Bản án số 236/2025/DS-PT ngày 07/05/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 236/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 236/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 236/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 236/2025/DS-PT ngày 07/05/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Cần Thơ |
Số hiệu: | 236/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa một phần bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 236/2025/DS-PT
Ngày 07/5/2025
“V/v tranh chấp yêu cầu phân chia
tài sản chung và hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Bảo Anh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Chế Linh
Ông Nguyễn Văn Hải
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Phong Lan – Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Bà Nguyễn Thị
Thủy - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Trong các ngày 05 và 07 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 553/2024/TLPT-
DS ngày 30 tháng 12 năm 2024 về tranh chấp về “yêu cầu phân chia tài sản
chung và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 553/2025/QĐ-PT ngày
17 tháng 3 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 553/QĐPT-DS ngày
04/4/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Quách Đại A, sinh năm 1978 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện V, TP ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
Thanh T, thành viên Công ty L4, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
2. Bị đơn: Ông Quách Đại H, sinh năm 1972 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, TP ..
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lý Yến P, sinh năm 1972

2
Người đại diện theo ủy quyền của bà P: Ông Quách Đại H, sinh năm 1972
(theo văn bản ủy quyền ngày 25/4/2025).
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, TP ..
3.2. Ông Lê Văn L, sinh năm 1977 (có mặt)
3.3. Bà Trương Thị D, sinh năm 1979 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, TP ..
3.4. Ông Nguyễn Huy P1, sinh năm 1993 (có mặt)
3.5. Bà Thạch Thị Út T1, sinh năm 1994 (có mặt)
Địa chỉ: Khu V, phường T, quận T, thành C.
3.6. Ông Hà Văn T2, sinh năm 1971 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, TP ..
3.7. Ông Quách Đại Q, sinh năm 1961 (có mặt)
Địa chỉ: Khu V, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.
3.8. Bà Trịnh Thu H1, sinh năm 1966
Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Quách Thanh S, sinh năm
1990; địa chỉ: Khu V T, phường T, quận T, TP ..
3.9. Ông Quách Thanh S, sinh năm 1990
Địa chỉ: Khu V, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.
3.10. Ngân hàng N3.
Địa chỉ: Số B L, phường T, quận B, TP . Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V, Chức danh: Tổng Giám đốc
Đại diện theo quyền: Ông Phan Văn S1, Chức danh: Trưởng phòng Khách
hàng Ngân hàng N3 – Chi nhánh C2 - Cần Thơ II.
Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP . Cần Thơ (Theo văn bản ủy quyền
ngày 25/7/2024), (yêu cầu giải quyết vắng mặt).
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Quách Đại A và bị đơn ông Quách Đại
H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Quách Đại A trình bày:
Ông Quách Đại Q1 (sinh năm 1930, chết năm 1990) và bà Nguyễn Thị B
(sinh năm 1935, chết năm 2000) là vợ chồng và có với nhau 08 người con, gồm
các ông Quách Đại N, Quách Đại Q, Quách Đại B1, Quách Tấn T3, Quách Đại
L1, Quách Đại H, Quách Đại A, Quách Minh H2. Lúc còn sống, ông bà tạo lập
được diện tích 7.300m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Hậu Giang (nay là
ấp T, xã T, huyện C, TP . Cần Thơ) do ông Quách Đại Q1 đứng tên sử dụng theo
sổ mục kê, bao gồm thửa đất số 776, diện tích 300m
2
(T) và 1.600m
2
(LNK);
thửa đất số 824, diện tích 5.400m
2
(2L). Trong quá trình sử dụng đất, trước năm
3
1990, các ông Quách Đại N, Quách Đại Q, Quách Đại B1, Quách Tấn T3, Quách
Đại L1 có vợ nên đã đi nơi khác sinh sống, chỉ còn cha mẹ ông là ông Q1, bà B
và ông, ông H, ông H2 cùng sinh sống với nhau.
Đến năm 1990, ông Q1 chết, năm 1992 ông H bỏ nhà đi tu đến sau này mới
về lại. Vì vậy, chỉ còn bà B, ông, ông H2 sinh sống cùng nhau và do ông trực
tiếp canh tác đất nuôi bà B và ông H2 bị bệnh tâm thần.
Thấy ông vất vả nuôi bà B và ông H2 nên năm 1998, bà B đã tặng cho ông
diện tích 1.400m
2
tại thửa đất số 776 để ở và thờ cúng ông bà, đó chính là diện
tích căn nhà mà gia đình cùng sinh sống từ trước đến lúc tặng cho và diện tích
đất xung quanh.
Sau khi bà B chết năm 2000 và ông H2 chết năm 2001, do hoàn cảnh kinh
tế gia đình gặp khó khăn nên ông tạm thời về bên vợ tại ấp T, xã T, huyện V, TP
. Thơ sinh sống và làm ăn tại đây, nhưng ông vẫn thường xuyên tới lui chăm sóc
nhà cửa, mộ ông bà.
Đến năm 2019, ông H trở về và ở trong căn nhà của gia đình, đồng thời còn
sửa chữa lại căn nhà này. Ngoài ra còn kêu bán đất (thông báo chuyển nhượng
quyền sử dụng đất). Khi hay tin ông có đứng ra ngăn cản và mới biết được hai
thửa đất số 776, 824, diện tích 7.300m
2
, gồm thửa đất số 776, diện tích 1.900m
2
(T và LNK) và thửa đất số 824, diện tích 5.400m
2
(2L), tọa lạc tại ấp T, xã T,
huyện T, tỉnh Hậu Giang (nay là ấp T, xã T, huyện C, TP . Cần Thơ) được Ủy
ban nhân dân huyện T (nay là huyện C) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
ruộng đất số: 3478/GCN/RĐ ngày 01/12/1991 (giấy trắng) cho hộ Quách Đại H,
đến ngày 20/5/1997 được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy đỏ)
(vào sổ cấp GCNQSDĐ số 000118 do UBND huyện T (nay là huyện C) cho hộ
ông Quách Đại H). Tiếp theo ông H đã chuyển nhượng cho các cá nhân khác và
còn lại diện tích như sau:
Năm 1999 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Yến P2 diện tích 3.250m
2
(LUC) tại thửa đất số 824. Thửa đất số 776 là 1.900m
2
(300m
2
ONT và 1.600m
2
CLN) và Thửa đất số 824 còn lại là 2.150m
2
(LUC).
Năm 2004 chuyển nhượng cho ông Trần Phước C diện tích 2.150m
2
(LUC)
tại thửa đất số 824; chuyển nhượng cho ông Hà Văn T2 diện tích 456m
2
(CLN)
tại thửa đất số 776. Diện tích còn lại Thửa đất số 776 là 1.444m
2
(300m
2
ONT
và 1.144m
2
CLN).
Sau khi chuyển nhượng, hộ ông Quách Đại H được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 776, diện tích 1.444m
2
(300m
2
ONT và 1.144m
2
CLN) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do
4
UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004, tọa lạc tại ấp T, xã T,
huyện V (nay là huyện C), TP ..
Tuy việc ông H tự ý đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác mà không có bất kỳ thành
viên nào khác trong gia đình biết là trái với quy định pháp luật nhưng ông không
muốn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông H mà chỉ yêu cầu được chia đúng
với diện tích được bà B tặng cho trước đây.
Theo thực tế sử dụng hiện nay, thửa đất số 776, ông H đã chuyển nhượng
cho ông Hà Văn T2 diện tích 384,7m
2
; ông Nguyễn Huy P1 và bà Thạch Thị Út
T1 diện tích 112,1m
2
, ông đã chuyển nhượng cho ông Lê Văn L và bà Trương
Thị D diện tích 73,5m
2
, còn lại ông H chiếm sử dụng diện tích 990,7m
2
.
Do thành viên hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm
1997, hiện nay chỉ còn lại ông và ông H nên ông khởi kiện với yêu cầu được chia
tài sản chung là quyền sử dụng đất và đòi quyền sử dụng đất tại thửa đất số 776,
diện tích 1.444m
2
(300m
2
ONT và 1.144m
2
CLN) như sau (theo Bản trích đo địa
chính số: 1182/TTKTTNMT ngày 17/10/2023 của Trung tâm kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thành phố C):
Ông yêu cầu được chia quyền sử dụng đất với diện tích 1.064,2m
2
(200m
2
ONT và 864,2m
2
CLN), gồm phần B – 73,5m
2
(ONT) và phần D – 990,7m
2
(126,5m
2
ONT và 864,2m
2
CLN).
Đồng ý công nhận cho ông Quách Đại H sử dụng diện tích 496,8m
2
(100m
2
ONT và 396,8m
2
CLN), gồm phần A – 384,7m
2
(CLN) và phần C – 112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN).
Đối với diện tích 73,5m
2
(ONT) – phần B, ông đồng ý chuyển nhượng cho
ông Lê Văn L và bà Trương Thị Diệu .
Riêng diện tích mà ông Quách Đại H đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn
Thị Yến P2, ông Trần Phước C, ông Hà Văn T2 đã được tách thửa và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, ông sẽ khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung nếu
ông và ông H không tự thỏa thuận được.
- Bị đơn ông Quách Đại H trình bày:
Ông Quách Đại Q1 (sinh năm 1930, chết năm 1990) và bà Nguyễn Thị B
(sinh năm 1935, chết năm 2000) là vợ chồng và có với nhau 07 người con, gồm
các ông Quách Đại N, Quách Đại Q, Quách Đại B1, Quách Tấn T3, Quách Đại
L1, Quách Đại H, Quách Đại A, Quách Minh H2. Lúc còn sống ông bà tạo lập
được diện tích 7.300m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Hậu Giang (nay là
ấp T, xã T, huyện T, TP . Cần Thơ) do ông Quách Đại Q1 đứng tên sử dụng theo
sổ mục kê, bao gồm thửa đất số 776, diện tích 300m
2
(T) và 1.600m
2
(LNK);
5
thửa đất số 824, diện tích 5.400m
2
(2L). Trong quá trình sử dụng đất, năm 1990
ông Q1 chết nên mẹ ông là bà B và các anh là Q, Báo, T3, N cho ông đại diện
hộ đứng tên đăng ký, cấp quyền sử dụng đất.
Vào ngày 01/12/1991 Ủy ban nhân dân huyện T (nay là huyện C) cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất số: 3478/GCN/RĐ ngày (giấy trắng) cho
hộ Quách Đại H tại hai thửa đất số 776, 824, diện tích 7.300m
2
, gồm thửa đất số
776, diện tích 1.900m
2
(T và LNK) và thửa đất số 824, diện tích 5.400m
2
(2L),
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Hậu Giang (nay là ấp T, xã T, huyện T, TP .
Cần Thơ). Hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất gồm có 06
thành viên là ông, bà B, ông Q, ông B1, ông A và ông H2.
Đến ngày 20/5/1997 được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy
đỏ) (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 000118 do UBND huyện T (nay là huyện C) cấp
ngày 20/5/1997 cho hộ ông Quách Đại H).
Năm 1996 bà B bán cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q2, bà Trần Thị T4
diện tích 3.250m
2
đất ruộng tại thửa đất số 824 với giá 62,5 chỉ vàng 24K. Khi
bán có làm giấy tay bằng “Tờ sang nhượng ruộng đất” đề ngày 26/10/1996.
Trong giấy tay có chữ ký của Nguyễn Thị B, Quách Đại H, Quách Đại N, Quách
Đại Q, Quách Đại B1, Quách Tấn T3, Quách Đại A, Quách Minh H2. Tuy nhiên,
khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào năm 1999 thì do ông ký
tên chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Yến P2 với lý do, đất do ông đứng tên
sử dụng, bà P2 là con của ông Q2, bà T4 nên ông Q2, bà T4 để cho bà P2 đứng
tên nhận chuyển nhượng.
Năm 2001 chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trần Phước C (C1), bà
Nguyễn Thị Yến P2 diện tích 2.150m
2
đất ruộng tại thửa đất số 824 với giá 36
chỉ vàng 24K. Khi bán có làm giấy tay bằng “Giấy chuyển nhượng ruộng đất”
đề ngày 10/01/2001. Trong giấy tay có chữ ký của Nguyễn Thị B, Quách Đại H,
Quách Đại A, Quách Minh H2. Tuy nhiên, khi ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất vào năm 2004 thì do ông ký tên chuyển nhượng cho ông Trần
Phước C (C) với lý do, đất do ông đứng tên sử dụng.
Trước khi bán cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q2, bà Trần Thị T4; vợ chồng
ông Trần Phước C (C1), bà Nguyễn Thị Yến P2, bà B có bán cho ông Hà Văn
T2 diện tích 456m
2
đất cây lâu năm tại thửa đất số 776 với giá 15 chỉ vàng 24K.
Khi bán có làm giấy tay nhưng đã thất lạc nên không thể cung cấp cho Tòa án.
Đến 2004 thì do ông ký tên chuyển nhượng với lý do, đất do ông đứng tên sử
dụng.
Sau khi chuyển nhượng, hộ ông Quách Đại H được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 776, diện tích 1.444m
2
(300m
2
ONT và 1.144m
2
6
CLN), tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ (vào sổ
cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày
26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H).
Tất cả hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà P2, ông C1
(Chiếu), ông T2 được lập tại cơ quan nhà nước và được lưu giữ chỉ do ông ký
tên chuyển nhượng, các thành viên khác trong hộ không có ký tên.
Ngoài ra, diện tích thửa đất số 776 còn bán cho các ông, bà như sau:
Ông bán cho L2 diện tích bao nhiêu không nhớ với giá khoảng 7.000.000
đồng đến 8.000.000 đồng. Sau đó ông L2 bán lại cho ông Hà Văn T2. Theo diện
tích được đo đạc là 384,7m
2
.
Ông Quách Đại A và vợ là Nguyễn Thị T5 bán cho ông Võ Thành N1 diện
tích và giá bao nhiêu không rõ. Sau đó ông N1 bán lại vợ chồng ông Nguyễn
Huy P1 và bà Thạch Thị Út T1. Theo diện tích được đo đạc là 112,1m
2
. Do ông
N1 nói diện tích ông A, bà T5 bán cho ông N1 chưa được sang tên nên ông là
người đứng ra làm giấy tay bán cho ông P1, bà T1.
Ông Quách Đại A và vợ là Nguyễn Thị T5 bán cho vợ chồng ông Lê Văn
L và bà Trương Thị D diện tích 73,5m
2
theo như đo đạc.
Do vậy ông không đồng ý chia đất theo yêu cầu khởi kiện của ông Quách
Đại A. Tuy nhiên, phần diện tích đất ông A đã bán cho ông L và bà D, ông P1
và bà T1, ông đồng ý chia cho ông A để ông A hoàn thành các thủ tục sang tên
quyền sử dụng đất cho những người mua, cụ thể đồng ý tiếp tục bán cho ông L,
bà D diện tích 73,5m
2
(ONT) – phần B; ông P1, bà T1 diện tích 112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN) – phần C.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Ông Lê Văn L và bà Trương Thị Diệu thống N2 trình bày:
Ngày 01/4/2009 ông Quách Đại A và vợ là bà Nguyễn Thị T5 chuyển
nhượng cho ông bà diện tích đất thổ cư (ONT) ngang 4m, dài 25m, tọa lạc tại ấp
T, xã T, huyện C, TP . Thơ với giá 14.000.000 đồng, việc chuyển nhượng có lập
giấy tay chứ không có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được
công chứng, chứng thực theo đúng quy định pháp luật. Sau khi chuyển nhượng,
ông bà đã xây nhà ở ổn định đến nay. Nay giữa ông Quách Đại A và ông Quách
Đại H xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến diện tích mà ông bà
đã nhận chuyển nhượng nên ông bà yêu cầu độc lập với nội dung là yêu cầu Tòa
án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A, bà T5 và
ông bà với diện tích 73,5m
2
(ONT) – phần B thuộc một phần thửa đất số 776,
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, TP . Cần Thơ (theo bản trích đo địa chính số:
1182/TTKTTNMT ngày 17/10/2023 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi
7
trường thành phố C).
+ Ông Nguyễn Huy P1 và bà Thạch Thị Út T1 thống nhất trình bày:
Ngày 06/11/2017 ông Quách Đại H và vợ là bà Lý Yến P chuyển nhượng
cho ông bà diện tích đất thổ cư (ONT) 150m
2
(ngang 06m, dài 25m) thuộc một
phần thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, TP . Thơ với giá 60.000.000
đồng, việc chuyển nhượng có lập giấy tay bằng “Hợp đồng mua bán đất thổ cư”
chứ không có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được công
chứng, chứng thực theo đúng quy định pháp luật. Sau khi chuyển nhượng, ông
bà đã xây nhà ở ổn định đến nay. Nay giữa ông Quách Đại A và ông Quách Đại
H xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến diện tích mà ông bà đã
nhận chuyển nhượng nên ông bà yêu cầu độc lập với nội dung là yêu cầu Tòa án
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H, bà D và ông
bà với diện tích 112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN) – phần C thuộc một phần
thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, TP . Cần Thơ (theo bản trích đo
địa chính số: 1182/TTKTTNMT ngày 17/10/2023 của Trung tâm kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thành phố C).
+ Ông Hà Văn T2 trình bày:
Vào khoảng năm 2014, ông Quách Đại H chuyển nhượng cho ông diện tích
đất cây lâu năm (CLN) 380m
2
thuộc một phần thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T,
xã T, huyện C, TP . Thơ với giá 45.000.000 đồng, theo đo đạc là 384,7m
2
– phần
A. Việc chuyển nhượng có lập giấy tay chứ không có lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và được công chứng, chứng thực theo đúng quy định
pháp luật. Sau khi chuyển nhượng, ông đã sử dụng đất bằng việc san lắp mương,
trồng cây và sử dụng ổn định đến nay. Nay giữa ông Quách Đại A và ông Quách
Đại H xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng không có liên quan đến diện
tích mà ông H đã chuyển nhượng cho ông nên ông và ông H tự thỏa thuận giải
quyết.
+ Ông Quách Đại Q trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của ông Quách Đại H. Ông là thành viên hộ
ông Quách Đại H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông có ý
kiến như sau: Phần diện tích đất ông được hưởng sẽ giao lại (tặng cho) ông H
được quyền sử dụng.
Trong các anh em, ông Quách Đại L1, ông Quách Minh H2 chết nhưng
không có con. Ông Quách Đại N chết, có con là Quách Trung H3, ông Quách
Đại B1 chết, có con là Quách Thanh S; ông Quách Tấn T3 chết, có còn là Quách
Hải L3.
+ Ông Quách Thanh S và bà Trịnh Thu H1 thống nhất trình bày:
8
Bà Trịnh Thu H1, ông Quách Thanh S là vợ và con của ông Quách Đại B1,
ông B1 là thành viên trong hộ ông Quách Đại H được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng ruộng đất số: 3478/GCN/RĐ ngày 01/12/1991. Ông B1 chết năm 2007
nên bà H1 và ông S là người thừa kế của ông B1, không có người nào khác. Nay
giữa ông A và ông H tranh chấp, bà H1 và ông S có ý kiến như sau: Phần diện
tích đất ông B1 được hưởng và do bà H1, ông S thừa kế sẽ giao lại (tặng cho)
ông H được quyền sử dụng.
+ Bà Lý Yến P không cung cấp lời khai trong quá trình tố tụng.
+ Ngân hàng N3 (tên viết tắt: A1) ủy quyền cho ông Phan Văn S1 trình bày:
Giữa A1 – Chi nhánh C2 - C, Phòng G và ông Quách Đại H ký kết hợp
đồng tín dụng số: 1809-LAV-202200992 ngày 05/5/2022 có nội dung A1 cho
ông H vay số tiền 90.000.000 đồng, mục đích cho vay là để phục vụ hoạt động
kinh doanh hoặc nhu cầu đời sống, thời hạn vay là 36 tháng (đến hết ngày
05/5/2025), lãi suất 10,5%/năm.
Căn cứ Nghị định số: 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ và
Nghị định số: 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều Nghị định số: 55/2015/NĐ-CP, khoản vay của ông H dưới
200.000.000 đồng nên không phải đăng ký giao dịch đảm bảo nhưng phải giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho A1 giữ nhằm mục đích khi ông H vi
phạm nghĩa vụ thanh toán, A1 sẽ khởi kiện và sau đó có yêu cầu phát mãi thửa
đất ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông H giao cho A1 là giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Quách Đại H tại thửa đất số 776, tờ bản
đồ số 07, diện tích 1.444m
2
, MĐSD: 300m
2
thổ cư và 1.144m
2
LNK, tọa lạc tại
ấp T, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ (nay là ấp T, xã T, huyện C, thành phố
Cần Thơ) (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00137 do UBND huyện V (nay là huyện
C) cấp ngày 09/6/2004 cho hộ ông Quách Đại H).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông H thực hiện đúng nghĩa vụ thanh
toán gốc, lãi cho A1. Tính đến ngày 05/7/2024, ông H còn dư nợ gốc là
54.600.000 đồng.
Nay giữa ông Quách Đại A và ông Quách Đại H có tranh chấp chia tài sản
chung là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C,
thành phố Cần Thơ, A1 có ý kiến như sau:
Do ông H thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán nợ cho A1 nên A1 không
khởi kiện yêu cầu ông H thanh toán nợ trong vụ án này, nhưng nếu ông H muốn
nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải tất toán nợ cho A1.
Đối với tranh chấp giữa ông A và ông H, Ngân hàng không có ý kiến. A1
9
xin không tham gia tố tụng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Quách Đại A đối với
Quách Đại H.
1.1. Ông Quách Đại H có nghĩa vụ chia, giao cho ông Quách Đại A diện
tích đất 358,2m
2
, gồm 73,5m
2
(ONT) – phần B và 284,7m
2
(63,25m
2
ONT và
221,45 CLN) – phần E thuộc thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V
(nay là huyện C), TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND
huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H) và trả
giá trị cho ông Quách Đại A số tiền 82.951.000 đồng.
1.2. Ông Quách Đại H được quyền sử dụng diện tích đất 1.202,8m
2
, gồm
384,7m
2
(CLN) – phần A, 112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN) – phần C và
706m
2
(63,5m
2
ONT và (642,5m
2
CLN) thuộc thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T,
xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089
do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại
H).
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Văn L đối với ông Quách Đại A.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quách
Đại A, bà Nguyễn Thị T5 và ông Lê Văn L, bà Trương Thị D tại thửa đất số 776,
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ, diện tích 73,5m
2
(ONT) – phần B (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là
huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H).
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Huy P1 đối với ông Quách
Đại H.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quách
Đại H, bà Lý Yến P và ông Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 tại thửa đất số
776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ, diện tích
112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN) – phần C (vào sổ cấp GCNQSDĐ số
00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông
Quách Đại H).
4. Vị trí, kích thước có bản trích đo địa chính số: 738/VPĐKĐĐ ngày
18/9/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C kèm theo.
5. Ngân hàng N3 có nghĩa vụ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ
(vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày
10
26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H) để những người có quyền và lợi ích làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định pháp luật.
Ông Quách Đại A, ông Quách Đại H, ông Lê Văn L, bà Trương Thị D, ông
Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C),
TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là huyện
C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H) để điều chỉnh và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quách Đại H, ông Quách Đại A, ông Lê
Văn L, bà Trương Thị D, ông Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 theo qui định
pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí xem xét thẩm định, định giá
tài sản và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định.
Ngày 01/10/2024, nguyên đơn ông Quách Đại A và bị đơn ông Quách Đại
H kháng cáo.
Ông A đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, với các yêu cầu như sau:
+ Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc chia tài sản chung là quyền
sử dụng đất tại thửa 824, diện tích 5.400m
2
, 2L và thửa 776, diện tích 1.444m
2
(trong đó: 300m
2
ONT và 1.144m
2
CLN), tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, thành
phố Cần Thơ do hộ ông Quách Đại H đứng tên quyền sử dụng.
+ Nguyên đơn đồng ý chuyển nhượng cho ông Lê Văn L và bà Trương Thị
D diện tích 73,5m
2
đất ONT tại vị trí B và chuyển nhượng cho ông Nguyễn Huy
P1 và bà Thạch T6 Út Tình diện tích 112,1m
2
ONT tại vị trí C Bản trích đo địa
chính.
Ông Quách Đại H đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, với các yêu cầu
sau:
+ Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quách Đại A về việc chia
quyền sử dụng đất tại thửa 776, diện tích 1.444m
2
đất ONT, CLN đất tọa lạc tại
ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 00089 do Ủy ban nhân dân huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004
cho hộ ông Quách Đại H.
+ Đề nghị xem xét giảm tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bị đơn.
Ngày 19/12/2024, bị đơn ông H có đơn kháng cáo bổ sung nộp cho Tòa án
cấp phúc thẩm đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại do cấp sơ thẩm có
nhiều sai sót nghiêm trọng với các lý do sau:
Cha mẹ của nguyên đơn và bị đơn là ông Quách Đại Q1 (chết năm 1990)
11
và bà Nguyễn Thị B (chết năm 2000) nên vụ kiện tranh chấp về chia di sản thừa
kế, không phải là chia tài sản chung như án sơ thẩm xác định. Nguyên đơn được
cha mẹ cho đất nhưng không sử dụng mà lại sang bán hết (ngày 01/4/2029, sang
nhượng cho vợ chồng ông Lê Văn L 73,5m
2
với giá 14.000.000 đồng và ngày
04/7/2010 sang nhượng cho vợ chồng ông Võ Thành N1 112,1m
2
với giá
29.000.000 đồng, do ông N1 không sử dụng nên sau đó sang nhượng lại cho ông
Nguyễn Huy P1 với số tiền 60.000.000 đồng). Khi giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm
không xem xét, đánh giá đầy đủ chứng cứ, chỉ nghiêng về phía ông A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn, bị đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu quan
điểm tranh luận: Cấp sơ thẩm xác định các thửa đất 776 và 824 là của hộ gia
đình và có 06 thành viên chung hộ theo lời trình bày của các bên là phù hợp.
Nhưng khi xem xét phân chia di sản thừa kế của bà B và ông H2 để lại trong
khối tài sản chung thì chưa rõ ràng, vì chưa làm rõ hàng thừa kế. Các phần đất
đã chuyển nhượng cho ông C (C1), bà Yến P2, ông T2 thì ông A và bà B có tham
gia giao dịch hay không chưa được xác định rõ. Nguyên đơn yêu cầu chia 02
thửa đất 824 và 776 nhưng cách thức trình bày không thật sự rõ ràng trong đơn,
cấp sơ thẩm ghi nhận ý kiến của nguyên đơn không yêu cầu chia thửa đất 824 là
không đúng. Ngoài ra, cấp sơ thẩm không triệu tập đầy đủ những người nhận
chuyển nhượng đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, xác định loại đất được chia không phù hợp tại các vị trí theo Bản trích
đo địa chính.
Từ những vấn đề nêu trên, Luật sư đề nghị trường hợp cấp phúc thẩm không
thế chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn để sửa án thì cần hủy án sơ thẩm, giải
quyết lại vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đương
sự chấp hành đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo: Kiểm sát viên phân tích các tình tiết, tài liệu, chứng
cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án, xác định:
Trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn chia cho nguyên đơn tổng diện tích 433,61m
2
gồm vị
trí B và E là 358,2m
2
, phần còn thiếu là 75,41m
2
buộc bị đơn có trách nhiệm trả
giá trị quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là 82.951.000 đồng là chưa phù hợp.
Bởi vì, khi phân chia thừa kế đối với di sản của bà B và ông H2 để lại trong khối
tài sản chung của hộ, cấp sơ thẩm chỉ chia 1/3 cho nguyên đơn thừa hưởng là
không đúng. Bả B có 08 người con, ông L và ông H2 là con của bà B chết nhưng
12
không có người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Di sản của bà B và ông L
phải được chia cho 06 kỷ phần cho nguyên đơn mới phù hợp.
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chỉ yêu cầu chia tài sản chung của thửa
776, không yêu cầu chia thửa 824 nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử trong phạm vi
đơn khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định. Tại phiên tòa phúc
thẩm nguyên đơn yêu cầu chia thửa 824 là vượt quá phạm vi xét xử cấp phúc
thẩm được quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, kháng cáo của
nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.
Đối với kháng cáo của ông Quách Đại H, yêu cầu giảm tiền án phí dân sự
sơ thẩm. Xét thấy theo bản án sơ thẩm tuyên buộc ông có nghĩa vụ chịu án phí
dân sự sơ thẩm là 49.530.000 đồng, tại phiên tòa phúc thẩm ông cung cấp đơn
xin miễn, giảm án phí có xác nhận của chính quyền địa phương hiện nay hoàn
cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm 50% án phí
dân sự sơ thẩm cho ông H theo quy định.
Đối với số tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản là 8.000.000 đồng, Tòa
án cấp sơ thẩm buộc bị đơn ông H phải nộp là chưa phù hợp theo khoản 2 Điều
165 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ông A cũng nhận được 1/6 tài sản chung
của hộ nên ông cũng phải chịu số tiền chi phí tố tụng tương ứng là 1.330.000
đồng mới đúng.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, sửa một bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 18/9/2024
của Tòa án nhân dân quận huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ theo hướng không
chấp nhận đơn kháng cáo của ông Quách Đại A và chấp nhận một phần đơn
kháng cáo của ông Quách Đại H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Quách Đại A về yêu cầu phân chia
thửa đất 776 do hộ ông Quách Đại H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng:
Đất tranh chấp thửa số 776, diện tích đo đạc thực tế là 1.561m
2
(trong đó:
300m
2
T và phần còn lại 1.261m
2
CLN) có nguồn gốc do ông Quách Đại Q1
(sinh năm 1930, chết năm 1990) và bà Nguyễn Thị B (sinh năm 1935, chết năm
2000) là cha mẹ của nguyên đơn và bị đơn tạo lập. Sau khi ông Q1 chết, bị đơn
ông H kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất
vào năm 1991, đến năm 1997 thì cấp đổi giấy đỏ cho hộ ông H.
Theo lời trình bày của các đương sự và các tài liệu xác thực về hộ tịch thì
thời điểm Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông H, chỉ có
06 thành viên có quan hệ hôn nhân, huyết thống trong hộ gồm: Bà Nguyễn Thị
13
B, ông Quách Đại Q, ông Quách Đại B1, ông Quách Đại H, ông Quách Đại A,
ông Quách Minh H2 và những thành viên này được xác định là đồng chủ sử dụng
đất theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013. Như vậy, ông A
sẽ được nhận 1/6 trong khối tài sản chung đối với thửa đất 776 là 260,16m
2
(1.561m
2
: 6).
Bà B chết và có 08 người con nhưng có 02 người là ông L và ông H2 không
có người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên di sản của bà B (là 1/6 diện
tích đất thửa 776 là 260,16m
2
) được chia cho 06 kỷ phần, mỗi kỷ phần là 43,36m
2
(260,16m
2
: 6). Tương tự, ông H2 chết không có vợ con, cha mẹ của ông cũng
đã mất, ông L là anh ruột của ông H2 đã mất và không có người thừa kế nên di
sản của ông H2 (là 1/6 diện tích đất thửa 776 là 260,16m
2
) được chia cho 06 kỷ
phần, mỗi kỷ phần là 43,36m
2
(260,16m
2
: 6). Án sơ thẩm xác định ông A được
hưởng 1/3 di sản của bà B và ông H2 là không đúng về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật. Như vậy, khi phân chia tài sản chung và thừa kế thì ông A được
nhận: 260,16m
2
+ 43,36m
2
(kỷ phần thừa kế của bà B) + 43,36m
2
(kỷ phần thừa
kế của ông H2) = 346,88m
2
.
Trừ diện tích đất ông A đã sang nhượng cho vợ chồng ông L 73,5m
2
nên
còn được chia 273,38m
2
.
[3] Theo vị trí đất thể hiện tại Bản trích đo địa chính nên công nhận phần
đất tại vị trí E, diện tích 284,7m
2
cho ông A sử dụng như án sơ thẩm quyết định
là phù hợp. Tuy nhiên, do ông A chỉ được chia tài sản, hưởng di sản thừa kế diện
tích đất và trừ phần đã sang nhượng cho vợ chồng ông L như nêu trên còn lại là
273,38m
2
nên ông phải có trách nhiệm bồi hoàn giá trị đất chênh lệch 11,32m
2
theo định giá 1.1000.000 đồng/m
2
tương ứng số tiền là 12.452.000 đồng cho ông
H. Cấp sơ thẩm buộc ông H phải trả giá trị cho ông A phần đất chênh lệch diện
tích đất 75,41m
2
thành tiền là 82.951.000 đồng là không phù hợp. Vì vậy, kháng
cáo của ông H có căn cứ chấp nhận một phần.
Đối với phần đất tại vị trí C, diện tích 112,1m
2
theo Bản trích đo địa chính
do ông Nguyễn Huy P1 đang sử dụng thì thấy rằng:
Phần đất nêu trên do vợ chồng ông Quách Đại H, bà Lý Yến P sang nhượng
cho vợ chồng ông Nguyễn Huy P1 và vợ là bà Thạch Thị Út T1 với giá
60.000.000 đồng theo “Tờ hợp đồng mua bán đất thổ cư” viết tay ngày
06/11/2017, có chữ ký tên của ông H và bà P là bên sang nhượng. Ông P1 cũng
xác nhận giao dịch mua đất của ông H. Bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền
và nhận đất sử dụng cho đến nay. Vì vậy, cấp sơ thẩm công nhận giao dịch
chuyển nhượng đất theo yêu cầu của bên nhận chuyển nhượng là phù hợp.
14
[4] Theo Bản trích đo địa chính số: 738/VPĐKĐĐ ngày 18/9/2024 của
Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C thì diện tích 990,7m
2
mà nguyên đơn
yêu cầu được nhận, được tách thành hai phần, gồm:
Diện tích 706m
2
– phần D (có căn nhà và nền mộ hiện do ông H quản lý sử
dụng) và diện tích 284,7m
2
– phần E (từ giáp nền mộ đến ranh đất của hộ liền kề
do ông A đang sử dụng). Do đó, cần chia giao cho ông A nhận phần đất tại vị trí
E và ông H nhận phần đất tại vị trí D để tiện cho việc sử dụng là phù hợp.
[5] Trước khi được cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm
2004 thì trước đó, ông Quách Đại H có chuyển nhượng cho ông Hà Văn T2 một
phần diện tích thửa đất 776, diện tích 456m
2
và đã được tách thửa. Khi giải
quyết ở cấp sơ thẩm, ông A không yêu cầu đối với phần đất đã chuyển nhượng,
tách thửa trong vụ án này nên cấp sơ thẩm không xem xét, khi nào phát sinh
tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
Do vậy, cấp sơ thẩm chỉ xem xét phân chia tài sản chung cho nguyên đơn
và một phần được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật như nêu trên đối với phần
còn lại của thửa đất 776 (sau khi tách thửa cho ông T2) theo đo đạc thực tế, diện
tích 1.561m
2
là phù hợp, đảm bảo được quyền, lợi ích của nguyên đơn. Nguyên
đơn kháng cáo yêu cầu được chia, hưởng nhiều hơn diện tích đất mà cấp sơ thẩm
đã phân chia và quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn nêu ra là chưa đủ cơ sở để chấp nhận. Bị đơn ông Quách Đại H
kháng cáo, đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn về chia tài sản chung đối với
thửa đất 776 cũng là không phù hợp nên không được chấp nhận.
[5] Xét kháng cáo của nguyên đơn về việc đòi chia thửa đất 824, diện tích
5.400m
2
(LUC) do hộ ông Quách Đại H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (trước khi thực hiện tách thửa):
Trước đây vào năm 1999, ông H chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Yến
P2 diện tích 3.250m
2
(LUC) và đến năm 2004, ông H tiếp tục chuyển nhượng
cho ông Trần Phước C diện tích 2.150m
2
(LUC). Những người nhận chuyển
nhượng đất đã được tách thửa, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.
Tại đơn khởi kiện ngày 19/9/2022 (bút lục 141) và khi giải quyết vụ án ở
cấp sơ thẩm, nguyên đơn không yêu cầu phân chia tài sản chung đối với thửa đất
số 824. Nguyên đơn cho rằng sẽ khởi kiện sau nếu nguyên đơn và bị đơn không
tự thỏa thuận được. Do vậy, cấp sơ thẩm chưa xem xét giải quyết thửa đất 824
nêu trên. Giai đoạn xét xử phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu bị đơn
phân chia thửa đất 824 là vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm nên không có cơ
sở xem xét.
15
[6] Đối với diện tích đất 384,7m
2
– phần A (một phần thửa 776) theo Bản
trích đo địa chính số 738/VPĐKĐĐ ngày 18/9/2024, bị đơn ông H sang nhượng
cho ông L2, sau đó ông L2 sang nhượng lại cho ông Hà Văn T2, hiện tại ông T2
đang sử dụng đất này. Quá trình giải quyết vụ án, ông H và ông T2 cho rằng, các
ông tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề xem xét
về giao dịch chuyển nhượng đất này.
Cấp sơ thẩm công nhận các giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông Quách
Đại H, bà Lý Yến P với ông Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1, diện tích đất
qua đo đạc thực tế là 112,1m
2
và giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông Quách
Đại A, bà Nguyễn Thị T5 với ông Lê Văn L, bà Trương Thị D diện tích theo đo
đạc là 73,5m
2
(cùng thuộc một phần thửa 776) do bên nhận chuyển nhượng đã
thanh toán đủ tiền và nhận đất sử dụng ổn định. Nguyên đơn và bị đơn không
kháng cáo, Viện kiểm sát cũng không kháng nghị đối với các phần đất đã chuyển
nhượng nêu trên nên cấp phúc thẩm không xem xét lại.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí thẩm định, định giá tài sản: Do
sửa án sơ thẩm về phân chia tài sản cho nguyên đơn, bị đơn thừa hưởng nên án
phí sơ thẩm mà các đương sự phải chịu cũng được điều chỉnh lại cho phù hợp.
Bị đơn ông H kháng cáo yêu cầu giảm tiền án phí do hoàn cảnh kinh tế
gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó, Hội đồng xét
xử quyết định giảm 50% tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông H là phù hợp.
Chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản số tiền 8.000.000 đồng, ông A
cũng nhận được chia 1/6 khối tài sản chung nên ông cũng phải chịu số tiền tương
ứng 1.330.000 đồng. Cấp sơ thẩm buộc một mình ông H phải chịu chi phí tố tụng
là chưa phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn không có
căn cứ chấp nhận nên phải chịu theo quy định. Kháng cáo của bị có căn cứ chấp
nhận một phần nên không phải chịu.
[9] Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn và chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên
có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
16
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Quách Đại A.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Quách Đại H.
Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Quách Đại A đối với
Quách Đại H.
Ông Quách Đại H có nghĩa vụ chia, giao cho ông Quách Đại A diện tích
đất 358,2m
2
, trong đó: 73,5m
2
(ONT) – phần B (phần này ông A đã chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Lê Văn L) và 284,7m
2
(63,25m
2
ONT và 221,45m
2
CLN do ông A quản lý sử dụng) – phần E thuộc thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp
T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số
00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông
Quách Đại H).
Buộc ông A có trách nhiệm hoàn trả giá trị đất chênh lệch cho ông H số tiền
12.452.000đ (mười hai triệu bốn trăm năm mươi hai ngàn đồng).
Ông Quách Đại H được quyền sử dụng diện tích đất 1.202,8m
2
, gồm
384,7m2 (CLN) – phần A, 112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN, phần này ông
H đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Huy P1) – phần C và 706m
2
[(63,5m
2
ONT và (642,5m
2
CLN)] thuộc thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T,
huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do
UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H).
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Lê Văn L đối với ông Quách Đại A.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quách
Đại A, bà Nguyễn Thị T5 và ông Lê Văn L, bà Trương Thị D tại thửa đất số 776,
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP ., diện tích 73,5m
2
(ONT) –
phần B (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là huyện C)
cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H).
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Huy P1 đối với ông Quách
Đại H.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quách
Đại H, bà Lý Yến P và ông Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 tại thửa đất số
776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ, diện tích
112,1m
2
(100m
2
ONT và 12,1m
2
CLN) – phần C (vào sổ cấp GCNQSDĐ số
00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông
Quách Đại H).
4. Vị trí, kích thước có bản trích đo địa chính số: 738/VPĐKĐĐ ngày
18/9/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C kèm theo.
17
5. Ngân hàng N3 có nghĩa vụ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C), TP . Cần Thơ
(vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là huyện C) cấp ngày
26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H) để những người có quyền và lợi ích làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định pháp luật.
Ông Quách Đại A, ông Quách Đại H, ông Lê Văn L, bà Trương Thị D, ông
Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 776, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện V (nay là huyện C),
TP . Cần Thơ (vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00089 do UBND huyện V (nay là
huyện C) cấp ngày 26/4/2004 cho hộ ông Quách Đại H) để điều chỉnh và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quách Đại H, ông Quách Đại A,
ông Lê Văn L, bà Trương Thị D, ông Nguyễn Huy P1, bà Thạch Thị Út T1 theo
qui định pháp luật.
6. Án phí dân sự sơ thẩm:
6.1. Ông Quách Đại H phải chịu 25.062.000 đồng (hai mươi lăm triệu
không trăm sáu mươi hai ngàn đồng).
6.2. Ông Quách Đại A phải chịu 22.755.000 đồng (hai mươi hai triệu bảy
trăm năm mươi lăm ngàn đồng). Khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông
A đã nộp theo biên lai số 0009569 ngày 01/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Cờ Đỏ thành án phí, phần chênh lệch còn thiếu 22.455.000 đồng ông
A phải tiếp tục nộp.
6.3. Ông Lê Văn L được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai số 0009891 ngày 27/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Cờ Đỏ.
6.4. Ông Nguyễn Huy P1 được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí
đã nộp theo biên lai số 0009890 ngày 27/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cờ Đỏ.
7. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá: Ông Quách Đại H phải chịu
6.670.000 đồng. Ông H có nghĩa vụ trả cho ông A số tiền 6.670.000 đồng.
Ông A phải chịu 1.330.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí
xem xét, thẩm định, định giá nên đã thực hiện xong.
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Quách Đại A phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ 300.000 đồng
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà ông A đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án
18
phí, lệ phí Tòa án số 0008210 ngày 01/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ (ông A đã nộp đủ án phí).
Trả lại cho ông Quách Đại H 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
mà ông H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008227
ngày 08/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần
Thơ.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày được tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7a, 7b và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30
của Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND. TPCT;
- TAND H Cờ Đỏ;
- THADS H Cờ Đỏ;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Võ Bảo Anh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm