày 08/12/2013 trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống, chị H xác định vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, lối sống, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không có sự tôn trọng nhau, quan tâm hay chăm sóc lẫn nhau. Anh D thường xuyên chơi bời qua đêm, ít quan tâm đến con cái, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau, đánh nhau. Anh D cũng xác định gần đây chị không tôn trọng anh, vợ chồng có xảy ra cãi nhau, hiện vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng ly thân nhau từ năm 2023 đến nay, hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị được ly hôn anh D
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 25/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 06-6-2025
V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vương Đình Thi.
c Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyn Thị Hồng và ông Nguyn Ngc Phan.
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Hoàng Sơn - Thư Toà án nhân dân
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tham
gia phiên toà: Ông Nguyn Đình Long - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương xét x thẩm công khai vụ án thụ số: 15/2025/TLST-HNGĐ
ngày 07 tháng 02 năm 2025 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 29/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2025
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Việt H, sinh ngày xx/xx/1987; hộ khẩu
thường trú: Số x C, phường V, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; ch hiện tại:
Sx Nguyễn Khánh T, phường Q, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. (Căn cước
số: 025xxx, mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Nguyễn Th
T Luật của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Trung Cường thuộc Đoàn
Luật sư thành phố Hà Nội. (vắng mặt)
2. Bị đơn: Anh Phm Trung D, sinh ngày xx/xx/1986; địa chỉ: Thôn N,
P, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. (Căn cước số: 030xxx, mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Ti đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn (chị Nguyễn
Việt H) trình bày: Chanh Phạm Trung D được tự do tìm hiểu nhau t
nguyện cùng nhau đi đăng kết hôn, đã được Uỷ ban nn dân (UBND) K
(nay xã P), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tổ chức đăng cấp giấy chứng
nhận kết hôn vào ngày 08/12/2013. Sau khi kết hôn, vchồng chung sống với
nhau hạnh phúc được thời gian ngắn khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn,
nguyên nhân do bất đồng quan điểm, lối sống, cuộc sống vợ chồng không hòa
hợp, không s tôn trọng nhau, quan tâm hay chăm sóc lẫn nhau. Anh D
2
thường xuyên chơi bời qua đêm, ít quan tâm đến con cái, vchồng thường xảy
ra mâu thuẫn, đánh cãi nhau, có lần anh D đánh chdập lá lách phải đi bệnh
viện. Tháng 10/2023, anh D vi phạm pháp luật và đã bToà án nhân dân quận
Ngô Quyền, thành ph Hải Phòng xphạt 01 năm tù vtội “Chống người thi
hành công vụ”, tháng 10/2024, anh D đã trvđịa phương nhưng vchồng đã
xa cách, không thăm hỏi và gần gũi nhau nữa. Vchồng sống ly thân nhau t
cuối năm 2023 đến nay không quan tâm đến nhau. Ch xác định tình cảm vợ
chồng không còn, hôn nhân không hnh phúc nên ch đề nghị được ly hôn
anh Phạm Trung D.
Vcon chung: Vợ chồng hai con Phạm Nguyễn Lã Hoàng A, sinh
ngày 01/01/2015 và Phạm Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/10/2017; hiện c
hai cháu đang cùng với ch tại thành phHà Nội. Chxác định chị có đầy đ
điều kiện vật chất, có nơi ổn định, tiện nghi và hiện đại, thu nhập ổn định
khoảng 43.000.000 đồng/tháng thời gian đđảm bảo cho các con của anh
chcó cuộc sống tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Trong khi đó, anh D vừa
mới chấp hành án trvề, chưa có công ăn việc làm ổn định, vẫn chung với
bmchồng, anh có lối sống không lành mạnh, dễ bị kích động, thích sdụng
vũ lực đgiải quyết vấn đề sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm sphát
triển, hình thành nhân cách của các con nên chđề nghđược tiếp tục nuôi cả hai
con theo nguyện vọng của các cháu và chtnguyện không yêu cầu anh D phi
cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Chkhông yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị đơn (anh Phạm Trung D) trình
bày: Anh xác định anh và chị Nguyễn Việt H tnguyện kết hôn và có đăng ký
kết hôn tại UBND K (nay xã P), huyện Tứ Kỳ vào năm 2013. Sau khi kết
hôn, cuộc sống v chồng vui v hạnh phúc không mâu thuẫn gì ln. Thi
gian gần đây chị H không tôn trọng anh, vchồng xảy ra cãi nhau. Hiện v
chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay anh xét thấy tình cảm v
chồng có thhàn gắn lại đưc hay không do chị H, nếu chị H kiên quyết ly
hôn thì anh đồng ý với điều kiện anh được nuôi hai con.
Về con chung: Anh và chị H có hai con Phạm Nguyễn Hoàng A,
sinh ngày 01/01/2015 và Phạm Nguyễn Lã Thiên A, sinh ngày 13/10/2017; hiện
c hai con đang sống cùng với chị H và học tại Hà Nội. Thời gian qua anh
không nhà nên chị H nuôi con. Anh đnghị được nuôi chai con anh
không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Anh đang làm công việc kinh doanh
tdo, mức thu nhập trung bình khoảng 70 triệu đồng/tháng, anh làm tdo nên
không có bảng lương để cung cấp cho Toà án.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xác minh tại chính quyền địa phương UBND P, huyện TKỳ cung
cấp: Anh Phạm Trung D là công dân địa phương, anh D và chị H đăng ký kết
hôn tại UBND K (nay là xã P), huyện Tứ Kỳ o năm 2013. Sau khi kết hôn,
anh chị không sinh sống tại địa phương. Anh chhai con cháu Hoàng A và
cháu Thiên A nhưng không đăng ký khai sinh tại địa phương, không sinh sống,
3
học tập tại địa pơng. Theo địa phương nắm được thì ttháng 10 năm 2023,
anh Phạm Trung D phải chấp hành bản án 01 năm tù vtội “Chống người thi
hành công vụ” và ra tù tháng 10 năm 2024. Địa phương nắm được vợ chồng anh
chcó mâu thuẫn còn cthể thì địa phương không nắm được, đề nghToà án
giải quyết theo pháp lut. Vmôi tờng học tập và sinh sống tại địa phương
hoàn toàn đảm bảo, các bậc học từ cấp 1 đến cấp 3 đều đạt chuẩn quốc gia.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơnNguyễn Thị T
có đơn đề nghị xét xvắng mặt và gửi bài phát biểu trình bày: Vquan hhôn
nhân: Trong quá trình sinh sống, cuộc sống vợ chồng chị H anh D không hạnh
phúc; theo chị H, chđã phải chịu đựng rất nhiều tính cách, thái độ, ứng xử,
quan điểm sống khác xa với lối sống và tính cách của chị. Vì vậy mà tình cảm
vchồng chngày càng lạnh lẽo, đã thời gian dài ly thân cho nên ly hôn là
biện pháp giải thoát cho chai, đề nghị Hội đồng xét x (HĐXX) chấp nhận đ
nghly hôn của chị H, giải quyết cho anh chđược ly hôn. Vquan h nuôi
dưỡng con chung: Chai con ca anh chđều có nguyện vọng được với mẹ;
trong thời gian anh chly thân, chị H trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu Hà Nội;
các cháu nhn thức rất tốt, học giỏi toàn diện các môn; đbảo đảm ổn định
cuc sống và sự phát triển lành mạnh cho hai cháu; việc các cháu được ở với m
là điều kiện tốt nhất vtình cảm để các cháu phát triển bản thân và được chăm
sóc, yêu thương đầy đủ; đồng thời các cháu đưc gần ông ngoại, ông s
chăm sóc, htrợ cả vvật chất tinh thần cho các cháu. Mặt khác, các cháu
được sinh sống cùng nhau stạo điều kiện vun đắp tình chem; nếu một trong
hai cháu phải với anh D, các cháu sthấy rằng nguyện vọng của các cháu đã
không được tôn trọng; đồng thời, tính tình của anh D dễ bị kích động, nóng nảy,
thậm chí scó thdùng bạo lực khi chăm sóc con. Điều kiện vật chất của chị H
rất tốt nên chị H không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con. Chị H cũng hứa
stạo điều kiện đanh D thăm con, chơi với con không ngăn cviệc bố con
gặp nhau; đnghị HĐXX giao c hai con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng mà
không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng.
Tại phiên toà, chị H nhất trí với phần trình bày của T. Ch xác định ch
thực skhông còn tình cảm gì với anh D nên ch vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, đề nghđược ly hôn anh D. Hiện cả hai con của anh chđều ở cùng với ch
do chtrực tiếp nuôi ỡng, giáo dục từ nhđến nay; chcó nhiều thời gian đ
chăm sóc, giáo dc con hơn anh D và các con của anh chđều có nguyện vọng
cùng với chị; hiện tại chvà hai cháu đang sống rất tốt thành phHà Nội nên
ch đnghđược tiếp tục nuôi chai con không yêu cầu anh D phải cấp
ỡng cho con. Chxác định khi anh D ra có đến đón con nhưng các con ch
bận học nên các cháu không đồng ý về quê với anh D.
Anh D xác định có sviệc vợ chồng mâu thuẫn dẫn đến chị H bngã dập
lách phải đi bệnh viện. Tháng 10 năm 2024, khi anh ra tù trvề, chị H không
quan tâm đến anh, không cho anh đón con; nay chH không còn tình cảm gì với
anh nhưng anh không nhất trí ly hôn. Hiện anh đang làm lao động tdo, làm
nhiều việc khác nhau thành phHải Phòng nên anh không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ nào chứng minh thu nhập; anh xác định thu nhập khoảng 70
4
triệu đồng/tháng, có đđiều kiện để nuôi chai con, anh đề nghị được nuôi c
hai con và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng cho con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ tham gia phiên tphát
biểu ý kiến: Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ thụ giải quyết v án đúng thẩm
quyền, đúng thời hạn tố tụng, trong quá trình giải quyết xét xử tại phiên tòa
đã tuân theo đúng trình tự tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định
của Bộ luật Ttụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81,
82, 83 Luật n nhân và gia đình, khoản 1 Điều 28, Điều 147 Bộ luật Tố tụng
dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị
Nguyễn Việt H, cho chị H ly hôn anh Phạm Trung D. Vcon chung: Giao hai
con Phạm Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 01/01/2015 Phạm Nguyễn
Thiên A, sinh ngày 13/10/2017 cho chNguyễn Việt H chăm sóc nuôi dưỡng
đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Việt H không
yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không. Về án
phí: Chị Nguyễn Việt H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên a, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật ttụng: Chị Nguyễn Việt H khởi kiện ly hôn bị
đơn anh Phạm Trung D, trú tại thôn N, xã P, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Tòa
án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm
quyền, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sphù hợp với khoản 1
Điều 51 của Luật Hôn nhân gia đình. Tại phiên tòa, vắng mặt người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Nguyễn Thị T, bà T có đơn đ
nghxét xvắng mặt và gửi bài phát biểu nên HĐXX tiến hành xét xử ván
vắng mặt T là phù hợp với khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Về quan h hôn nhân: Chị H và anh D đăng ký kết hôn tại UBND
K (nay xã P), huyện TKỳ, tỉnh Hải Dương vào ngày 08/12/2013 trên sở
được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết n nên quan hệ n nhân giữa anh chị là hợp
pháp. Quá trình chung sống, chị H xác định vchồng chỉ hạnh phúc được một
thời gian ngắn khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất
đồng quan điểm, lối sống, cuộc sống vchồng không hòa hợp, không s tôn
trọng nhau, quan tâm hay chăm sóc lẫn nhau. Anh D thường xuyên chơi bời qua
đêm, ít quan tâm đến con cái, vợ chồng thường xy ra mâu thuẫn, cãi nhau, đánh
nhau. Anh D cũng xác định gần đây chị không tôn trọng anh, vợ chồng có xảy ra
cãi nhau, hiện vợ chồng đã sng ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H
xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng ly thân nhau từ năm 2023 đến
nay, hôn nhân không hạnh phúc nên đề nghị được ly hôn anh D. Anh D xác
định tình cảm vợ chồng thhàn gắn lại được hay không là do chị H, nếu chị
H kiên quyết ly hôn thì anh đồng ý với điều kiện anh được nuôi hai con; tại
5
phiên toà, anh không đồng ý ly hôn. Như vậy, hôn nhân đã lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung giữa hai anh chị đã chấm dứt, tình nghĩa vợ chồng
không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của
chị H, cho ch được ly n anh D là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56
của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị H và anh D hai con Phạm Nguyễn Lã Hoàng
A, sinh ngày 01/01/2015 và Phạm Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/10/2017;
hiện nay chai con đang sống cùng với chH. Chị H xác định chcó mức thu
nhập ổn định 43 triệu đồng/tháng nên đề nghđưc nuôi cả hai con và chkhông
yêu cầu anh D phải cấp dưỡng cho con. Anh D xác định anh làm lao động tự do
có thu nhập khoảng 70 triệu đồng/tháng nên anh đề nghđược nuôi cả hai con và
anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng cho con. HĐXX xét thấy ttháng 10
năm 2023 khi anh D đi chấp hành án đến nay, chai cháu đều sống cùng chị H
tại thành ph Hà Nội; hiện cả hai cháu đều vẫn khoẻ mạnh, phát triển bình
thường, các cháu đều có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng với chị H; t
tháng 10 năm 2024, anh D ra làm lao động tự do, anh không cung cấp được
tài liệu, chứng c chứng minh vthu nhập cũng như điều kiện trông nom, nuôi
ỡng, chăm sóc, giáo dục con của anh. Như vậy, HĐXX thấy rằng anh D làm
lao động tự do, anh chưa chứng minh được điều kiện về việc trông nom, nuôi
ỡng, chăm sóc, giáo dục con và vthu nhập của anh; chị H có thu nhập cao và
quan tâm đến việc học hành phát triển toàn diện của các con, khnăng nuôi
ỡng con tốt, các con anh chị có sự gắn bó thân thiết với chị, chtha thiết được
nuôi chai con để hạn chế sự xáo trộn vmôi trường sống và giáo dục của các
con, ch có đđiều kiện vthời gian đtrực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con, các con của anh chđều có nguyện vọng được sống cùng với
chvà sống cùng với nhau nên đđảm bảo quyền lợi vmọi mặt của các con
anh ch, HĐXX cần tiếp tục giao cho chị H nuôi cả hai con là phù hợp với khoản
2 Điều 81 của Luật Hôn nhân gia đình. Vnghĩa vcấp dưỡng cho con, chị
H tnguyện không yêu cầu anh D phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con,
HĐXX xét thấy chị H có đkhnăng và điều kiện nuôi dưỡng con, việc chị H
không yêu cầu cấp ỡng là t nguyện nên không cần buộc anh D phải cấp
ỡng cho con là phù hợp với khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung: Anh chị đều không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra
giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Việt H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân
sự thẩm ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 57, 81, 82 83
của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
6
a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228,
khoản 2 Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 của
Luật Thi hành án dân s; Luật phí lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
cho chị Nguyễn Việt H ly hôn anh Phạm Trung D.
2. Về nuôi con: Giao hai con Phạm Nguyễn Hoàng A, sinh ngày
01/01/2015 và Phạm Nguyễn Lã Thiên A, sinh ngày 13/10/2017 cho chNguyễn
Việt H trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị H tnguyện không yêu
cầu anh Phạm Trung D phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Phạm Trung D quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được
cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Việt H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự thẩm ly hôn, được đối trừ vào stiền 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) chđã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0005841 ngày 07 tháng 02 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Chị Nguyễn Việt H đã thực hiện xong nghĩa vụ ván
phí.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bđơn quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị ỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ;
- UBND xã P, huyện Tứ Kỳ (nơi đăng ký kết
hôn)
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Vương Đình Thi
Tải về
Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST Bản án số 25/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất