Bản án số 239/2025/DS-PT ngày 09/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 239/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 239/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 239/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 239/2025/DS-PT ngày 09/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
Số hiệu: | 239/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Hoàng D- Nguyễn Hải Qu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 239/2025/DS-PT
Ngày: 09/5/2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng tín dụng,
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nưc
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Kiến
Ông Sỹ Danh Đạt
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Ngọc Trang - Thư k Ta án nhân dân
tnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đng Tháp tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Ngọc Trang - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09 tháng 01, ngày 28 tháng 3, ngày 29 tháng 4, ngày 09
tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Ta án nhân dân tnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ l số 481/2024/TLPT-DS ngày 31 tháng 10 năm 2024 về
việc “Tranh chấp hợp đng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đng tín
dụng, hợp đng thế chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 86/2024/DS - ST ngày 24 tháng 7 năm 2024,
của Ta án nhân dân thành phố Cao Lãnh bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 658/2024/QĐ – PT
ngày 26/11/2024, quyết định hoãn phiên ta số 662/2024/QĐPT-DS ngày
09/12/2024; Thông báo về thời gian mở lại phiên ta xét xử phúc thẩm số 86/TB-
TA ngày 06/3/2025 của Ta án nhân dân tnh Đồng Tháp; Thông báo về thời
gian mở lại phiên ta xét xử phúc thẩm số 35/TB-TA ngày 28/3/2025 của Ta án
nhân dân tnh Đồng Tháp; Thông báo về thời gian mở lại phiên ta xét xử phúc
thẩm số 173/TB-TA ngày 10/4/2025 của Ta án nhân dân tnh Đồng Tháp, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1984;
Địa ch: Số G, đường T, Phường D, thành phố C, tnh Đồng Tháp.
2
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hải Q, sinh năm 1988;
Địa ch: Ấp B, thị trấn T, huyện T, tnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Q là: Bà Võ Thị N, sinh năm 1957;
Địa ch: Số A, đường T, Khóm B, Phường D, thành phố C, tnh Đồng
Tháp theo hợp đồng ủy quyền ngày 02/11/2024.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị Thanh H, sinh năm 1982;
Địa ch: Số G, T, Phường D, thành phố C, tnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H là: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh
năm: 1984;
Địa ch: Số G, đường T, Phường D, thành phố C, tnh Đồng Tháp.
2. Ông Nguyễn Ngọc R, sinh năm 1985;
Địa ch: Số D, đường số F, khu dân cư K, Phường A, thành phố C, tnh
Đồng Tháp.
3. Ngân hàng N2;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V, chức vụ: Tổng Giám
đốc.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn P; Chức vụ: Giám đốc - Chi
nhánh huyện T (Quyết định số 2665/QĐ-NHNo – PC ngày 01/12/2022);
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Ông Nguyễn Anh T – Phó Giám
đốc Ngân hàng N3 và PTNT - Chi nhánh huyện T (Giấy ủy quyền số 433/NHNo
– KH ngày 03/12/2024)
Địa ch: Đường N, thị trấn T, huyện T, tnh Đồng Tháp.
4. Bà Trần Thị Huyền T1, sinh năm 1991;
Địa ch: Ấp D, xã M, huyện T, tnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T1 là: Bà Võ Thị N, sinh năm 1957;
Địa ch: Số A, đường T, Khóm B, Phường D, thành phố C, tnh Đồng
Tháp.
Ngưi khng co: Ông Nguyễn Hải Q là bị đơn, bà Trần Thị Huyền T1,
Ngân hàng N2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Cao Lãnh.
Có mặt tại phiên ta: Ông Nguyễn Hoàng D1, bà Nguyễn Thị N1 , ông
Nguyễn Anh T.
NỘI DUNG V ÁN:
3
- Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng D trình bày: Năm 2018, ông D và ông
Nguyễn Hải Q có thỏa thuận k Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có
nội dung: Ông D thống nhất chuyển nhượng cho ông Q nền tái định cư ở khu tái
định cư H, đất tọa lạc tại xã H, thành phố C, tnh Đồng Tháp. Giá chuyển
nhượng thửa đất nêu trên là 1.250.000.000 đồng; ông D đã nhận trưc
900.000.000 đồng theo biên nhận ngày 24/6/2018. Tuy nhiên do thửa đất nêu
trên là đất mua theo quyết định, cho nên ông D chưa biết số thửa, tờ bản đồ cũng
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên chưa thể làm thủ tục
sang tên cho ông Q được. Như vậy để làm tin ngày 20/8/2020 phía ông D và ông
Q cùng thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất 77,4m
2
, thửa đất số 163, tờ bản
đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, TP ., tnh Đồng Tháp cho ông Q tạm đứng tên
quyền sử dụng đất trưc. Khi nào ông D được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối vi nền tái định cư tại xã H, thành phố C, tnh Đồng Tháp thì ông D
sẽ chuyển nhượng cho ông Q được đứng tên. Sau đó ông Q sẽ chuyển trả cho
ông D lại diện tích đi 77,4m
2
, thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại P,
thành phố C, tnh Đồng Tháp. Như vậy tuy về mặt giấy tờ hiện nay ông Q đang
được đứng tên giấy chúng nhận quyền sử dụng đất đối vi thửa đất 163, tờ bản
đồ số 18 nêu trên nhưng thực tế Hợp đồng nêu trên không phải Hợp đồng thực.
Ông Q không có trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho ông D
và ông D cũng không có giao đất cho ông Q (Diện tích đất này hiện nay do ông
D trực tiếp quản l và sử dụng đất).
Nay ông D yêu cầu không công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa vợ chồng ông D vi ông Nguyễn Hải Q đối vi diện tích đất
77,4m
2
, thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, thành phố C,
ngày 20/08/2020 và ông D đồng trả lại cho ông Quân số tiền đã nhận là
900.000.000 đồng.
Ông D yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất diện tích đất 77,4m
2
, thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại
Phường A, TP ., tnh Đồng Tháp đã cấp cho ông Nguyễn Hải Q, cấp lại cho ông
D được đứng tên quyền sử dụng đất.
Không đồng vi yêu cầu của ông Q: Ch đồng trả lại tiền cọc đã nhận
900.000.000 đồng;
Không đồng giao nhà và diện tích đất ở thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18,
đất tọa lạc tại phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp do không chuyển nhượng
cho ông Q mà ch cho mượn;
4
Không đồng công nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
092011.38 ngày 13/11/2020, chứng thực tại Văn phng C, quyền số 05-TP/CC-
SCC/HỢP ĐỒNGGD giữa bên thế chấp là ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị
Huyền T1 và bên nhận thế chấp là Ngân hàng N4 chi nhánh huyện T, tnh Đồng
Tháp do khi thế chấp phía Ngân hàng không thẩm định, tài sản do phía ông D
quản l sử dụng.
- Bà Võ Thị N đại diện cho ông Nguyễn Hải Q trình bày:
Đầu tháng 6/2018, ông Q và ông Nguyễn Hoàng D có k Hợp đồng
chuyển nhượng Quyền sử dụng đất đối vi nền nhà số A, đường 14m, khu tái
định cư H - phường D, tọa lạc xã H, thành phố C, tnh Đồng Tháp. Giá trị
chuyển nhượng là 1.250.000.000 đồng, ch làm Hợp đồng tay có chữ k của hai
bên (bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng), chưa làm Hợp đồng công
chứng/chứng thực. Theo thỏa thuận thì ông Q đã đặt cọc cho ông Danh số tiền
chuyển nhượng đất là 900.000.000 đồng, Số tiền cn lại 350.000.000 đồng khi
nào ông D làm thủ tục chuyển tên trên Giấy chứng nhận sang cho ông Q thì ông
Q sẽ trả đủ tiền cho ông D.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối vi nền nhà số A, đường 14m, khu tái định cư H - phường D, tọa lạc xã H,
thành phố C, tnh Đồng Tháp từ năm 2018 đến nay, ông Q đã nhiều lần yêu cầu
ông D làm thủ tục đăng k sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
vi nền nhà trên cho ông Q nhưng ông D viện ra rất nhiều l do khác nhau để trì
hoãn việc sang tên nền nhà cho ông Q.
- Tháng 8/2020 vợ chồng ông D có nhu cầu chuyển nhượng thửa đất số
163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại phường A, thành phố C, tnh
Đồng Tháp và căn nhà gắn liền trên thửa đất nên ông Q có thỏa thuận vi vợ
chồng ông D để nhận chuyển nhượng đất và căn nhà trên.
Giá trị thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại
phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp và căn nhà gắn liền trên đất thỏa thuận
chuyển nhượng là 1.200.000.000đồng. Bên ông D có trách nhiệm làm thủ tục
sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Q.
Ngày 20/8/2020 ông Q và vợ chồng ông D k Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối vi thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa
lạc tại phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp tại Phòng C1, thành phố C, tnh
Đồng Tháp, giá ghi trên Hợp đồng chuyển nhượng là 371.000.000 đồng, giá thực
tế là 1.200.000.000 đồng và sau đó ông Q đã giao đủ số tiền 1.200.000.000 đồng
cho vợ chồng ông D. Đến ngày 8/9/2020 ông Q được Sở Tài nguyên và môi
5
trường tnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối vi thửa đất 163, tờ
bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh Đồng
Tháp.
Khi thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối vi thửa đất số 163,
tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại phường A, thành phố C, tnh Đồng
Tháp. Ông Q và ông D cũng thỏa thuận ông Q sẽ được sở hữu luôn căn nhà gắn
liền trên thửa đất, nhưng do căn nhà trên đất chưa đăng k quyền sở hữu gắn liền
vi đất nên ông Q ch thỏa thuận miệng về phần căn nhà, không ghi vào Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng tại Phòng C1, thành
phố C, tnh Đồng Tháp.
Sau khi ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông D đã giao
thửa đất và nhà cho ông Q quản l. Do ông Q và ông D là bạn bè làm ăn lâu năm
vi nhau nên ông D biết ông Q chưa sử dụng căn nhà gắn liền trên thửa đất số
163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh
Đồng Tháp vì ông Q hiện đang công tác ở xa không sinh sống ở thành phố C nên
ông D có hỏi ông Q cho mượn căn nhà để chứa tạm đồ đạc, đến khi nào ông Q
có nhu cầu sử dụng thì ông D sẽ di dời toàn bộ đồ đạc để trả lại căn nhà trên cho
ông Q.
Ông Q và ông D cũng là bạn bè nên ông Q tin tưởng đồng cho ông D
mượn căn nhà gắn liền trên thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m²,
tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp để chứa đồ đạc nên hai bên
không có văn bản về thảo thuận này. Đến nay, ông Q phát hiện ông D không
dùng căn nhà của ông Q để chứa đồ đạc mà ông D dùng căn nhà của ông Q để
kinh doanh cửa hàng làm bảng Quảng cáo. Ông Q đã nhiều lần đến gặp ông D
yêu cầu trả lại căn nhà gắn liền trên thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích
77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp cho ông Q sử dụng
nhưng ông D không đồng .
Nay ông Q yêu cầu:
Yêu cầu ông D tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đối vi nền nhà số A, đường A, khu tái định cư H - Phường D, tọa lạc tại xã
H, thành phố C; Nếu Hợp đồng bị hủy thì yêu cầu ông D trả lại cho ông Quân số
tiền đặt cọc đã nhận là 900.000.000 đồng và yêu cầu bồi thường tiền cọc vi số
tiền là 900.000.000 đồng; Tổng cộng là 1.800.000.000 đồng;
Yêu cầu ông Nguyễn Hoàng D và bà Lê Thị Thanh H di dời tài sản ra khỏi
căn nhà và trả lại căn nhà gắn liền trên thửa đất số 163, tờ bản đồ 18, diện tích
77,4m
2
tọa lạc tại Phường A, thành phố C để trả đất và nhà cho ông Q.
6
Đối vi yêu cầu của Ngân hàng thì ông Q thừa nhận có vay, thế chấp tài
sản như đại diện Ngân hàng trình bày và đồng trả nợ theo yêu cầu của Ngân
hàng.
- Bà Lê Thị Thanh H trình bày: Ông D có thỏa thuận chuyển nhượng cho
ông Q nền nhà số A, đường A, khu tái định cư H - Phường D, tọa lạc tại xã H,
thành phố C vi giá là 1.200.000.000 đồng, ông D đã nhận của ông Quân S tiền
là 900.000.000 đồng, nhưng do hiện nay chưa được cấp quyền sử dụng đất nên
không thực hiện được. Vì vậy, đồng hủy Hợp đồng chuyển nhượng và ông D
trả lại cho ông Q 900.000.000 đồng; Không đồng bồi thường tiền cọc
900.000.000 đồng theo yêu cầu của ông Q.
Đối vi thửa đất và căn nhà gắn liền trên thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18,
diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp là do ông Q
nói có khó khăn nên ông D và bà H có cho ông Q mượn để ông Q thế chấp vay
vốn ngân hàng do vậy hai bên mi làm thủ tục chuyển nhượng chứ thực chất ông
D và bà H không chuyển nhượng thửa đất này cho ông Q nên cũng không nhận
tiền và không giao đất cho ông Q. Thống nhất theo yêu cầu của ông D.
- Đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N2 trình bày:
Yêu cầu ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 phải trả tiền nợ gốc
là 1.240.000.000 đồng và tiền lãi đến ngày 10/7/2024 là 23.522.712 đồng; Tổng
cộng gốc và lãi là 1.263.522.712 đồng. Đồng thời yêu cầu ông Nguyễn Hải Q và
bà Trần Thị Huyền T1 tiếp tục chịu lãi từ ngày 11/7/2024 theo Hợp đồng tín
dụng mà hai bên đã k cho đến khi trả hết nợ.
Yêu cầu công nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38
ngày 13/11/2020, chứng thực tại Văn phng C, quyền số 05-TP/CC-SCC/HĐGD
giữa bên thế chấp là ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và bên nhận thế
chấp là Ngân hàng N4 chi nhánh huyện T, tnh Đồng Tháp. Tài sản thế chấp
gồm: quyền sử dụng đất có diện tích: 77,4 m2 đất ở tại đô thị, thuộc thửa đất số
163, tờ bản đồ số 18, đất tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp theo
giấy chứng nhận quyền sử dụngđ số CX 327487, số vào sẽ cấp GCN: CS 02655
do Sở Tài nguyên và môi trường tnh Đ cấp ngày 08/09/2020 do ông Nguyễn Hải
Q đứng tên, có hiệu lực kể từ thời điểm đăng k là ngày 13/11/2020.
- Bà Trần Thị Huyền T1 do bà Võ Thị N đại diện trình bày: Thống nhất
vi trình bày của ông Q, đồng trả nợ theo yêu cầu của Ngân hàng; Không có
yêu cầu gì khác.
Anh R vắng mặt tại các phiên ha giải, xét xử vụ án cũng không có văn
bản trình bày kiến.
7
Tại quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 86/2024/DS-ST ngày 24
tháng 7 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã xử:
- Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng D;
- Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Hải Q;
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Không ghi ngày
tháng năm) ông D và ông Q đối vi nền số A đường A khu dân cư H - Phường D
là vô hiệu.
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/8/2020
giữa ông Nguyễn Hải Q vi ông Nguyễn Hoàng D, bà Lê Thị Thanh H đối vi
thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành
phố C, tnh Đồng Tháp là vô hiệu.
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền vi đất số CX 327478, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS02655 do Sở Tài nguyên và môi trường tnh Đ cấp cho ông
Nguyễn Hải Q tại thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, thành
phố C, diện tích 77,4m
2
, loại đất ở đô thị.
Ông Nguyễn Hoàng D được quyền đến cơ quan có thẩm quyền đăng k
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền vi đất đối vi thửa
đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, thành phố C, diện tích 77,4m
2
,
loại đất ở đô thị.
Buộc ông Nguyễn Hoàng D có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Hải Q số tiền
900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng).
Buộc ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 có nghĩa vụ liên đi trả
cho Ngân hàng N2 nợ gốc là 1.240.000.000 đồng và tiền lãi đến ngày 10/7/2024
là 23.522.712 đồng; Tổng cộng gốc và lãi là 1.263.522.712 đồng (Một tỷ hai
trăm sáu mươi ba triệu năm trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm mười hai đồng).
Đồng thời, ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 tiếp tục chịu lãi từ ngày
11/7/2024 theo Hợp đồng tín dụng số 6506LAV2023.0600 ngày 20/11/2023 cho
đến khi trả hết nợ.
Không công nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38
ngày 13/11/2020, chứng thực tại Văn phng C, quyền số 05-TP/CC-SCC/HĐGD
giữa bên thế chấp là ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và bên nhận thế
chấp là Ngân hàng N2 chi nhánh huyện T tnh Đồng Tháp.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối vi các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án án (đối vi các khoản tiền phải
8
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản
tiền hàng tháng người phải thi hành cn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền cn
phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự
2015.
Ngoài ra bản án sơ thẩm cn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố
tụng khác, thời hạn kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 01/8/2024 anh Nguyễn Hải Q và chị Trần Thị
Huyền T1 kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm yêu cầu Ta án cấp phúc thẩm sửa
Bản án án sơ thẩm theo hưng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ngày 05/8/2024, Ngân hàng N2 yêu cầu Ta án cấp phúc thẩm: Công
nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38 ngày 13/11/2020,
chứng thực tại Văn phng C số 4436, quyển số 05-TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên
thế chấp là ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và bên nhận thế chấp là
Ngân hàng N2 chi nhánh huyện T, tnh Đồng Tháp. Tài sản thế chấp gồm: quyền
sử dụng đất có diện tích: 77,4 m
2
đất ở tại đô thị, thuộc thửa đất số 163, tờ bản đồ
số 18, đất tọa lạc Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CX 327487, số vào sổ cấp GCN: CS 02655 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tnh Đ cấp ngày 08/09/2020 do ông Nguyễn Hải Q đứng
tên, có hiệu lực kể từ thời điểm đăng k là ngày 13/11/2020 để đảm bảo số tiền
vay.
Ngày 7/8/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh
có quyết định kháng nghị số 04/QĐ-VKS-DS đề nghị Ta án nhân dân tnh
Đồng Tháp xét xử phúc thẩm theo hưng sửa Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà Nguyễn Thị N1 là người đại diện theo ủy quyền của ông Q, bà T1 giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ngân hàng N2 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Nguyễn Hoàng D không đồng vi yêu cầu kháng cáo của ông Q, bà
T1; Ngân hàng N2 và quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Cao Lãnh.
Đại diện Viện kiểm sát: Rút một phần kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-
VKS-DS của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh do giao
dịch chuyển nhượng giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10 là giao dịch dân sự
trái pháp luật nên vô hiệu nên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, 2 bên cùng có
lỗi khi xác lập 01 giao dịch trái pháp luật nên không bồi thường.
9
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tnh Đồng Tháp phát biểu kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã thực
hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm
pháp luật từ khi thụ l giải quyết vụ việc để xét xử phúc thẩm đến trưc thời
điểm nghị án.
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư
ký phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư k phiên ta đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật tố tụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án:
Đối với nền số 10:
Ông D, ông Q thừa nhận tại thời điểm k hợp đồng chuyển nhượng trên,
ông D không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ch có Quyết định cấp nền
tái định cư nhưng không phải cấp cho ông D, không thể hiện diện tích, số thửa,
tờ bản đồ, ch biết ông D đã mua lại nền tái định cư này, không biết được khi nào
ông D sẽ được cấp quyền sử dụng đất.
Tại phiên toà phúc thẩm, ông D thừa nhận Quyết định cấp nền tái định cư
cho anh Trần Văn T2, anh T2 bị Thi hành án nên bán cho ông D để khấu trừ tiền
thi hành án, khi ông D chuyển nhượng cho ông Q ch có Quyết định cấp nền cho
anh T2, không biết nền tái định cư ở đâu, đến nay do anh T2 chưa thực hiện
nghĩa vụ tài chính (nộp tiền sử dụng đất) nên chưa được cấp GCN.
Ông Q cũng thừa nhận khi ông D chuyển nhượng thì ông D đưa ông Q
xem Quyết định cấp nền tái định cư cho anh T2 (bản photo), nay xem lại Quyết
định là nền số 35, không phải nền số 10, đến nay ông Q không biết anh T2, ông
D có được cấp GCN hay chưa.
Theo hồ sơ cấp phúc thẩm thu thập được, thể hiện năm 2016, anh Trần
Văn T2 bị thu hồi đất để thực hiện Công trình L, phường B - phường C, thành
phố C và Quyết định giao đất tái định cư số 81 ngày 8/6/2017 cho anh T2 diện
tích 114,6m
2
, thửa 162, TBĐ 28, tương ứng lô Act-1, nền số 35 Khu tái định cư
P - H vi hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Xét thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ghi ngày
tháng năm giữa ông D và ông Q đối vi nền tái định cư: nền số A đã vi phạm về
10
đối tượng của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì ông D không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đáp ứng được điều kiện chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo Điều 188 Luật đất đai. Thời điểm ông D chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông Q thì nền số 10 không có thực, 2 bên thừa
nhận xem lại Quyết định cấp nền tái định cư cho anh T2 là nền số 35, anh T2
cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông D không có tư
cách chủ thể để giao kết Hợp đồng theo Điều 117 Bộ luật dân sự.
Từ đó, giao dịch chuyển nhượng giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10 là
giao dịch dân sự trái pháp luật nên vô hiệu nên hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận, 2 bên cùng có lỗi khi xác lập 01 giao dịch trái pháp luật nên không bồi
thường.
Theo Biên nhận ngày 24/6/2018, ông D có nhận của ông Q 900.000.000đ
tiền bán nền nhà tái định cư nên buộc ông D trả ông Quân số tiền 900.000.000đ
là phù hợp. Ông Q yêu cầu ông D bồi thường tiền phạt cọc 900.000.000đ là
không căn cứ chấp nhận.
Ta cấp phúc thẩm đã thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ giao dịch
dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10
là trái pháp luật như nhận định nêu trên.
Do đó, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị phúc thẩm đối vi nội dung
giải quyết giao dịch dân sự này. Một phần kháng cáo của ông Q, bà T1 đối vi
giao dịch dân sự này là không có cơ sở chấp nhận.
Đối với thửa 163:
Ông D cho rằng do ông D chưa thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nền số 10 và ông Q gặp khó khăn, đang cần vốn làm ăn nên
ông D chuyển quyền sử dụng đất thửa 163 cho ông Q để làm tin và để ông Q thế
chấp Ngân hàng vay tiền, không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực
tế.
Ông Q không thừa nhận trình bày của ông D, cho rằng hợp đồng chuyển
nhượng thửa 163 là có thực, ông Q nhận chuyển nhượng nhà và đất giá
1.200.000.000đ, sau khi k hợp đồng chuyển nhượng đã giao đủ tiền cho ông D,
bà H; ông D đã giao nhà đất nhưng chưa nhu cầu sử dụng nên cho ông D mượn
lại sử dụng. Trình bày của ông Q cũng không được ông D thừa nhận.
Cho thấy, ngoài hợp đồng chuyển nhượng thửa 163 giữa ông D, bà H và
ông Q k ngày 20/8/2020 vi giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là
371.000.000đ và thủ tục sang tên cấp giấy chứng nhận cho ông Q thì ông Q
không cn tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh việc giao nhận tiền, giao
11
nhận đất và có việc mua bán căn nhà của anh R xây dựng trên đất. Trong khi kết
quả thẩm định thể hiện trên thửa 163 có căn nhà cấp 4 xây dựng năm 2017 do
anh R xây dựng và quản l sử dụng từ năm 2017 đến nay.
Anh R trình bày có xây dựng căn nhà cấp 4 trên thửa 163 của ông D để
kinh doanh làm biển hiệu quảng cáo từ năm 2017. Năm 2020, anh R đã đăng k
hộ khẩu tại căn nhà này. Quá trình anh R quản l, sử dụng nhà đất không tranh
chấp hay ngăn cản gì, việc ông D chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Q
để làm tin, để ông Q thế chấp giấy chứng nhận vay tiền là việc trong làm ăn giữa
ông D và ông Q, không ai nói gì vi anh R về căn nhà của anh R xây dựng trên
đất thửa 163 của ông D.
Toà án sơ thẩm ch xem xét để tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 20/8/2020 giữa ông Q và ông D, bà H đối vi thửa 163 là vô
hiệu trong khi tại phiên toà phúc thẩm, ông Q trình bày trường hợp hợp đồng vô
hiệu thì yêu cầu ông D trả lại tiền nhận chuyển nhượng và bồi thường thiệt hại
theo quy định.
Cho thấy Toà cấp sơ thẩm chưa làm rõ yêu cầu của các đương sự, chưa
hưng dẫn, giải thích pháp luật để các đương sự thực hiện các quyền yêu cầu của
mình. Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu thì giải quyết hậu quả
pháp l như thế nào. Trường hợp công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất thì tài
sản anh R trên đất được xem xét như thế nào. Toà cấp sơ thẩm chưa làm rõ, chưa
xem xét để giải quyết toàn diện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa 163 nên Toà cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết được.
Xét thấy, Ta cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và
nội dung giải quyết vụ án đối vi tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa 163, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ta
cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần hủy một phần bản án sơ thẩm
và chuyển hồ sơ vụ án cho Ta cấp sơ thẩm giải quyết lại tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 163 theo thủ tục sơ thẩm.
Do đó, chưa xem xét một phần kháng cáo của ông Q, bà T1; chưa xem xét
kháng cáo của Ngân hàng N5; chưa xem xét một phần kháng nghị phúc thẩm của
Viện trưởng Viện KSND thành phố C.
Từ những phân tích trên,
+ Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
quyết định: không chấp nhận một phần kháng cáo của ông Q, bà T1 và giữ
nguyên một phần bản án sơ thẩm đối vi giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10.
12
+ Căn cứ khoản 3 Điều 308 BLTTDS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
quyết định: huỷ một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà cấp sơ
thẩm giải quyết lại tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
163 theo thủ tục sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, được thẩm tra
tại phiên ta, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên ta và lời phát biểu của đại
diện Viện kiểm sát:
NHN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Ta án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ l,
giải quyết và xét xử vụ án đúng theo quy định Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
ông Nguyễn Hải Q là bị đơn; Ngân hàng N2 và bà Trần Thị Huyền T1 là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong hạn luật định. Do đó, Ta án
cấp phúc thẩm thụ l xét xử theo trình tự phúc thẩm là đúng vi Điều 273, 293
Bộ luật Tố dân sự năm 2015.
[2] Xét ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 yêu cầu Ta án cấp
phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hưng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
không ghi ngày tháng năm giữa ông D và ông Q, 2 bên đồng thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bán nền tái định cư: nền số A, đường A khu
dân cư H - phường D, địa ch thửa đất xã H, không số thửa và TBĐ, đất ONT,
giá chuyển nhượng là 1.250.000.000đ, đặt cọc 900.000.000đ, cn lại
350.000.000đ khi nào có giấy đỏ sẽ trả đủ, có chữ k của ông D, ông Q. Tại thời
điểm k Hợp đồng chuyển nhượng trên, ông D không có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, ch có Quyết định cấp nền tái định cư nhưng không phải cấp cho
ông D, không thể hiện diện tích, số thửa, tờ bản đồ, ch biết ông D đã mua lại nền
tái định cư này, không biết được khi nào ông D sẽ được cấp quyền sử dụng đất.
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nền số 10 đã vi phạm về đối tượng
của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì ông D không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên không đáp ứng được điều kiện chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo Điều 188 Luật đất đai. Thời điểm ông D chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông Q thì nền số 10 không có thực, 2 bên thừa nhận xem
lại Quyết định cấp nền tái định cư cho anh T2 là nền số 35, anh T2 cũng chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông D không có tư cách chủ
13
thể để giao kết Hợp đồng theo Điều 117, 123 Bộ luật dân sự. Do đó, giao dịch
chuyển nhượng giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10 là giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
được giải quyết theo khoản 1,2 Điều 131 Bộ luật dân sự. Do đó, ông D phải trả
cho ông Q 900.000.000 đồng; không phải bồi thường tiền cọc theo yêu cầu
kháng cáo của ông Q.
Đối vi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/8/2020 ông
D, bà H chuyển nhượng cho ông Q diện tích đất 77,4m
2
, đất ở tại đô thị, thuộc
thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, đất tọa lạc tại Phường A, thành phố C, tnh
Đồng Tháp; Giá chuyển nhượng ghi trên Hợp đồng: 371.000.000 đồng; Tại giai
đoạn phúc thẩm ông D trình bày: Do hai bên chưa thực hiện được Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở khu dân cư H - Phường D để làm tin vi ông
Q, đồng thời do ông Q cần vốn làm ăn nên nhờ ông D làm Hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, đất tọa lạc tại Phường A, thành phố C
cho ông Q đứng tên để ông Q thế chấp vay tiền.
Người đại diện của ông Q trình bày: Ngày 20/8/2020 ông D và ông Q có
k Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 163 giá đất chuyển nhượng
thực tế là 1.200.000.000 đồng, ghi trong hợp đồng là 371.000.000đ, việc ghi giá
chuyển nhượng không đúng thực tế nhằm giảm tiền đóng thuế và trên đất có căn
nhà mà các bên không có thỏa thuận căn nhà trên đất khi chuyển nhượng; Việc
ông Q trình bày đã giao tiền cho ông D, đã nhận nhà đất và cho ông D mượn lại
căn nhà gắn liền trên đất; nhưng phía ông D không thừa nhận và ông Q không có
chứng cứ để chứng minh có việc giao nhận tiền chuyển nhượng đất thửa 163 cho
ông D, đồng thời ông D cũng không có giao đất cho ông Q quản l sử dụng; Mặt
dù ông Q và vợ chồng ông D có k Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 20/8/2020 đối vi thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18. Tuy nhiên, việc k Hợp
đồng chuyển nhượng thửa 163 là do hai bên chưa thực hiện được Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở khu dân cư H - Phường D, thành phố C (nền
số 10) là để hưng ti nhằm đảm bảo thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nền số 10 nói trên. Đồng thời ông Q không chứng minh được đã giao
tiền cho ông D và diện tích đất, tài sản gắn liền vi đất hiện do phía ông D và
ông R đang quản l, sử dụng. Do đó, có căn cứ xác định Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/8/2020 giữa ông Q và vợ chồng ông D đối
vi thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A,
thành phố C, tnh Đồng Tháp là vô hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 124 Bộ
14
luật dân sự nên Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của ông Q và bà T1
là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[3]. Xét Ngân hàng N2 yêu cầu Ta án cấp phúc thẩm: Công nhận Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38 ngày 13/11/2020, chứng thực tại
Văn phòng C số 4436, quyển số 05-TP/CC-SCC/HĐGD giữa bên thế chấp là ông
Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và bên nhận thế chấp là Ngân hàng N2 chi
nhánh huyện T, tnh Đồng Tháp. Tài sản thế chấp gồm: quyền sử dụng đất có
diện tích: 77,4 m
2
đất ở tại đô thị, thuộc thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, đất tọa
lạc Phường A, thành phố C, tnh Đồng Tháp là ngay tình.
Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù hợp đồng thế chấp được công chứng và
việc thế chấp đã được đăng k đảm bảo là đúng thủ tục quy định, tuy nhiên tại
thời điểm ông Q, bà T1 thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng thì trên đất
đã có nhà của ông R đang làm nơi kinh doanh bảng quảng cáo do ông D cho ông
R ở nhờ nhưng ông Q, bà T1 không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản
5, khoản 7 Điều 320 Bộ luật dân sự là đã không cung cấp thông tin về thực trạng
tài sản thế chấp cho Ngân hàng biết, cũng không thông báo cho Ngân hàng biết
về các quyền của người thứ ba đối vi tài sản thế chấp; đối vi Ngân hàng cũng
không thực hiện quyền quy định tại khoản 2 Điều 323 Bộ luật dân sự, không yêu
cầu ông Q, bà T1 cung cấp đầy đủ thông tin và không liên hệ chính quyền địa
phương để xác minh, thẩm định về thực trạng thửa đất thế chấp nên Ngân hàng
không phát hiện thửa đất thế chấp có liên quan đến người thứ ba là ông R nên có
cơ sở để xác định bên thế chấp (ông Q bà T1) đã không ngay tình khi k hợp
đồng thế chấp vi Ngân hàng. Do đó, không có căn cứ để áp dụng khoản 1 Điều
133 Bộ luật dân sự như Ngân hàng yêu cầu.
Mặc dù Ngân hàng nhận thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38 ngày
13/11/2020 của ông Q là ngay tình nhưng việc chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa 163 giữa ông D, bà H vi ông Q là giả tạo như nhận định trên thì Hợp đồng
thế chấp giữa ông Q, bà T1 vi Ngân hàng cũng không ngay tình. Do đó, bản án
dân sự sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp nói trên vô hiệu là có căn cứ nên Hội
đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng là không có căn cứ nên
không chấp nhận.
[4]. Xét đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Đồng Tháp rút một phần
kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS ngày 07/8/2024 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh về việc giao dịch chuyển nhượng giữa
ông D và ông Q đối vi nền số 10 là giao dịch dân sự trái pháp luật nên vô hiệu
15
nên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là có căn cứ phù hợp vi quy định nên
chấp nhận.
[5]. Xét lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Đồng Tháp
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận một phần kháng cáo của
ông Q, bà T1 và giữ nguyên một phần bản án sơ thẩm đối vi giải quyết tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D và ông Q đối vi
nền số 10. Căn cứ khoản 3 Điều 308 BLTTDS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
quyết định: huỷ một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà cấp sơ
thẩm giải quyết lại tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
163 theo thủ tục sơ thẩm là không có căn cứ nên chấp nhận như nhận định trên.
[6]. Do yêu cầu kháng cáo của ông Q, bà T1 và Ngân hàng N2 không được
chấp nhận nên ông Q, bà T1 và Ngân hàng N2 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
theo quy định pháp luật.
[7]. Các phần khác của bản án dân sự sơ thẩm số 86/2024/DS-ST ngày
24/7/2024 của Ta án nhân dân thành phố Cao Lãnh không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYT ĐNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 298, khoản 1 Điều 308 và khoản 1 Điều 148 Bộ luật
Tố tụng Dân sự; Điều 124, khoản 1 Điều 133, khoản 5 khoản 7 Điều 320 và Điều
323 Bộ luật dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và
sử dụng án phí và lệ phí Ta án.
Tuyên X:
1. Chấp nhận đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Đồng Tháp rút một
phần kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKS-DS ngày 07 tháng 8 năm 2024 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh về việc giao dịch
chuyển nhượng giữa ông D và ông Q đối vi nền số 10 là giao dịch dân sự trái
pháp luật.
2. Không chấp nhận đối vi phần không rút kháng nghị phúc thẩm số
04/QĐ-VKS-DS ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Cao Lãnh.
3. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hải Q, bà Trần
Thị Huyền T1 và Ngân hàng N2.
16
4. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 86/2024/DS-ST ngày 24/7/2024
của Ta án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tnh Đồng Tháp.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng D;
- Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Hải Q;
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Không ghi ngày
tháng năm) ông D và ông Q đối vi nền số A đường A khu dân cư H - Phường D
là vô hiệu.
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/8/2020
giữa ông Nguyễn Hải Q vi ông Nguyễn Hoàng D, bà Lê Thị Thanh H đối vi
thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, diện tích 77,4m², tọa lạc tại Phường A, thành
phố C, tnh Đồng Tháp là vô hiệu.
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền vi đất số CX 327478, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS02655 do Sở Tài nguyên và môi trường tnh Đ cấp cho ông
Nguyễn Hải Q tại thửa đất số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, thành
phố C, diện tích 77,4m
2
, loại đất ở đô thị.
Ông Nguyễn Hoàng D được quyền đến cơ quan có thẩm quyền đăng k
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền vi đất đối vi thửa đất
số 163, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại Phường A, thành phố C, diện tích 77,4m
2
, loại
đất ở đô thị.
Buộc ông Nguyễn Hoàng D có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Hải Q số tiền
900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng).
Buộc ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 có nghĩa vụ liên đi trả
cho Ngân hàng N2 nợ gốc là 1.240.000.000 đồng và tiền lãi đến ngày 10/7/2024
là 23.522.712 đồng; Tổng cộng gốc và lãi là 1.263.522.712 đồng (Một tỷ hai trăm
sáu mươi ba triệu năm trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm mười hai đồng). Đồng
thời, ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 tiếp tục chịu lãi từ ngày
11/7/2024 theo Hợp đồng tín dụng số 6506LAV2023.0600 ngày 20/11/2023 cho
đến khi trả hết nợ.
Không công nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 092011.38
ngày 13/11/2020, chứng thực tại Văn phng C, quyền số 05-TP/CC-SCC/HĐGD
giữa bên thế chấp là ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và bên nhận thế
chấp là Ngân hàng N2 chi nhánh huyện T tnh Đồng Tháp.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối vi các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án án (đối vi các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản
17
tiền hàng tháng người phải thi hành cn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền cn
phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự
2015.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1 Ông Nguyễn Hoàng D phải nộp 39.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ
thẩm và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp tổng cộng 300.000 đồng theo các
biên lai số 0012589 ngày 25/7/2003 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố
Cao Lãnh và phải nộp tiếp 38.700.000 đồng (Ba mươi tám triệu bảy trăm nghìn
đồng).
5.2 Ông Nguyễn Hải Q và bà Trần Thị Huyền T1 phải liên đi nộp tổng
cộng 75.870.000 đồng và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng
theo các biên lai số 0006842 ngày 25/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự
thành phố Cao Lãnh và phải nộp tiếp 75.270.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu hai
trăm bảy mươi nghìn đồng).
5.3 Ngân hàng N2 phải chịu 300.000 đồng và được khấu trừ tạm ứng án
phí đã nộp 24.720.000 đồng theo biên lai số 0009686 ngày 24/4/2004 của Chi
cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh và được nhận lại 24.420.000 đồng
(Hai mươi bốn triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).
6. Về chi phí tố tụng là chi xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Tổng cộng là 4.432.000 đồng ông Q phải chịu và ông D được nhận lại số tiền
này.
7. Án phí dân sự phúc thẩm
Ông Nguyễn Hải Q, bà Trần Thị Huyền T1 và Ngân hàng N2 mỗi người
phải chịu 300.000đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số
tiền 900.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí
số 0012521; 0012520 cùng ngày 05/8/2024 và biên lai thu tạm ứng án phí số
0012534 ngày 08/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.
8. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi
hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014
thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.
9. Các phần khác của bản án dân sự sơ thẩm số 86/2024/DS-ST ngày
24/7/2024 của Ta án nhân dân thành phố Cao Lãnh không bị kháng cáo kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
18
Nơi nhận:
- Phòng TT, KT & THA TAT;
- VKSND Tnh;
- TAND TP Cao Lãnh;
- Chi cục THADS TP Cao Lãnh;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Tr).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm