Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 31/08/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 31/08/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thanh Miện (TAND tỉnh Hải Dương)
Số hiệu: 25/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Vũ Thị Kim Liên xin ly hôn anh Lê Văn Phúc, giải quyết việc nuôi dưỡng con chung.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN THANH MIỆN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 25/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 31/7/2024
"Về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN - HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đào Quang Khuyến.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Triệu Duy Tỏi, bà Phạm Thị Bông.
- Thư phiên toà: Ông Bùi Hoàng Anh - Thư Toà án nhân dân huyện
Thanh Miện.
- Đại diện VKSND huyện Thanh Miện tham gia phiên toà: Bà An Thị Hà T
- Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 7 năm 2024, tại Trụ sở Toà án, Toà án nhân dân huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số 79/2024/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về
nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
28 tháng 6 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số 17/2024/QĐST-HNGĐ ngày
19 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Kim L - sinh năm 1994
Nơi cư trú: Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Chỗ ở: Thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương.
- Bị đơn: Anh Lê Văn P - sinh năm 1990
Nơi cư trú: Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh P vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, quá trình khai tại Toà án và các tài liệu khác có tại hồ
sơ, nguyên đơn chị Vũ Thị Kim L trình bày: Chị và anh Văn P tự nguyện kết
hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương ngày
25/12/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được 03 năm thì
bắt đầu mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về tính cách, cách sống
không hợp nhau, anh P thường xuyên đi uống rượu về chửi bới, đánh đập vợ con
thậm tệ, đã nhiều lần gây thương tích cho chị dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi
vã nhau. Tháng 10/2018 vợ chồng chị về ở nhờ nhà xưởng của b mẹ chị tại Thôn
A, T, huyện T, trong thời gian chung sống đó anh P tiếp tục chửi bới, đánh
đập gây thương tích cho chị. Năm 2021 chị không ở xưởng cùng anh P nữa mà về
cùng với bố mẹ chị trong làng khoảng 03 tháng, anh P gia đình anh P xin
lỗi hứa cam kết không như vậy nữa. nghĩ đến các con chị đã tha thđể vợ
chồng đoàn tụ, sau khi về chung sống anh P vẫn chứng nào tật đấy, không thay đổi,
2
khi đi uống rượu về chửi bới, đánh đập chị. Khoảng tháng 6/2023 vợ chồng thuê
nhà làm xưởng sửa chữa ô tô ở Đ, T, tại đây anh P nhiều lần chửi bới đánh đập chị
thậm tệ, lần bóp cổ chị ngất đi sau đó tưới c cho chị tỉnh lại đánh tiếp.
Mâu thuẫn căng thẳng nhất vào tháng 3/2024 chị không thể chịu đựng được thêm
nữa nên chị đưa cháu Bình A về cùng với bố mẹ đẻ chị tại thôn A, T, huyện
T. Sau khi chị bỏ đi anh P không đến tìm chị lần nào, hai bên gia đình không gặp
nhau lần nào, trong thời gian ly thân vợ chồng không biện pháp nào để hàn gắn
mối quan hệ vchồng. Vợ chồng chính thức ly thân từ tháng 3/2024 đến nay không
quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị xác định tình cảm giữa chị anh P
không còn, không thể hàn gắn được, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Toà án nhân dân
huyện Thanh Miện giải quyết cho chị được ly hôn anh P để hai bên ổn định cuộc
sống riêng.
Về con chung: Chị anh P có 03 con chung là cháu Lê Hải P1, sinh ngày
08/8/2016; Lê Thị Thanh N, sinh ngày 22/11/2018 cháu Bình A, sinh ngày
18/9/2023. Cháu P1cháu N đangvới bố, cháu Bình A đangvới mẹ. Ly hôn
chị đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi dưỡng cháu A, giao cho anh P nuôi dưỡng
cháu P1 cháu N, chị tự nguyện không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con
với chị. Chị hiện đang nuôi con nhỏ dưới 01 tuổi nên chưa thu nhập, khi cháu
A trên 01 tuổi chị cho con đi nhà trẻ sau đó chị đi làm. Chị đang ở cùng với b m
đẻ chị, bố mẹ chtạo điều kiện cho mẹ con chị nơi ở, bố mchị vẫn khỏe mạnh,
sẵn sàng hỗ trợ cho chị về vật chất, tinh thần giúp chị việc trông nom, chăm sóc
nuôi dưỡng con cùng chị, chị cam kết đảm bảo đủ điều kiện để nuôi cháu Bình A.
Anh P làm nghề sửa chữa ô tô, thời điểm chchung sống cùng anh P, thu nhập bình
quân từ 15 đến 20 triệu đồng/tháng nên anh P đảm bảo việc nuôi dưỡng hai con.
vậy, chị đnghị Tòa án giao cho chị nuôi dưỡng cháu A, anh P nuôi dưỡng cháu
P1cháu N. Về tài sản chung, vay nợ, công sức: Chị không yêu cầu Toà án giải
quyết.
Quá trình m việc với Toà án, quá trình khai tại Toà án các tài liệu
khác có tại hồ sơ, bị đơn anh Lê Văn P trình bày: Anh xác định về điều kiện, thời
gian kết hôn thống nhất nphần trình bày của chị L. Quá trình chung sống anh
có đi uống rượu bia, về có chửi bới, đánh vợ và trong làm ăn bị thua lỗ nên anh có
những lời nói không phải với chị L nhưng anh vẫn còn yêu thương vợ con rất nhiều.
Quan điểm của anh vẫn mong muốn hàn gắn vợ chồng để một gia đình trọn vẹn
và các con có bố, có mẹ. Nay chị L xin ly hôn anh không đồng ý, anh đề nghị Tòa
án tiếp tục hòa giải, mong muốn chL suy nghĩ lại và rút đơn về để vợ chồng đoàn
tụ, để vợ chồng nuôi con chung.
Về con chung: Anh và chị L có 03 con chung là cháu Hải P1, sinh ngày
08/8/2016; Lê Thị Thanh N, sinh ngày 22/11/2018 cháu Bình A, sinh ngày
18/9/2023. Cháu P1 và cháu N đang ở với anh, cháu A đang ở với mẹ. Anh không
nhất trí ly hôn nên anh không có quan điểm về việc nuôi dưỡng con chung. Về tài
sản chung, vay nợ, công sức: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.
Lời khai của người thân gia đình chị L là ông Vũ Mạnh H xác định: Ông là
bố đẻ của chị Vũ Thị Kim L và là ông ngoại của cháu Lê Hải P1, Lê Thị Thanh N
3
và cháu Bình A. Quá trình chung sống, chị L và anh P đã phát sinh nhiều mâu
thuẫn. Nguyên nhân là do anh P thường xuyên đi uống rượu, bia về chửi bới đánh
đập vợ thậm tệ gây thương tích cho chị L. Tháng 3/2024 chị L đã đưa cháu A
về chung sống cùng với vợ chồng ông C L, anh P sống ly thân từ đó đến nay không
quan tâm đến cuộc sống của nhau. Chị L xin ly hôn anh P, ông đề nghị Tòa án giải
quyết theo nguyện vọng của chị L. Chị L, anh P 03 con chung cháu Hải
P1, Thị Thanh N cháu Bình A, cháu A đang với m, cháu P1, cháu N
đang với bố. Chị L nguyện vọng nuôi cháu A cháu còn nhỏ, nếu Tòa án
giao cháu A cho chị L nuôi dưỡng, ông sẵng sàng hỗ trợ tạo điều kiện cho
mẹ con chị L về vật chất, nơi ăn, ở và giúp chị L việc chăm sóc con với điều kiện
tốt nhất. Quá trình chung sống chị L, anh P không tài sản chung, nợ chung, công
sức đóng góp gì với ông bà.
Lời khai của ông Lê Văn C1 xác định: Ông là bố đẻ của anh Lê Văn P và là
ông nội của Lê Hải P1, Thị Thanh N và cháu Lê Bình A. Trong thời gian chung
sống anh P, chị L có mâu thuẫn nhưng không đáng kể. Tháng 3/2024 chị L bỏ nhà
về nhà đẻ vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Chị L xin ly hôn anh P, ông
đề nghị Tòa án tiếp tục hòa giải cho anh P, chị L về đoàn tụ để nuôi dạy các con.
Anh P, chị L có 03 con chung là cháu Hải P1, cháu Thị Thanh Ncháu Lê
Bình A. Việc nuôi dưỡng con chung do anh chị quyết định. Anh P hiện đang làm
xưởng sửa chữa ô tô tại thôn T, L, huyện T, thu nhập của anh P cụ thể bao nhiêu
ông không nắm được nhưng anh P vẫn đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu P1 cháu
N. Quá trình chung sống anh P, chị L không có tài sản chung, nợ chung, công sức
đóng góp với ông bà.
Kết quả làm việc, xác minh tại chính quyền địa phương và các đoàn thể
L trình bày: Anh P, chị L có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện T. Trong thời
gian chung sống anh P, chị L xảy ra mâu thuẫn, chị L đã bỏ về nhà đẻ ở. Việc
mâu thuẫn của anh P, chị L cụ thể như thế nào, địa phương không nắm được, khi
mâu thuẫn anh chị không mời địa phương và các đoàn thể hoà giải. Nay, chị L xin
ly hôn anh P, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện anh P
đang làm xưởng sửa chữa ô tại thôn T, L, huyện T, tỉnh Hải Dương. Với công
việc như vậy thì thu nhập của anh P khoảng trên 10 triệu đồng/tháng, còn cụ thể
bao nhiêu địa phương không lắm được.
Tại biên bản lấy lời khai của cháu Hải P1 trình bày: Cháu nguyện vọng
ở với bố khi bố mẹ ly hôn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương phát
biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật. Trong quá trình giải quyết tại phiên
tòa, Thẩm phán, Thư Tòa án và Hội đồng xét xử đã thực hiện theo đúng trình
tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định, bị
đơn chấp hành không đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết
vụ án: Đề nghị Hi đồng xét xáp dụng: Điều 51, 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn
nhân gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Về quan hhôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Kim L được ly hôn anh Lê Văn P.
4
Về con chung: Giao cháu Lê Hải P1, sinh ngày 08/8/2016; Lê Thị Thanh N,
sinh ngày 22/11/2018 cho anh Văn P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Giao cháu nh A, sinh ngày 18/9/2023 cho chị Vũ
Thị Kim Liên tiếp t trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
Chị L, anh P không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Chị L, anh P có
quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về tài sản chung, vay nợ, công sức: Chị Thị Kim L anh Văn P,
không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Về án phí: Buộc chị Vũ Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ
thẩm ly hôn, được đối trừ vào tiền tạm án phí đã np.
NhËn ®Þnh cña tßa ¸n:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: ChThị Kim L là nguyên đơn đơn khởi kiện xin lyn
anh Lê Văn P là bị đơn; Nơi cư trú: thôn K, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương; Quan
hệ pháp luật tranh chấp về Hôn nhân gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28
Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểu a khoản 1 Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Chị L nộp đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân
huyện Thanh Miện thụ giải quyết theo thủ tục thẩm đúng trình tự tố tụng
dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
theo quy định, tại phiên tòa lần thứ hai anh P vẫn vắng mặt không có lý do, chị L
đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b
khoản 2 Điều 227, 228 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để tiến hành xét x
vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Kim Lanh Lê Văn P kết hôn trên
sở tự nguyện, đăng kết hôn tại UBND xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương
ngày 25/12/2015. Cả hai bên đều đã đủ tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đkhi
đăng kết hôn. Đây hôn nhân hợp pháp. Trình bày của chL phù hợp với lời
khai của anh P lời trình bày của người thân hai bên gia đình, nên sở xác
định: Trong quá trình chung sống, chị L, anh P nhiều mâu thuẫn, dẫn đến vợ
chồng thường xuyên đánh cãi nhau, anh P đi uống rượu, bia về đánh chửi chị
nhiều lần và đánh gây thương tích làm chị L nguy hiểm đến tính mạng, cuộc sống
hôn nhân không có hạnh phúc, vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2024, không còn
quan tâm đến cuộc sống của nhau. Chị L xác định tình cảm giữa chị anh P không
còn, không thể hàn gắn được, chị đề nghị được ly hôn anh P. Anh P xác định tình
cảm vchồng vẫn còn, anh vẫn còn yêu thương vợ con nên anh không đồng ý ly
hôn. Anh P mong muốn chị L rút đơn về đoàn tụ nhưng trong thời gian vợ chồng
sống ly thân anh không có biện pháp nào để n gắn mối quan hvợ chồng, không
nhờ họ hàng, bạn bè của hai bên và các đoàn thể của thôn xã hoà giải, khi Toà án
xét xử anh đều vắng mặt không có do. Chị L xác định không còn tình cảm với
anh P, vợ chồng không biện pháp nào để đoàn tụ. Từ những căn cứ nêu trên,
Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa chị L, anh P đã lâm vào tình trạng trầm
5
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần
chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị L, nên xử cho chị Vũ Thị Kim L được
ly hôn anh Lê Văn P là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị L, anh P 03 con chung cháu Hải P1, sinh
ngày 08/8/2016; Lê Thị Thanh N, sinh ngày 22/11/2018 cháu Bình A, sinh
ngày 18/9/2023. Cháu P1 và cháu N đang ở với anh P, cháu A đang ở với mẹ, cháu
P1 có nguyện vọng ở với bố. Ly hôn chị L đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi dưỡng
cháu Bình A, giao cho anh P nuôi dưỡng cháu P1 và cháu N, chị L đang nuôi con
dưới một tuổi nên chưa thu nhập. Anh P làm nghề sửa chữa xe ô tô, theo địa
phương và chị L cung cấp thu nhập của anh khoảng trên 10 triệu đồng/tháng. Xét
nguyện vọng của chị L, anh P thấy rằng: Chị L đang nuôi con dưới một tuổi chưa
thu nhập. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, cháu P1 cháu N do anh P
nuôi dưỡng, anh P vẫn đảm bảo tốt việc nuôi dưỡng hai con, anh P làm nghề sửa
chữa ô thu nhập ổn định, cháu P1 nguyện vọng với bố, khi hoà giải anh P
trình bày mong muốn chị L rút đơn về vchồng đoàn tụ, anh sẽ chịu khó sửa
chữa ô tăng thu nhập để nuôi vợ con nên xác định anh P đủ điều kiện để
nuôi dưỡng cháu P1 và cháu N. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt và sự phát triển
của 03 cháu, Hội đồng xét xử cần giao cháu Bình A cho chị Liên tiếp t nuôi dưỡng.
Giao cháu P1 cháu N cho anh P tiếp tục nuôi dưỡng. Chị L, anh P không phải
cấp dưỡng nuôi con cho nhau và vẫn có quyền đi lại thăm nom con chung, không
ai được cản trở phù hợp với Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về i sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị Thị Kim L
anh Lê Văn P không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Vũ Thị Kim L khởi kiện vụ án Hôn nhân và gia đình nên
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân
gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Kim L được ly hôn anh Lê Văn
P.
2- Về con chung: Xử giao cháu Lê Bình A, sinh ngày 18/9/2023 cho chị
Thị Kim Liên tiếp t trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
Giao cháu Hải P1, sinh ngày 08/8/2016; Lê ThThanh N, sinh ngày 22/11/2018
cho anh Lê Văn P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ
18 tuổi. Chị L, anh P không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Chị L,
anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3-.Về tài sản chung, vay nợ, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết.
6
4. Về án phí: Chị Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự
thẩm ly hôn, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, chị đã nộp theo
biên lai số: 000160 ngày 09/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương, chị L đã thực hiện xong nghĩa vụ về án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa quyền kháng
cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Thanh Miện;
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Thanh Miện;
- UBND xã Lam Sơn, huyện Thanh Miện;
(để ghi vào sổ hộ tch).
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Đào Quang Khuyến
Tải về
Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất