Bản án số 194/2025/DS-PT ngày 21/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 194/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 194/2025/DS-PT ngày 21/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 194/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Đoàn Văn N tranh chấp hợp đồng CNQSD đất với ông Trần Văn B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG NAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 197/2025/DS-PT
Ngày: 21/5/2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Trung.
- Các Thẩm phán: 1/ Ông Nguyễn Xuân Quang.
2/ Bà Trần Thị Mỹ Hạnh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đoàn Hữu Phúc – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Hồng Thư Kiểm
sát viên tham gia phiên toà.
Trong các ngày 20, 21 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2025/TLPT-DS ngày 24
tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 24/2024/DS-ST ngày 11 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2025/QĐ-PT ngày 31 tháng 3
năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 340/2025/QĐ-PT ngày 28 tháng 4 năm
2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đoàn Văn N, sinh năm 1928 (đã chết năm 2023)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông N:
1. Bà Đoàn Thị C, sinh năm 1958
2. Bà Đoàn Thị Đ, sinh năm 1966
3. Bà Đoàn Thị K, sinh năm 1960
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Bà K, Đ, bà C uỷ quyền cho ông Đoàn Văn K1ông Đoàn Công T theo
văn bản uỷ quyền ngày 27/11/2023.
Ông T và ông K1 uỷ quyền lại cho bà Phan Thị Hoàng A, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Ông Trần Văn B, sinh năm 1954.
2
Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Cao T1, sinh năm 1964.
Địa chỉ: C Lô E, đường số I, khu X, Phường A, Quận H, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Văn phòng C1 (nay đổi tên thành văn phòng C2).
Địa chỉ: B quốc lộ A, ấp T, xã H 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
2. Ông Vi H, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
3. Bà Võ Thị T2, sinh năm 1964.
4. Anh Trần Minh T3, sinh năm 1991.
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T2, anh T3: Ông Nguyễn Cao T1, sinh
năm 1964 (Văn bản ủy quyền ngày 24/3/2023)
Bà Hoàng A, bà Đ, ông T1, ông B có mặt; Văn phòng C1, ông H vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thể hiện nội dung vụ án như sau:
* Tại đơn khởi kiện ngày 02/11/2019, đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/11/2020
của ông Đoàn Văn N đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 28/11/2023,
các lời khai có tiếp theo có trong hồ sơ và tại phiên tòa đại diện cho nguyên đơn bà
Phan Thị Hoàng A trình bày:
xác định phía nguyên đơn không tiếp tục yêu cầu Hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sBU 155530 đối với thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, P, huyện
N, tỉnh Đồng Nai diện tích 1.716m
2
cấp ngày 09/11/2016 đứng tên ông Trần Văn B
nên đã làm đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện.
Nguồn gốc phần đất thuộc thửa thửa 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại P,
huyện N, tỉnh Đồng Nai do cha mông N khai phá, sau đó để lại cho ông N. Đến
ngày 22/9/2009 ông N được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất số AN 332939 với diện tích là 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc
tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì ông N người trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này. Thời điểm ông N
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trên phần đất đã có 01 ngôi nhà gỗ
do cha mẹ ông N xây dựng.
Theo ông N nói lại thì vào khoảng đầu tháng 10/2015 ông B có đến gặp ông
N nói rằng thấy ông N một mình cũng tội nên ông B nói ông N cho ông 100m
2
đất
thuộc thửa 63, tờ bản đồ số 20 P để ông B xây nhà thờ tổ rồi đón ông Nhĩ qua
cùng luôn. Việc ông N hứa cho ông B 100m
2
tkhông lập văn bản, giấy tờ gì,
tuy nhiên ông N có nói với ông Vi H là người trong xóm biết việc này và cũng nhờ
ông Vi H làm thủ tục để tặng cho.
3
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 19/10/2015 ông B, ông Vi H cùng với một người
nói là công chứng viên ở phòng C3 đến nhà ông N i là để làm hợp đồng tặng cho.
Thời điểm này người bên phòng C3 nói với ông N là ký hợp đồng tặng cho sẽ phải
đóng thuế nhiều, còn nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ đóng
thuế ít hơn. Do không hiểu về các quy định pháp luật, nên ông N nói với ông B
Tao chỉ cho mày 100m
2
để làm nhà thờ chứ tao không bán đất”. Khi đó ông B nói
với ông N là “Cậu cứ yên m mọi chi phí sẽ do cháu lo hết”. Sau khi đại diện phòng
công chứng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong thì đưa cho ông
Nhĩ ký, do ông N già cả nên cũng không đọc lại hợp đồng, mặt khác ông N cũng tin
tưởng ông B nên ông N mới vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
này.
xác định ông N không hề chuyển nhượng đất cho ông B, việc ông N
tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này do ông N bị lừa dối,
mục đích ông N nhờ ông Vi H mời Văn phòng C1 đến nhà chỉ để hợp thức hóa thủ
tục ông N cho ông B diện tích 100m
2
đất thuộc thửa 63, tờ bản đồ số 20 xã P để ông
B xây nhà thờ tổ, chứ thực tế ông N không ý định chuyển nhượng toàn bộ phần
đất trên cho ông B. Ông N không nhận bất cứ khoản tiền nào từ phía ông B.
Tháng 07/2019 khi ông B xây nhà xong, ông B không cho ông N vào ở nên
ông N mới biết là bị ông B lừa dối nên đến ngày 26/11/2019 ông N làm đơn khởi
kiện còn thời hiệu khởi kiện. Đối với việc đại diện bị đơn yêu cầu Tòa án áp dụng
thời hiệu để đình chỉ giải quyết vụ án là không có căn cứ.
Tại phiên Toà phía nguyên đơn xác định do nhầm lẫn khi đánh máy nên số
hợp đồng công chứng theo đúng hợp đồng giữa ông N ông B hợp đồng số
10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 tại Văn phòng C1 bị đánh
nhầm thành s10648, quyển s06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 tại Văn
phòng C1. Tại biên bản họp công khai chứng cứ A đại diện cho phía bị đơn đã
xác định lại yêu cầu huỷ hợp đồng công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 của n phòng C1 giữa ông Đoàn Văn N ông Trần
Văn B.
Ông N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai giữa ông Đoàn Văn N
ông Trần Văn B theo hồ công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 tại văn phòng C1.
Thứ 2: Yêu cầu ông Trần Văn B phải trả lại toàn bộ phần đất thuộc thửa 63,
tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã P diện tích là 1.666,5m
2
theo đo vẽ thực tế tại bản vẽ ngày
21/7/2020 đã chiếm giữ, đồng thời tự tháo dỡ toàn btài sản đã xây dựng trên đất
(kết cấu theo chứng thư số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021), ông B chịu toàn bộ chi
phí tháo dỡ. Trả lại toàn bộ diện tích đất cho người kế thừa quyền nghĩa vụ tố
tụng của ông Đoàn Văn N là bà Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị K và bà Đoàn Thị C.
đồng ý với trích lục đo vẽ thửa đất số 2528/2020 ngày 21/7/2020 của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2 gtrị tài sản tranh chấp theo chứng
thư thẩm định giá số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021.
4
Sau khi được Tòa án giải thích về quyền yêu cầu xử lý hậu quả hợp đồng vô
hiệu thì bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Đối với phần tài sản trên đất hàng rào căn nhà nhỏ xây sau do vợ chồng
ông B T2 xây dựng, nhà xuống cấp do bà T2, ông B sửa chữa. Phía nguyên
đơn không có tranh chấp hay yêu cầu gì.
* Bị đơn ông Trần Văn B ủy quyền cho ông Nguyễn Cao T1 trình bày:
Ông N và ông B là cậu cháu ruột, từ khoảng năm 2003 đến nay gia đình ông
B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ông N do ông N người neo đơn. Ông B vợ
Võ Thị T2 02 người con trai là Trần Minh T4Trần Minh T3. Căn nhà ông
B xây dựng mục đích là để làm nhà thờ tổ bên ngoại và để cho ông N ở. Do đó căn
nhà này chỉ có ông B thường xuyên sinh sống còn vợ 02 con của ông B thì nhà
hộ khẩu nơi khác nên chỉ thỉnh thoảng lui tới để trông coi chkhông đó
thường xuyên.
Về nguồn gốc phần đất thuộc thửa 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện
N, tỉnh Đồng Nai thì theo ông được biết phần đất nêu trên nguồn gốc do cha
mẹ ông N đlại ngày 22/9/2009 ông N được UBND huyện N cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AN 332939 với diện tích 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ
bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Do có quan hệ nuôi dưỡng nên ông N và ông B có nhiều lần trao đổi về việc
ông N sẽ tặng cho ông B toàn bộ phần đất diện tích 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản
đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai để ông B xây nhà thờ tổ bên ngoại
và đcho ông N đến hết đời. Việc trao đổi này chỉ trao đổi miệng chứ không lập
biên bản gì. Khoảng năm 2007 ông N cùng với ông B ra UBND P lập di chúc
chuyển giao toàn bộ 1.716m
2
thuộc thửa đất nêu trên cho ông B để làm nhà thờ họ
Đoàn sau này, không cho bán, di chúc hiện nay ông Nhĩ giữ. Thời gian từ năm 2003
ông N nhiều lần trao đổi với ông B việc chuyển giao thửa đất trên cho ông B. Đến
năm 2015 ông N quyết định tặng cho ông B toàn bộ thửa đất trên nhưng sau đó lập
hợp đồng chuyển nhượng để chuyển giao đất triệt để. Ông N hoàn toàn biết rõ hành
vi của mình đã cân nhắc nhiều lần bắt buộc phải biết hậu quả của việc chuyển
nhượng thửa đất trên. Việc ông B xây nhà chính ông N ra chỉ ranh giới, vị trí không
tranh chấp gì. Do đó nguyên đơn ý kiến đến năm 2019 khi xây nhà xong
mới biết bị lừa dối không đúng sự thật. Mặt khác chưa bao giờ vợ chồng ông B
không cho ông N vào ở, mà dành sẵn một căn phòng cho ông N ở trong nhà thờ.
Nhưng đến ngày mời văn phòng công chứng tới thì ông N quyết định chuyển
nhượng toàn bộ diện tích nêu trên cho ông B ông B cũng đồng ý. do chuyển
nhượng đi cho dứt khoát còn tặng cho thì mấy người con của ông N sẽ ganh tị, tại
sao không cho con lại cho cháu. Nên 02 bên mới kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày
19/10/2015 do văn phòng C1 công chứng. Ông N thuê dịch vụ đi đăng bộ sang tên
phần đất nêu trên cho ông B đã sang tên xong, tuy nhiên ông Nhĩ giữ bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và chưa giao lại cho ông B.
Ông xác định hiện nay ông B chưa giao số tiền 200.000.000 đồng cho ông N,
do là vì: Do ông N chưa giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
5
ông B và giữa hai bên có quan hệ nuôi dưỡng nên hai bên cũng chưa ai có yêu cầu
gì.
Sau khi hợp đồng chuyển nhượng thì ông N giao đất cho ông B. Đến
khoảng năm 2019 do thấy nhà ông N đã xuống cấp nên hai ông bàn bạc thống nhất
để ông B xây dựng một căn nhà cấp 4 mái T5 thuộc một phần thửa số 63, tờ bản đ
số 20 tọa lạc tại P để làm nthờ tổ bên ngoại để cho ông N đến hết đời.
Tuy nhiên ông N chưa vào ở thì xảy ra tranh chấp.
Ông B không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông N, bởi vì:
Thứ nhất: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 19/10/2015
là thể hiện đúng ý chí của 02 bên, đã được công chứng, chứng thực đúng quy định.
Ông N đã đăng bộ sang tên cho ông B xong, cho nên hợp đồng hiệu lực hoàn
toàn.
Thứ hai: Thời hiệu khởi kiện của hợp đồng đã hết, cho nên yêu cầu Tòa án
bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Tòa đình chỉ giải quyết
vụ án.
Sau khi được Tòa án giải thích về quyền yêu cầu xử lý hậu quả hợp đồng vô
hiệu, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ông đồng ý với trích lục đo vẽ thửa đất số 2528/2020 ngày 21/7/2020 của
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2. Còn đối với giá trị tài sản tranh
chấp theo chứng thư thẩm định giá số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021 của Công ty
cổ phần T12 thì ông không đồng ý, bởi vì giá thẩm định quá cao, không phù hợp với
giá thị trường nhưng ông không yêu cầu thẩm định giá lại.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn để ba người con của của ông Nhĩ nhận tài
sản này thì phía bị đơn và người liên quan không đồng ý vì ba người con này đã từ
bỏ quan hệ cha con. Không có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng cha con theo quy định
của luật hôn nhân gia đình. Thậm chí đến ngày ông N chết 3 người con này
cũng không đến thắp nhang, thăm viếng. Trái lại mặc ông Nhĩ K2 nhưng ông B
vẫn giữ cam kết nuôi dưỡng từ năm 2003, vợ chồng ông B vẫn đứng ra lo toàn bộ
hậu sự cho ông N vì vậy yêu cầu Toà bác bỏ yêu cầu nhận tài sản của ba người con
ông N. Đề nghị Toà công nhận hiệu lực hợp đồng của hai bên. Trong trường hợp
Toà án tuyên hiệu thì căn cứ trên công nuôi dưỡng của vợ chồng ông B Thơ
từ năm 2003 ông đề nghị Toà án công nhận ông B T2 được thừa kế toàn bộ tài
sản của ông N để lại. Đây yêu cầu của bị đơn đnghToà án xem xét. Tôi xác
định đây ý kiến của phía bị đơn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Đại
diện cho bị đơn tôi xác định chưa yêu cầu khởi kiện tranh chấp chia di sản thừa kế
trong vụ án này.
Đối với phần tài sản trên đất hàng rào n nnhỏ xây sau do vợ chồng
ông B T2 xây dựng, nhà xuống cấp do T2, ông B sửa chữa. Trường hợp
Toà án tuyên vô hiệu hợp đồng thì đề nghị Toà án tuyên trả ông B, bà T2 giá trị của
tài sản.
Đề nghị Toà án buộc nguyên đơn phải giao nộp lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang chiếm giữ.
6
Đối với khoản tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) theo hợp đồng
chuyển nhượng, do quan hệ nuôi dưỡng từ lâu nên ông N chưa lần nào yêu cầu
thanh toán ông B cũng chưa thanh toán, yêu cầu Toà giải quyết theo quy định
pháp luật.
Do hợp đồng chuyển nhượng của hai bên hoàn toàn hiệu lực pháp luật cho
nên thời hiệu khởi kiện đã hết đề nghị Toà án xem xét đình chỉ giải quyết vụ án.
Đồng thời hàng thừa kế thứ nhất của ông N không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di
sản của ông N nên đề nghị Toà án xem xét đình chỉ vụ án.
Đối với việc ông Đoàn Công T trong căn nhà của ông Đoàn n N đnghị
Toà án buộc ông T phải rời đi.
Bị đơn ông B không có yêu cầu phản tố trong vụ án này.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Võ Thị T2 anh Trần Minh T3
ủy quyền cho ông Nguyễn Cao T1 trình bày:
Như ông đã trình bày tại bản tự khai ngày 28/4/2022 giữa gia đình T2
ông N quan hệ ruột thịt quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc cho ông N theo thỏa
thuận giữa ông B và ông N thì gia đình ông B sẽ nuôi dưỡng, chăm sóc ông N đến
suốt đời thực tế gia đình ông B đã nuôi dưỡng ông N từ khoảng năm 2004 đến
trước ngày khởi kiện. Ngay cả trong thời gian tố tụng ông N bị bệnh thì gia đình bà
T2 vẫn gián tiếp chu cấp tiền để chữa bệnh cho ông N.
Giữa ông N ông B thống nhất giữ nđất thuộc thửa số 63, tbản
đồ số 20 tọa lạc tại P không bán để xây nhà thờ họ Đ1. Năm 2005 ông Nhĩ dắt
ông B ra UBND P đlập di chúc để lại toàn bộ nhà và đất thuộc thửa đất nêu trên
cho ông B để làm nhà thờ.
Khoảng năm 2019 ông B và ông N thống nhất xây nhà thờ họ Đ1 vừa để thờ
tự vừa để cho ông N ở mà không phải sửa nhà. Khi bắt đầu thi công ông N trực tiếp
ra chỉ ranh giới địa điểm để ông B xây, hai bên không tranh chấp gì. Đến năm
2020 ông Nđổi ý khởi kiện đòi lại đất yêu cầu tháo dỡ nhà. Do ông Nhĩ K2 đòi
lại nhà đất bà Võ Thị T2 không đồng ý.
T2 ông T3 đồng ý với ý kiến của ông B, không đồng ý giao lại đất,
không đồng ý tháo dỡ nhà. Yêu cầu Tòa án bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông N.
Yêu cầu Tán bác bỏ toàn byêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không
có căn cứ. Hợp đồng chuyển nhường quyền sử dụng đất ký giữa ông N và ông B là
thể hiện đúng ý chí của hai bên được thực hiện trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt
của hai bên. Đã hiểu quyền nghĩa vụ của hai bên. Các bên cũng đã thực hiện
đăng ký biến động quyền sử dụng đất theo đúng trình tự thủ tục của Luật Đất đai và
đã đăng vào sổ địa chính ra tên ông B. Ông B đã chiếm hữu sử dụng từ thời điểm
chuyển dịch. quan quản đất đai đã xác nhận giao dịch này là hoàn toàn phù
hợp với pháp luật vì vậy không có căn cứ để tuyên vô hiệu hợp đồng giữa hai bên.
- Tại bản tự khai đề ngày 26/02/2020 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Vi H trình bày:
7
Vào ngày 19/10/2015 ông Đoàn Văn N nhờ ông mời phòng C3 làm hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ủy quyền cho ông nộp hồ sơ và nhận hồ
sơ kết quả. Còn chuyện mua bán của hai bên, ngày 19/10/2015 ông Đoàn Văn N
đến gặp ông nói với ông cho cháu ông Trần Văn B phần đất trên giấy.
Ông có nói với ông Nhĩ S không cho con mà lại cho cháu ông N nói nó lo cho ông.
Sau đó ông N mời phòng C3 đến để tiến hành công chứng hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất từ ông N cho ông B. Khoảng 17 giờ ngày 19/10/2015 thì nhân viên của
Văn phòng C1 tên Nguyễn Văn T6 đến nhà ông N. Thời điểm đó ông B, ông N
và ông, ông N nói làm hợp đồng cho tặng mà sao làm mua bán, sau đó ông nói làm
hợp đồng mua bán cho nhẹ thuế. Trước khi đến nhà ông N thì anh T6 làm hợp
đồng sẵn đọc lại cho ông N nghe, ông N thắc mắc ông cho đất ông B chứ
không chuyển nhượng. Sau khi giải thích thì ông N đồng ý ký tên trên hợp đồng.
Ông xác định công chứng viên Nguyễn Văn T6 người tên đóng dấu
trong hợp đồng không đến nhà ông N. Anh Nguyễn Văn T6 đưa hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đến nhà cho ông N nhân viên của văn phòng C1
chứ không phải công chứng viên. Ngoài sự việc nếu trên ông không chứng kiến
gì khác.
Nay ông Đoàn Văn N khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất ký ngày 19/10/2015 đối với ông Trần Văn B thì ông không có ý kiến gì đề nghị
Tòa án xử theo pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn Phòng C1 (được đổi tên thành
Văn P công chứng Trần Thị Thu T7) có ý kiến:
Do bận công tác nên văn phòng xin vắng mặt tại mọi buổi làm việc, họp tiếp
cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử của Tòa án.
Tại Bản án dân sự thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 11-6-2024 của Tòa án
nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã tuyên xử:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 và Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 127, 131, 132, 500, 501, 502, Điều 688
Bộ luật Dân sự năm 2015;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn N (có người
kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng là bà Đoàn Thị C, Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị
K) về việc “Tranh chấp hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với bị đơn
ông Trần Văn B.
1.1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đoàn
Văn N ông Trần Văn B được Văn phòng C1, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 19/10/2015 đối với thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, P, huyện N, tỉnh Đồng
Nai vô hiệu.
1.2. Giao cho bà Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị C, Đoàn Thị K được quyền quản lý,
sử dụng toàn bộ tài sản trên thửa đất số 63, tờ bản đồ 20 P, huyện N, tỉnh Đồng
8
Nai: bao gồm căn nhà mái thái; mái hiên trước, sau; tường rào cổng nmới; kho
bên hông; ng rào lưới b40; Nhà gạch nhỏ cạnh nhà ông N; kho; tườngo cổng
1; tường rào 2 (kết cấu theo chứng thư số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021).
Buộc Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị C, Đoàn Thị K phải thanh toán lại cho ông
Trần Văn B và bà Võ Thị T2 số tiền 1.433.384.400 đồng (một tỷ bốn trăm ba mươi
ba triệu, ba trăm tám mươi tư nghìn bốn trăm đồng) là giá trị tài sản sản trên đất do
phía bị đơn đã xây dựng và tôn tạo.
1.3 Kiến nghị Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ: Thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BU 155530 do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
09/11/2016 cho ông Trần Văn B đối với thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã P, huyện
N, tỉnh Đồng Nai. Bà Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Đ, bà Đoàn Thị K là người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đoàn Văn N được quyền liên hệ với quan nhà
nước thẩm quyền để cấp lại giấy chứng nhận QSD đất theo quy định của pháp
luật.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, quyền, nghĩa vụ thi
hành án, án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11/6/2024, ông Nguyễn Cao T1 người đại diện theo ủy quyền của
ông Trần Văn B nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án; ngày 17/6/2024, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Minh P1, Thị T2 kháng cáo toàn bbản
án sơ thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử theo hướng: Bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất công chứng số 10602 quyển số 06-TVT/SCC-GD ngày
19/10/2015 tại V; Yêu cầu bác đơn khởi kiện của nguyên đơn kiện sai đối tượng;
yêu cầu áp dụng thời hiệu, tuyên đình chỉ giải quyết vụ án do thời hiệu khởi kiện đã
hết; buộc nguyên đơn bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B.
Ngày 25/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai kháng nghị toàn bộ bản án, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
hủy bản án dân sự sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện; đại diện theo ủy quyền của bị đơn,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ yêu cầu kháng cáo; đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đề nghị rút toàn bộ kháng nghị.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án
Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về quan hệ
pháp luật, xác định cách pháp của nguyên đơn bị đơn, thẩm quyền thụ
của Tòa án, việc thu thập chứng cứ đúng quy định. Quyết định đưa vụ án ra xét xử,
thời hạn chuyển hồ sơ, thủ tục cấp tống đạt niêm yết cho c đương sự đảm bảo theo
quy định pháp luật. Các quyền nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo thực hiện. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục theo quy định
của của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; những người tham gia tố tụng chấp hành
đúng pháp luật.
9
- Về thủ tục kháng cáo, kháng nghị: Kháng cáo của các đương sự quyết
định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai thực hiện trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Xác định quan hệ pháp luật: Tòa án cấp thẩm xác định quan hệ pháp luật
là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đúng, còn việc nguyên
đơn yêu cầu bị đơn trả lại diện tích 1.716m
2
tháo dỡ công trình xây dựng trên đất
chỉ là giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chứ không phải thiếu một quan hệ pháp luật độc lập “tranh chấp quyền sử dụng
đất” như kháng nghị nêu. Trong thông báo thụ lý ban đầu (số 37 ngày 11/02/2020
BL 28) xác định quan hệ tranh chấp quyền sdụng đất là không chính xác các
thông o thụ nêu ông N yêu cầu ông B trả 400m
2
đất không chính xác, bởi ông
N đã đơn khởi kiện bổ sung. Xét thấy vi phạm này không nghiêm trọng, cấp
thẩm cần rút kinh nghiệm.
- Về thời hiệu khởi kiện: Kháng cáo kháng nghị cho rằng ngày 19/10/2015
hợp đồng chuyển nhượng, đến ngày 02/11/2019 ông N khởi kiện ra tòa yêu cầu
hủy hợp đồng đã hết thời hiệu. Do nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với lý do giả tạo che dấu hợp đồng tặng cho
điều kiện, bị đơn vi phạm cả điều kiện của hợp đồng tặng cho. vậy nếu áp dụng
khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015: “Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 124
(vô hiệu do giả tạo) thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
không bị hạn chế”. Nếu tính tngày quyền, lợi ích hợp pháp của ông N bị xâm phạm
tháng 7/2019, đến tháng 11/2019 ông N khởi kiện thì vẫn còn trong thời hạn 03
năm theo quy định tại Điều 429 BLDS năm 2015. vậy, cả kháng cáo kháng
nghị đều cho rằng hết thời hiệu khởi kiện là không chính xác.
- Về thu thập chứng cứ: Cấp sơ thẩm chưa thu thập 2 vấn đề sau đây:
+ Một là: Chưa làm rõ việc vào năm 2007 ông Nhĩ L di chúc tại UBND
P để lại toàn bộ thửa đất 63, tờ bản đồ 20, diện tích 1.716m
2
cho ông B hay không?
Điều này làm sở xác định ý thức ông N cho ông B một phần (100m
2
) hay cho
toàn bộ thửa đất (1.716m
2
).
+ Hai là: Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nhằm mục đích che dấu hợp đồng
tặng cho có điều kiện. Vì vậy, để có cơ sở xem xét yêu cầu khởi kiện của ông N thì
cần thu thập chứng cứ làm rõ ông B vi phạm điều kiện đã cam kết với ông N hay
không. Điều này Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ.
Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm đã thu thập bổ sung đầy đnhững thiếu sót
của Tòa án cấp thẩm, cụ thể: n bản số 267/UBND ngày 30/10/2024 của UBND
P trả lời về vấn đề di chúc; Biên bản xác minh ngày 13/3/2025, Nguyễn Thị
Lan P2 là người địa phương biết về quá trình chăm sóc, phụng dưỡng ông N.
vậy, về thủ tục tố tụng xác định Tòa án cấp thẩm thiếu sót nhưng
Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục, bổ sung đầy đủ.
- Về đường lối: Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ diện tích 1.716m
2
giữa ông
N với ông B giả tạo, bởi vì thực tế không có việc ông N chuyển nhượng diện tích
1.716m
2
, ông B cũng thừa nhận không giao stiền 200.000.000 đồng cho ông N,
không có việc ông N giao cho ông B toàn bộ diện tích đất 1.716m
2
. Ngay cả sau khi
sang tên cho ông B, thì bản chính giấy CNQSDĐ đứng tên ông B cũng do ông N cất
10
giữ. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nhằm mục đích che dấu hợp đồng tặng cho
điều kiện. vậy, giao dịch chuyển nhượng QSDĐ bị vô hiệu, còn giao dịch tặng
cho điều kiện vẫn hiệu lực theo Điều 120, 124 BLDS năm 2015. Điều kiện
này hai bên khai thống nhất chỉ thỏa thuận miệng chứ không lập thành văn bản.
Theo ông N khai: ông Nhĩ chỉ cho ông B 100m
2
đất trồng cây lâu năm để xây nhà
thờ tổ với điều kiện là sau khi ông B xây nhà thờ tổ xong, ông B sẽ đón ông N vào
trong căn nhà mới xây nuôi dưỡng, chăm sóc ông N đến hết cuộc đời. Còn theo
ông B khai ông N cho ông B toàn bộ diện tích 1.716m
2
thửa 63, tờ bản đồ 20 với
điều kiện ông B phải nuôi dưỡng, chăm sóc ông N đến hết cuộc đời. Ông Vi H
người hàng xóm chứng kiến việc ông N cho đất ông B cũng khai rằng “ông N nói
cho cháu ông B phần đất trên giấy, ông H hỏi ông Nhĩ S không cho con lại
cho cháu thì ông N nói nó (tức ông B) lo cho ông” (Bản tự khai ngày 26/02/2020).
Ngày 24/10/2019 ông N khiếu nại ra UBND xã P; sau đó ngày 28/11/2019
ông N khởi kiện ra Tòa yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với lý do ông
B vi phạm điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận. Ông N cho rằng tháng 7/2019 ông B
xây xong nhà thờ tổ thì ông B không trong căn nhà này mà chỗ khác (ở ngoài
ruộng), để cho vợ con ông B tới ở, khi ông N đem đồ qua để ở thì bị vợ ông B chửi,
đuổi ông N ra ngoài; bản thân ông B không tới lui, chăm sóc ông N như đã cam kết.
Xét thấy, lời khai của ông N không được ông B và vợ ông B (bà T2) thừa nhận. Bà
T2 khai ông B đã chăm sóc ông N từ năm 2004 cho đến năm 2019, sau khi xây nhà
thờ tổ xong vẫn để dành cho ông N một phòng để ông N ở chứ không có việc chửi,
đuổi ông N ra khỏi nhà.
Theo Biên bản xác minh ngày 13/3/2025, Nguyễn Thị Lan P2, sinh năm
1981, địa chỉ ấp B, xã P cung cấp thông tin: Từ năm 2015 đến năm 2019, ông Đoàn
Văn N không chung sống với vợ chồng ông Trần Văn B, tôi có biết và thấy ông B
mang m lên cho ông N. Từ khi xây nhà mới thì ông N chưa hề chung sống
nhà mới do ông B xây dựng. Theo tôi thấy thì Thị T2 xảy ra mâu thuẫn, lời
qua tiếng lại với ông N, do mâu thuẫn tôi không biết rõ. Ông B T2 cũng
không còn chung sống với nhau nữa. Khi ông N ốm đau thì tôi thấy có ông tên T6
gần qua lại, chăm sóc, không thấy ông B, bà T2 chăm sóc, phụng dưỡng. Khi ông
N mất, bà T2 là người tổ chức đám tang.
Xét thấy, lời khai của bà P2 trú cùng ấp B (gần nhà đất đang tranh chấp)
phù hợp với lời khai của ông N khi còn sống, chứng tỏ ông B không thực hiện
đúng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc ông N đến hết cuộc đời hai bên đã thỏa
thuận miệng trước khi ký hợp đồng tặng cho. Vì vậy, ông N yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 120,
124 BLDS năm 2015; Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là đúng.
- Xét kháng cáo của ông B, bà T8, anh T3 cho rằng hết thời hiệu khởi kiện,
đề nghị bác yêu cầu nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.
- Xét kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Nhơn Trạch có một phần
nội dung không căn cứ, một phần có n cứ nhưng đã được Tòa án cấp phúc thẩm
bổ sung khắc phục đầy đủ nên cần rút toàn bộ kháng nghị.
Đề nghị HĐXX:
11
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị (do tại phiên tòa phúc thẩm,
KSV rút toàn bộ Quyết định kháng nghị số 404/QĐ-VKS-DS ngày 25/6/2024 của
Viện trưởng VKSND huyện Nhơn Trạch).
- Áp dụng khoản 1, điều 308 BLTTDS, không chấp nhận kháng cáo của ông
B, bà T2, anh T3.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên a, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng:
- Đơn kháng o của người đại diện hợp pháp của bị đơn (được ủy quyền
kháng cáo) người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Minh T3,
Thị T2 thực hiện trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
- Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai thực hiện trong hạn luật định nên được xem xét theo th
tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai rút toàn bộ
kháng nghị nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch.
- Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 19/10/2015, ông Đoàn Văn N với ông Trần Văn B đã hợp đồng
chuyển nhượng Quyền sử dụng đất số công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C1 để chuyển nhượng trọn thửa đất số 63, tờ bản đồ 20
P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Theo ông N thì ông chỉ cho ông B 100m
2
đất với điều
kiện ông B phải chăm sóc, nuôi dưỡng ông N, việc ký hợp đồng tặng cho cả thửa đất
là không đúng với ý chí, nguyện vọng bị ông B lừa dối. Năm 2018 ông B bắt đầu
xây nhà thờ tổ, đến tháng 7/2019 thì xây nhà xong, khi ông Nhĩ D đồ đến thì bị v
ông B chửi mắng và đuổi ra khỏi nhà. Ngày 14/10/2019 ông N gửi đơn khiếu nại ra
UBND đòi ông B trả lại đất nhưng hòa giải không thành. Ngày 28/11/2019 ông
N khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch để yêu cầu giải quyết tranh chấp
giữa ông N và ông B. Trong quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn bị đơn đều
xác định không thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là để hợp thức hóa hợp đồng tặng cho quyền s
dụng đất. Như vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015 thì: Đối
với giao dịch dân sự quy định tại Điều 124 (vô hiệu do giả tạo) thì thời hiệu yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự hiệu không bị hạn chế”. Ngoài ra, nếu tính từ
ngày quyền, lợi ích hợp pháp của ông N bị xâm phạm tháng 7/2019, đến tháng
11/2019 ông N khởi kiện thì vẫn còn trong thời hạn 03 năm theo quy định tại Điều
429 BLDS năm 2015.
Từ những viện dẫn nêu trên, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu áp dụng
thời hiệu khởi kiện của ông Trần Văn B để đình chỉ giải quyết vụ án là phù hợp.
12
[2] Thẩm quyền giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp thẩm
xác định đúng.
[3] Nội dung vụ án.
[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn N:
[3.1.1] Đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất số
công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 tại Văn
phòng C1 giữa ông Đoàn Văn N với ông Trần Văn B:
- Về hình thức của hợp đồng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện
tích đất 1.716m
2
thuộc thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai
giữa ông Đoàn Văn N và ông Trần Văn B đã được công chứng tại Phòng C3 theo số
công chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 là đã thực
hiện đúng trình tự thủ tục. Các bên đã hoàn thành thủ tục được nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn B.
- Xét về mặt nội dung của hợp đồng:
Tại hồ vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn cho rằng khoảng đầu tháng
10/2015, ông N có cho ông B 100m
2
đất thuộc thửa 63, tờ bản đồ số 20 xã P để ông
B xây nthờ tổ rồi đón ông Nhĩ qua cùng. Đến khoảng 19 giờ 00 phút ngày
19/10/2015 ông B, ông Vi H cùng với một người của Văn phòng C1 đến nhà ông N
để làm hợp đồng tặng cho. Thời điểm này người bên phòng C3 nói với ông N là ký
hợp đồng tặng cho sẽ phải đóng thuế nhiều, còn nếu hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất sẽ đóng thuế ít hơn. Do không hiểu về các quy định pháp luật,
nên ông N nói với ông B là “Tao chỉ cho mày 100m
2
để làm nhà thờ chứ tao không
bán đất”. Khi đó ông B nói với ông N là “Cậu cứ yên tâm mọi chi phí sẽ do cháu lo
hết”. Sau khi đại diện văn phòng công chứng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất xong thì đưa cho ông Nhĩ ký, do ông N già cả nên cũng không đọc lại hợp
đồng, mặt khác ông N cũng tin tưởng ông B nên ông N mới vào hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất này. Tháng 07/2019 khi ông B xây nhà xong, ông B không
cho ông N vào nên ông N mới biết bị ông B lừa dối nên đến ngày 26/11/2019
ông N làm đơn khởi kiện ông B.
Phía bị đơn cho rằng do quan hệ nuôi dưỡng nên ông N ông B nhiều
lần trao đổi vviệc ông N sẽ tặng cho ông B toàn bộ phần đất diện tích 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai để ông B
xây nthờ tổ bên ngoại để cho ông N đến hết đời. Năm 2015 ông N quyết định
tặng cho ông B toàn bộ thửa đất trên nhưng sau đó lập hợp đồng chuyển nhượng để
chuyển giao đất triệt để. Ông N hoàn toàn biết hành vi của mình đã cân nhắc nhiều
lần và bắt buộc phải biết hậu quả của việc chuyển nhượng thửa đất trên. Ông N quyết
định chuyển nhượng toàn bộ diện tích nêu trên cho ông B ông B cũng đồng ý.
do chuyển nhượng đi cho dứt khoát, còn tặng cho thì mấy người con của ông N sẽ
ganh tị. Nên 02 bên mới kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công
chứng số 10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 do Văn phòng
C1 công chứng. Ông N thuê dịch vụ đi đăng bộ sang tên phần đất nêu trên cho ông
B và đã sang tên xong, tuy nhiên ông Nhĩ giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và chưa giao lại cho ông B. Ông xác định hiện nay ông B chưa giao số tiền
200.000.000 đồng cho ông N, lý do là vì: Do ông N chưa giao bản chính giấy chứng
13
nhận quyền sử dụng đất cho ông B giữa hai bên quan hệ nuôi dưỡng nên hai
bên cũng chưa ai có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B cũng khảng định hai bên không thỏa thuận
mua bán đất mà ông Nhĩ T9 cho ông B toàn bộ tích đất 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ
bản đồ số 20 tọa lạc tại P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, còn ông B trách nhiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng ông N cho đến hết đời.
Như vậy, giữa ông N ông B đã thực hiện hợp đồng chuyển nhượng diện
tích đất 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại P, huyện N, tỉnh
Đồng Nai ngày 19/10/2015, được Văn phòng C1, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD.
Tuy nhiên, thực tế hợp đồng này không đúng ý chí của các bên, giữa ông N và ông
B không thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ để che giấu giao dịch khác, đó giao dịch
tặng cho quyền sử dụng đất điều kiện. Vì vậy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Đoàn Văn N ông Trần Văn B bị hiệu theo Điều 120, 124
BLDS năm 2015.
Xét về giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất: Phía nguyên đơn cho rằng chỉ
tặng cho 100m
2
đất để ông B xây nhà thờ họ đón ông N về cùng chứ không phải
tặng cho toàn bộ diện tích đất. Phía bị đơn xác định do hai bên có quan hệ nuôi dưỡng
nên ông Nhĩ T9 cho ông B toàn bộ diện tích đất thuộc thửa số 63, tbản đồ số 20
tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Tại Biên bản hòa giải ngày 24/10/2019 tại
UBND xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, ông Trần Văn B khai nhận khi hồ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Đoàn Văn N sang tên tôi thì tôi không có
trả cho ông N bất kỳ khoản tiền nào, tôi hứa sẽ nuôi ông N cho đến hết cuộc đời”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B cũng thừa nhận ông Nhĩ tặng cho quyền sử dụng đất
thì ông B phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng ông B đến hết đời.
Qua phần trình bày của các đương sự nêu trên, căn cứ xác định ông Nhĩ
tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại P, huyện N,
tỉnh Đồng Nai cho ông B với điều kiện ông B phải chăm sóc, phụng dưỡng ông N
đến hết cuộc đời.
Sau khi hai bên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/10/2015 được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BU 155530 ngày 09/11/2016 cho ông Trần Văn B thì ông Đoàn Văn
N vẫn là người cất giữ giấy chứng nhận. Đến năm 2019, ông B xây dựng nhà. Theo
Trích lục đo hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 2528/2020 ngày 21/7/2020
của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2 thì căn nhà do ông B xây dựng
có diện tích 293,6m
2
và ông B thực tế đang quản lý, sử dụng 480,3m
2
đất được giới
hạn bởi các mốc (1, 2, 3, 7, 1). n một phần diện tích đất 49,5m
2
giáp đường đất
ông B không sử dụng, diện tích đất còn lại 1.186,2m
2
vẫn do ông N quản lý, sử dụng.
Giữa đất do ông B và ông N sử dụng đã được phân định ranh giới bằng hàng rào
ràng. Do đó, có căn cứ xác định ý ccủa ông Đoàn Văn N không phải tặng cho toàn
bộ diện tích đất 1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N,
tỉnh Đồng Nai cho ông Trần Văn B.
Ngày 24/10/2019, ông N khiếu nại ra UBND xã P, đến ngày 28/11/2019 ông
N khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
14
nhượng quyền sử dụng đất với lý do ông B lừa dối và vi phạm điều kiện mà hai bên
đã thỏa thuận. Ông N cho rằng tháng 7/2019 ông B xây xong nhà tờ tổ thì ông B
không ở trong căn nhà này mà ở chỗ khác (ở ngoài ruộng), để cho vợ con ông B tới
ở, khi ông N đem đqua để thì bị vợ ông B chửi, đuổi ông N ra ngoài; bản thân
ông B không tới lui, chăm sóc ông N như đã cam kết. Còn ông B, bà T2 xác định đã
chăm sóc ông N từ năm 2004 cho đến năm 2019, sau khi xây nhà thờ tổ xong vẫn để
dành cho ông N một phòng để ông N ở chứ không có việc chửi, đuổi ông N ra khỏi
nhà. Ngoài ra, ông B còn cho rằng khoảng năm 2007 ông N cùng với ông B ra UBND
xã P lập di chúc chuyển giao toàn bộ 1.716m
2
thuộc thửa đất nêu trên cho ông B để
làm nhà thờ họ Đoàn sau này, không cho bán, di chúc hiện nay ông Nhĩ giữ.
Qua hồ thể hiện, trước đây ông Nhĩ sống neo đơn trên thửa s63, tờ
bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai chỉ có căn nhà của ông N, đến
khoảng năm 2018 ông B mới xây căn nhà mái thái trên thửa đất này, ông B thực tế
cũng không thường xuyên cạnh chỉ T2 anh T3 trong căn nhà mới
xây.
Để căn cứ giải quyết vụ án một cách khách quan, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai đã tiến hành xác minh tại địa phương các nội dung trên. Theo văn bản số
267/UBND ngày 30/10/2024 của UBND P thì UBND không tìm thấy hồ
lưu có liên quan đến việc ông Đoàn Văn N lập di chúc chuyển giao toàn bộ diện tích
đất 1.716m
2
thuộc thửa đất 63, t bản đồ địa chính số 20 xã P cho ông Trần Văn B.
Theo Biên bản xác minh ngày 13/3/2025, Nguyễn Thị Lan P2, sinh năm 1981,
địa chỉ ấp B, xã P cung cấp thông tin: “Từ năm 2015 đến năm 2019, ông Đoàn Văn
N không chung sống với vợ chồng ông Trần Văn B, tôi biết thấy ông B mang
cơm lên cho ông N. Từ khi xây nhà mới thì ông N chưa hề chung sống ở nhà mới do
ông B xây dựng. Theo tôi thấy thì Thị T2 xảy ra mâu thuẫn, lời qua tiếng
lại với ông N, do mâu thuẫn tôi không biết rõ. Ông B T2 cũng không còn
chung sống với nhau nữa. Khi ông N ốm đau thì tôi thấy có ông tên T6 gần có qua
lại, chăm sóc, không thấy ông B, bà T2 chăm sóc, phụng dưỡng. Khi ông N mất, bà
T2 là người tổ chức đám tang”.
Xét thấy, lời khai của bà P2 trú cùng ấp B (gần nhà đất đang tranh chấp)
phù hợp với lời khai của ông N khi còn sống, chứng tỏ ông B không thực hiện
đúng điều kiện nuôi dưỡng, chăm c ông N đến hết cuộc đời hai bên đã thỏa
thuận miệng trước khi hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. vậy, ông Đoàn
Văn N yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn cứ, phù
hợp với quy định tại Điều 120, 124 BLDS năm 2015, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Văn N (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là
Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Đ, bà Đoàn Thị K) là có cơ sở.
Tại phiên toà, phía bị đơn cho rằng số hợp đồng hai bên ký kết công chứng
là số 10602 chứ không phải số 10648 như phía nguyên đơn đã khởi kiện, do đó yêu
cầu Hội đồng xét xử tuyên bác yêu cầu khởi kiện do không đúng số hợp đồng. Xét
thấy, tại Biên bản công khai chứng cứ, cả hai bên đã xác định số hợp đồng hai bên
ký kết 10602, phía nguyên đơn cũng yêu cầu huỷ hợp đồng ng chứng số 10602.
Phía nguyên đơn xác định do ông N đã già, mắt kém nên nhìn nhầm số của hợp đồng,
quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của ông N xác định do nhầm
lẫn khi đánh máy. Các bên cũng xác định ngày 19/10/2015 ông N ông B chỉ
15
với nhau duy nhất hợp đồng số 10602, chữ và chữ viết trong hợp đồng chữ của
ông N ông B, nội dung đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất
1.716m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Như vậy, mặc dù sai sót, nhầm lẫn về số hợp đồng công chứng nhưng người ký,
nội dung, đối tượng và ngày tháng ký của hợp đồng đang bị tranh chấp không bị sai
lệch. Tại phiên họp công khai chứng cứ các đương sự đã được Toà án công bố các
tài liệu chứng cứ trong vụ án và không ai có ý kiến hay yêu cầu gì mà đều xác định
số hợp đồng đã kết giữa hai bên 10602, do đó cấp thẩm vẫn tiếp tục giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật là phù hợp.
[3.1.2]. Về giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Tại hồ vụ án và tại phiên toà các đương sự xác định không tranh chấp tài
sản trên đất, bị đơn cũng không có yêu cầu phản tố. Về hậu quả pháp lý, các bên xác
định trường hợp Toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu
thì đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Khi hợp đồng hiệu các bên hoàn trả lại cho nhau những đã nhận. Do
các bên xác định chưa giao nhận số tiền 200.000.000 đồng như đã thoả thuận trong
hợp đồng nên cấp sơ thẩm không buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn 200.000.000
đồng là phù hợp.
Sau khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/10/2015,
năm 2019, ông Trần Văn B đã xây nhà mái T5 và quản lý một phần quyền sử dụng
đất thuộc thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Theo Trích
lục và đo hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 2528/2020 ngày 21/7/2020 của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2 đã được các bên đương sự chỉ dẫn thì
căn nhà do ông B xây dựng có diện tích 293,6m
2
và ông B thực tế đang quản lý, sử
dụng 480,3m
2
đất được giới hạn bởi các mốc (1, 2, 3, 7, 1). Còn một phần diện tích
đất 49,5m
2
giáp đường đất ông B không sử dụng, diện tích đất n lại 1.186,2m
2
vẫn
do ông N quản lý, sử dụng. Do Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
10602, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2015 đối với thửa 63, tờ bản đồ
20 tại ấp B, P, huyện N, tỉnh Đồng Nai hiệu nên ông Trần Văn B, bà Võ
Thị T2, anh Trần Minh T3 là những người sống trên đất phải trả lại cho nguyên đơn
(bà Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị K bà Đoàn Thị C những người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng) toàn bộ diện tích đất đang quản lý, sử dụng. Cấp thẩm chưa tuyên phần
này là có thiếu sót, cần sửa cách tuyên để giải quyết triệt để vụ án.
Về tài sản trên diện tích đất 480,3m
2
được giới hạn bởi các mốc (1, 2, 3,
7, 1) do bị đơn quản lý: Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Trích lục và đo
hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 2528/2020 ngày 21/7/2020 của Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2 và Chứng thư Thẩm định giá số 1790/TĐG-
CT ngày 21/5/2021 của Công ty cổ phẩn thẩm định giá Đồng Nai thì tài sản trên đất
do ông Trần Văn B, bà Võ Thị T2, anh Trần Minh T3 quản lý gồm:
+ 01 căn nhà diện tích 293,6m
2
kết cấu: móng cột tông cốt thép
(BTCT); Cột bê tông cốt thép, phía trước ốp gạch men; tường xây gạch 10, 20 (cm),
sơn nước; nền gạch men 60x60 (cm); chân tường ốp gạch men cao 1,5m; trần thạch
cao; cửa chính, cửa phòng gỗ; cửa sổ khung sắt kính; cửa hông nhà nhôm kính;
16
gồ sắt, mái ngói; kệ bếp, tủ treo bằng gỗ, mặt bếp ốp đá granit; nền, tường nhà vệ
sinh ốp gạch men, cửa nhôm, lavabo, xí bệt.
+ Mái hiên phía trước, phía sau diện tích 138m
2
có kết cấu: Cột sắt hộp + cột
sắt tròn; một phần mái hiên dựa vào cột nhà ở; nền gạch men; xà gồ sắt, mái tôn.
+ Tường rào, cổng dài 26,3m, kết cấu: Cột cổng bê tông cốt thép, kích thước
50x50 (cm); mái cổng đổ tông cốt thép, lợp ngói; cột ốp gạch giả đá; cánh cổng
khung thép hình (02 cánh), kích thước1,3x2,6 (m); tường xây gạch lửng dày 20cm,
cao 70cm, phía trên khung thép hình cao 1,8m, dài 12m.
+ Kho bên hông có diện tích 24,4m
2
có kết cấu: Cột xây gạch, một phần dựa
vào nhà ở chính; tường xây gạch dày 10cm, sơn nước; nền gạch men; xà gồ sắt, mái
tôn.
+ Hàng rào lưới B40 chiều ngang 30,3m kết cấu: Cột sắt tròn; giằng sắt
hộp, ốp lưới B40 cao khoảng 1,8m.
Về tài sản trên diện tích đất 1.186,2m
2
do ông N quản lý, sử dụng gồm
có:
+ Nhà gỗ diện tích 114m
2
kết cấu: Cột gỗ + cột xây gạch+ Nhà gạch
diện tích 68,2m2, kết cấu: ng, cột gạch; tường xây gạch dày 10cm, xi măng;
nền gạch men; trần thạch cao, khung nổi; cửa kéo nhôm kính; cửa phía sau sắt kéo;
xà gồ gỗ, mái tôn.
+ Nhà gạch diện tích 68,2m
2
kết cấu: Móng, cột gạch; tường xây gạch
10cm, xi măng; nền gạch men; trần thạch cao, khung nổi; cửa kéo nhôm kính; cửa
phía sau sắt kéo; xà gồ gỗ, mái tôn.
+ Nhà kho diện tích 34,2m
2
kết cấu: Cột gỗ; nền đất; xà gồ sắt, mái tôn; vách
lưới B40, ốp tôn; toilet 1,5x2,2m; xây gạch, nền xi măng, gồ gỗ mái tôn, cửa
nhôm kính.
+ T10 rào 1 + cổng dài 39,8m, kết cấu: Trụ cổng xây gạch 50x50 (cm); cánh
cổng khung thép hình dài 3,6m, cổng khung lưới B40; hàng rào trụ bê tông cốt thép
đúc sẵn 15x15cm; tường xây gạch lửng xi măng cao khoảng 0,5cm; phía trên lưới
B40.
+ Tường rào 2 dài 42m, kết cấu: Trụ tông cốt thép 20x20 (cm), cao khoảng
2,3m; tường xây gạch lửng, tô xi măng cao khoảng 0,5m, trên lưới B40.
Phía nguyên đơn xác định tài sản trên đất ngoài căn nhà thờ gỗ nhà mà ông
N từng ở trước đây thì phần nhà mới xây dựng và sửa chữa cải tạo lại và phần hàng
rào là do nhà ông B xây dựng sau này, tiền xây dựng là do ông N bỏ ra nhưng phía
nguyên đơn xác định không tranh chấp mà đồng ý trả giá trị tài sản trên đất cho ông
B ngoại trừ căn nhà gỗ cũ của ông N. Giá trị các tài sản trên đất theo chứng thư thẩm
định giá số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021 của Công ty cổ phần T12 cung cấp bao
gồm: Căn nhà mái Thái trị giá 1.109.808.000 đồng; mái hiên trước, sau trị giá
99.360.000 đồng; tường rào và cổng nhà mới 47.340.000 đồng; kho bên hông trị giá
21.960.000 đồng; hàng rào lưới B40 trị giá 3.878.400 đồng; nhà gạch nhỏ cạnh nhà
ông N 114.576.000 đồng; kho 8.208.000 đồng; tường rào cổng 1 trị giá 13.134.000
đồng; tường rào 2 trị giá 15.120.000 đồng. Tổng cộng giá trị tài sản trên đất do phía
17
bị đơn xây dựng là 1.433.384.400 đồng. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm,
bị đơn cho rằng giá trị tài sản theo chứng thư thẩm định giá số 1790/TĐG-CT ngày
21/5/2021 của Công ty cổ phần T12 cao nhưng không yêu cầu thẩm định lại nên cần
căn cứ vào chứng thư thẩm định giá để giải quyết vụ án.
Tại phiên toà thẩm, phía nguyên đơn không tiếp tục yêu cầu buộc bị đơn
tháo dỡ toàn bộ công trình trên đất mà đồng ý nhận toàn bộ tài sản trên đất bao gồm:
căn nhà mái thái; mái hiên trước, sau; tường rào cổng nhà mới; kho bên hông;
hàng rào lưới b40; Nhà gạch nhỏ cạnh nhà ông N; kho; tường rào cổng 1; tường
rào 2 và thanh toán cho bị đơn giá trị tài sản bằng tiền theo giá chứng thư thẩm định
để bị đơn di dời và bàn giao lại công trình trên đất cho nguyên đơn. Hội đồng xét xử
thẩm đã ghi nhận sự tự nguyện của phía nguyên đơn, điều này cũng có lợi cho
phía bị đơn nên có cơ sở.
Đối với cây cối trong vườn các đương sự không tranh chấp không yêu cầu
nên cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp.
[4] Mặc phía nguyên đơn thừa nhận có tặng cho ông B diện tích đất 100m
2
để ông B xây nhà thờ họ và cho ông N vào ở chăm sóc ông N khi về già. Tuy nhiên,
phía bị đơn không đồng ý cho rằng ông N cho ông B toàn bộ diện tích đất thửa 63
tờ bản đồ 20 P chứ không phải chỉ 100m
2
và ng không yêu cầu phản tố
đối với việc nguyên đơn thừa nhận cho bị đơn diện tích đất 100m
2
. Ngoài ra, như
nhận định ở trên, việc tặng cho quyền sử dụng đất của nguyên đơn đối với bị đơn là
hợp đồng có điều kiện và bị đơn đã không đáp ứng điều kiện chămc nguyên đơn
đến hết cuộc đời nên cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp.
Đối với ý kiến của phía bị đơn đề nghị Toà án công nhận cho ông B, T2
được thừa kế toàn bộ tài sản do ông N để lại. Nhưng phía bị đơn cũng xác định đây
là ý kiến của bị đơn trong vụ án này, phía bị đơn không khởi kiện phản tố cũng chưa
yêu cầu khởi kiện tranh chấp thừa kế trong vụ án này do đó cấp sơ thẩm không xem
xét là phù hợp.
Đối với yêu cầu buộc phía nguyên đơn giao nộp lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang chiếm giữ, do hợp đồng chuyển nhượng của các bên hiệu nên
xét không cần thiết phải buộc phía nguyên đơn giao trgiấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là phù hợp.
Đối với yêu cầu buộc ông Trần Công T11 phải di dời khỏi nhà ông Đoàn Văn
N, qua xác minh tại địa phương ông T11 trước đây có hộ khẩu tại nhà ông N nhưng
hiện không thường xuyên trú trong nhà ông N. Bản thân ông T11 cũng đã nộp
cho Toà án bản tự khai xác định chỉ đến thắp nhang cho ông N chứ không có quyền
lợi, nghĩa vụ hay tranh chấp gì trong vụ án này. Phía nguyên đơn cũng không yêu
cầu gì nên cấp sơ thẩm không cần thiết đưa ông T11 vào tham gia tố tụng hay phải
buộc ông T11 phải di dời là phù hợp.
[5] Cấp thẩm kiến nghị Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ (nay là Sở
Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đ): Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BU 155530 do sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ (naySở Nông nghiệp và Môi
trường tỉnh Đ) cấp ngày 09/11/2016 cho ông Trần Văn B đối với thửa 63, tờ bản đồ
20 tại ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; bà Đoàn Thị C, Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị K
là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đoàn Văn N được quyền liên hệ
18
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cấp lại giấy chứng nhận QSD đất theo quy
định của pháp luật là phù hợp.
[6] Về chi phí tố tụng: Ông Trần Văn B phải chịu tiền chi phí thu thập tài liệu
chứng cứ, chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định giá tài sản
72.974.846 đồng. Do trước đây phía nguyên đơn ông Đoàn Văn N đã nộp xong tiền
tạm ứng chi phí tố tụng nên Hội đồng xét xử thẩm buộc ông Trần Văn B trả lại
cho phía nguyên đơn là phù hợp.
[7] Về án phí: Ông Trần Văn B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự
thẩm do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận.
Do Người kế thừa quyền nghĩa vttụng của nguyên đơn bà Đoàn Thị C,
Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị Kim tự N1 trả tiền giá trị tài sản trên đất của vợ chồng ông
B, bà T2 theo giá chứng thư thẩm định giá nhận toàn bộ tài sản nên phải chịu án
phí theo quy định của pháp luật. Đối với bà Đoàn Thị C và bà Đoàn Thị Kim D1 đã
trên 60 tuổi và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử xét miễn án phí cho hai
bà. Riêng bà Đoàn Thị Đ phải chịu án phí tương đương với phần của mình. Vì vậy,
cấp thẩm buộc Đoàn Thị Đ phải chịu 23.111.792 đồng miễn tiền án phí
DSST cho bà Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị K là phù hợp.
Do sửa một phần bản án thẩm nên ông Trần Văn B, Thị T2, anh
Trần Minh T3 không phải chịu án phí DSPT.
[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1/ Căn cứ vào Điều 289; khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn B, Thị T2, anh Trần
Minh T3. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 24/2024/DSST ngày 11/4/2024
của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với quyết định Kháng nghị số 404/QĐ-VKS-
DS ngày 25/6/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
2/ n cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 120, 124, 127, 131, 132, 500, 501,
502, 468 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn N
do Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Đ, bà Đoàn Thị K là người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với bị
đơn ông Trần Văn B.
19
1.1. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa ông Đoàn
Văn N ông Trần Văn B được Văn phòng C1, quyển số 06TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 19/10/2015 đối với thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, P, huyện N, tỉnh Đồng
Nai vô hiệu.
1.2. Buộc ông Trần Văn B, Thị T2, anh Trần Minh T3 phải giao trả lại
cho ông Đoàn Văn N do Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị K người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng diện tích đất 480,3m
2
được giới hạn bởi các mc (1,
2, 3, 7, 1) theo Trích lục đo hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 2528/2020
ngày 21/7/2020 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh N2.
1.3. Giao cho ông Đoàn Văn N do Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Đ, Đoàn
Thị K người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn được quyền sở
hữu, sử dụng các tài sản trên thửa đất số 63, tờ bản đồ 20 xã P, huyện N, tỉnh Đồng
Nai, cụ thể:
+ 01 căn nhà diện tích 293,6m
2
kết cấu: móng cột tông cốt thép
(BTCT); Cột bê tông cốt thép, phía trước ốp gạch men; tường xây gạch 10, 20 (cm),
sơn nước; nền gạch men 60x60 (cm); chân tường ốp gạch men cao 1,5m; trần thạch
cao; cửa chính, cửa phòng gỗ; cửa sổ khung sắt kính; cửa hông nhà nhôm nh;
gồ sắt, mái ngói; kệ bếp, tủ treo bằng gỗ, mặt bếp ốp đá granit; nền, tường nhà vệ
sinh ốp gạch men, cửa nhôm, lavabo, xí bệt.
+ Mái hiên phía trước, phía sau diện tích 138m
2
có kết cấu: Cột sắt hộp + cột
sắt tròn; một phần mái hiên dựa vào cột nhà ở; nền gạch men; xà gồ sắt, mái tôn.
+ Tường rào, cổng dài 26,3m, kết cấu: Cột cổng bê tông cốt thép, kích thước
50x50 (cm); mái cổng đổ tông cốt thép, lợp ngói; cột ốp gạch giả đá; cánh cổng
khung thép hình (02 cánh), kích thước1,3x2,6 (m); tường xây gạch lửng dày 20cm,
cao 70cm, phía trên khung thép hình cao 1,8m, dài 12m.
+ Kho bên hông có diện tích 24,4m
2
có kết cấu: Cột xây gạch, một phần dựa
vào nhà ở chính; tường xây gạch dày 10cm, sơn nước; nền gạch men; xà gồ sắt, mái
tôn.
+ Hàng rào lưới B40 chiều ngang 30,3m kết cấu: Cột sắt tròn; giằng sắt
hộp, ốp lưới B40 cao khoảng 1,8m.
+ Nhà gạch diện tích 68,2m
2
kết cấu: Móng, cột gạch; tường xây gạch
10cm, xi măng; nền gạch men; trần thạch cao, khung nổi; cửa kéo nhôm kính; cửa
phía sau sắt kéo; xà gồ gỗ, mái tôn.
+ Nhà kho diện tích 34,2m
2
kết cấu: Cột gỗ; nền đất; gồ sắt, mái tôn; vách
lưới B40, ốp tôn; toilet 1,5x2,2m; xây gạch, nền xi măng, gồ gỗ mái tôn, cửa
nhôm kính.
+ T10 rào 1 + cổng dài 39,8m, kết cấu: Trụ cổng xây gạch 50x50 (cm); cánh
cổng khung thép h ình dài 3,6m, cổng khung lưới B40; hàng rào trụ bê tông cốt thép
đúc sẵn 15x15cm; tường xây gạch lửng xi măng cao khoảng 0,5cm; phía trên lưới
B40.
+ Tường rào 2 dài 42m, kết cấu: Trụ tông cốt thép 20x20 (cm), cao khoảng
2,3m; tường xây gạch lửng, tô xi măng cao khoảng 0,5m, trên lưới B40.
20
(Đặc điểm hiện trạng các tài sản trên đất đã được thể hiện tại Chứng thư
thẩm định giá số 1790/TĐG-CT ngày 21/5/2021 của Công ty cổ phần T12).
1.4. Buộc bà Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị C, Đoàn Thị K phải thanh toán cho ông
Trần Văn B và bà Võ Thị T2 số tiền 1.433.384.400 đồng (một tỷ bốn trăm ba mươi
ba triệu, ba trăm tám mươi tư nghìn bốn trăm đồng) là giá trị tài sản sản trên đất do
phía bị đơn đã xây dựng và tôn tạo.
2. Kiến nghị Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ nay Sở Nông nghiệp
Môi trường tỉnh Đ: Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 155530 do
sở Tài nguyên i trường tỉnh Đ nay là Sở Nông nghiệp Môi trường tỉnh Đ
cấp ngày 09/11/2016 cho ông Trần Văn B đối với thửa 63, tờ bản đồ 20 tại ấp B, xã
P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Đoàn Thị C, Đoàn Thị Đ, Đoàn Thị K người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông Đoàn Văn N được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất theo quy định của
pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng: Ông Trần Văn B phải trả cho bà Đoàn Thị Đ, bà Đoàn
Thị K, Đoàn Thị C là những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên
đơn chi phí tố tụng 72.974.846 đồng (bảy mươi hai triệu chín trăm bảy ơi
nghìn tám trăm bốn mươi sáu đồng).
4. Về án phí: Ông Trần Văn B phải chịu 300.000 đồng án phí DSST;
Đoàn Thị Đ phải chịu 23.111.792 đồng án phí DSST. Miễn án phí DSST
cho bà Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị Kim .
Ông Trần n B, Thị T2, anh Trần Minh T3 không phải chịu án phí
DSPT. Hoàn trả cho ông Trần Văn B, Thị T2, anh Trần Minh T3 mỗi người
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí DSPT đã nộp theo Biên lai thu số 0017958 ngày
17/6/2024; 0017959 ngày 17/6/2024; 0017957 ngày 17/6/2024 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
5. Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 B
luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
3/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND T. Đồng Nai;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
21
- TAND huyện Nhơn Trạch;
- VKSND huyện Nhơn Trạch;
- Chi cục THADS huyện Nhơn Trạch;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Đình Trung
Tải về
Bản án số 194/2025/DS-PT Bản án số 194/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 194/2025/DS-PT Bản án số 194/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất