Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 222/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 222/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 25 tháng 9 năm 2023, bà Lưu Thị C chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị H1 thửa đất số 20, tờ bản đồ số 23, diện tích 8.119m2 và thửa đất số 100, tờ bản đồ số 38, diện tích 5.264m2 địa chỉ thửa đất thuộc thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá thỏa thuận là 900.000.000 đồng, nhưng ghi trong hợp đồng là 400.000.000 đồng. Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, bà H1 mới trả cho bà C một phần, còn nợ lại số tiền 549.000.000 đồng và từ đó đến nay bà H1 không thanh toán, nên bà C khởi kiện yêu cầu bà H1 thanh toán số tiền còn lại là 549.000.000 đồng. Trường hợp hợp đồng vô hiệu, thì yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, lập ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk giữa bà Lưu Thị C với bà Nguyễn Thị H1 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 222/2025/DS-PT
Ngày: 20 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng
Chuyển nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đinh Thị Tuyết
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm
Bà Nguyễn Thị Thu Trang
- Thư phiên toà: Ông Tiến Tài - Thư Toà án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Chí Hiếu
- Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 357/2024/TLPT-DS ngày 13
tháng 11 năm 2024, về việcTranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 41/2024/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 197a/2025/QĐ-PT
ngày 08/4/2025 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 201/2025/QĐ-PT
ngày 28/4/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Lưu Thị C, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn E, E,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Cao C1. Địa chỉ:
Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Lưu Thị C: Ông Nguyễn
Huy H là Luật sư thuộc Công ty L1 và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Đ. Địa chỉ: Số
G, đường Y, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
2. Bị đơn:Nguyễn Thị H1. Địa chỉ: Tổ E, phường T, quận T, thành phố
Đà Nẵng. Chỗ ở: Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Nguyễn Thị H1: Ông
Nguyễn Văn T là Luật sư thuộc Công ty L2 và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh T.
Địa
chỉ: Số F L, phường A, quận T, thành phố H (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
2
- H'Tun N. Địa chỉ: Buôn B, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Chỗ ở: Thôn
A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
- Ông Khắc L. Địa chỉ: Tổ E, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Chỗ ở: Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
- Ủy ban nhân dân E, huyện E, tỉnh Đăk Lắk. Địa chỉ: Thôn B, E,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Trần Nhân H2. Địa chỉ: Thôn B,
xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần P Chi nhánh Đ Phòng G (O chi
nhánh Đ Phòng G). Địa chỉ: Số E và E, đường G, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk.
Người đại diện hợp pháp: Ông Kiều Đức V - Phó giám đốc (vắng mặt).
4. Người làm chứng:
+ Hoàng Thị T1. Địa chỉ: Buôn B, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có
mặt);
+ Bùi Thị Thu T2. Địa chỉ: Thôn E, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (có
đơn xin xét xử vắng mặt).
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Lưu Thị C .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, nguyên
đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 25 tháng 9 năm 2023, Lưu Thị C chuyển nhượng cho Nguyễn
Thị H1 thửa đất số 20, tờ bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
thửa đất số 100, tờ
bản đồ số 38, diện tích 5.264m
2
địa chỉ thửa đất thuộc thôn E, E, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk. Giá thỏa thuận 900.000.000 đồng, nhưng ghi trong hợp đồng là
400.000.000 đồng. Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, H1 mới trả cho
C một phần, còn nợ lại số tiền 549.000.000 đồng từ đó đến nay bà H1
không thanh toán, nên bà C khởi kiện yêu cầu bà H1 thanh toán số tiền còn lại là
549.000.000 đồng. Trường hợp hợp đồng hiệu, thì yêu cầu Tòa án tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất, lập
ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk
giữa bà Lưu Thị C với bà Nguyễn Thị H1 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
Bị đơn Nguyễn Thị H1 người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông L trình bày:
Ngày 21 tháng 9 năm 2023, H1C có ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay với nhau. Sau đó, ra UBND E, huyện E
để chứng thực hợp đồng chuyển nhượng đối với 03 thửa đất là: Thửa đất số 20,
tờ bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
; Thửa đất số 100, bản đồ s38, diện tích
5.264m
2
Thửa đất chưa giấy chứng nhận, diện tích khoảng 6.692m
2
. Địa
chỉ của ba thửa đất thuộc thôn E, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá thỏa thuận
chuyển nhượng cả ba thửa đất bằng giấy viết tay là 900.000.000 đồng.
3
Do một thửa đất chưa giấy chứng nhận, nên ngày 25/9/2023, UBND
E chỉ thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 20, bản đồ số 23 diện tích 8.119m
2
và Thửa đất số 100, bản đồ số
38, diện tích 5.264m
2
. Giá chuyển nhượng 400.000.000 đồng. Còn thửa đất
chưa có giấy chứng nhận hai bên thỏa thuận chuyển nhượng với giá 500.000.000
đồng.
Sau đó, H1 đã trả cho C số tiền 546.000.000 đồng. Hai bên tiến hành
bàn giao thực địa (Nhà đất). Nhưng do quan hệ cháu nên các bên chỉ bàn
giao bằng miệng mà không lập văn bản. Đến khi xảy ra sự việc bà C hái trộm cà
phê của H1 (Lúc này, sự chứng kiến của chính quyền địa phương - Công
an xã và những người dân tham gia hái đó), thì C mới viết giấy bàn giao
nhà đất.
Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng (bà H1 được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất), thì bà H1 thanh toán tiếp cho bà C số tiền 364.800.000 đồng
thông qua H3 (Do C nợ tiền bà H3. Nên C, H3 H1 thỏa thuận
H1 trả nợ cho H3 thay cho C) một số khoản khác mà bà H1 thanh
toán cho bà C.
Nay, C khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc trả số tiền 549.000.000 đồng.
Nếu trường hợp hợp đồng hiệu thì giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu,
thì H1 ông L không đồng ý. việc chuyển nhượng đã thực hiện theo
đúng quy định, H1 đã giao đủ tiền, H1 đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Bà C giao nhà, đất và bà H1 sử dụng từ đó đến nay.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, H3 trình bày:
Trước đây, bà C vay tiền của Ngân hàng và một số cá nhân khác, nên bà
C đã vay số tiền 364.800.000 đồng của để trả ngân hàng rút bìa đỏ sang tên
cho H1. Sau khi C ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho H1, thì H1
ba bên thống nhất H1 trả ncho số tiền 364.800.000 đồng thay cho
C. Đồng thời bà C ủy quyền cho bà đi sang tên cho bà H1. Bà đã nhận đủ số tiền
trên từ bà H1 và bà đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng cho bà H1. Bà chỉ biết bà
C chuyển nhượng cho H1 03 thửa đất. 02 thửa giấy chứng nhận, 01 thửa
chưa có giấy chứng nhận. Giá 900.000.000 đồng. Nhưng hai không cho bà
ký vào giấy để làm chứng. Bà chỉ chứng kiến hai bên ra UBND xã làm hợp đồng
và hiện nay hợp đồng các bên đã nộp cho Tòa án.
Đại diện Ủy ban nhân dân xã E, huyện E trình bày:
Ngày 21/9/2023, UBND E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk tiếp nhận yêu cầu
công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa C với H1.
Tuy nhiên đến ngày 25/9/2023, thì UBND E mới trả kết quả cho các bên
được. UBND xã E chỉ chứng thực việc C chuyển nhượng cho H1 thửa đất
số 20, bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
thửa đất số 100, bản đồ số 38, diện
tích 5.264m
2
địa chỉ hai thửa đất thuộc thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá
chuyển nhượng 400.000.000 đồng. Việc công chứng, chứng thực đúng trình
tự và đúng quy định của pháp luật có mặt của các bên. Các bên tự nguyện
4
vào hợp đồng dưới sự chứng kiến của cán bộ Ủy ban. Đến nay, tranh chấp phát
sinh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 937271 ngày 01 tháng 12
năm 2011 của Ủy ban nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk chứng nhận:
Tên người sử dụng: Hộ ông Cao N1, Lưu Thị C; diện tích 8.119m
2
;
thửa 20; tờ bản đồ 33; địa chỉ thôn E, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 11
tháng 01 năm 2023, đăng ký biến động thừa kế cho bà Lưu Thị C .
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 789365 ngày 15 tháng 5
năm 2015 của Ủy ban nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk chứng nhận:
Tên người sử dụng: Ông Trần H4, bà Đỗ Thị Thu N2; diện tích 5.264m
2
;
thửa 100; tờ bản đồ 38; địa chỉ thôn E, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Ngày
27/02/2017, đăng biến động chuyển nhượng cho ông Cao N1. Ngày 04 /
01/2023 đăng ký biến động thừa kế cho bà Lưu Thị C .
Tại Giấy mua bán đất đề ngày 21 tháng 9 năm 2023 nội dung: C
bán (chuyển nhượng) cho H1 quyền sử dụng đất tài sản trên đất của thửa đất
theo giấy chứng nhận BX 789365 ngày 15 tháng 5 năm 2015 thửa đất số 100,
tờ bản đồ 38, diện tích 5.264m
2
và thửa đất theo giấy chứng nhận số BĐ 937271
ngày 01 tháng 12 năm 2011, diện tích 8.119m
2
, thuộc thửa 20, tờ bản đồ 33;
Diện tích canh tác chưa lên sổ, diện tích 6.692m
2
. Địa chỉ ba thửa đất thôn E,
E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá chuyển nhượng 03 thửa là 900.000.000 đồng.
Tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất ngày 25 tháng 09 năm 2023, tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk
Lắk thể hiện: C chuyển nhượng 02 thửa đất cho H1 gồm: Thửa đất 100,
tờ bản đồ 38 diện tích 5.264m
2
thửa số 20, tờ bản đồ 33, diện tích
8.119m
2
,địa chỉ của hai thửa đất thuộc thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá
chuyển nhượng 400.000.000 đồng.
Tại Giấy vay tiền ngày 05 tháng 10 năm 2023 có ghi nội dung tóm tắt:
C nợ H3 số tiền 364.800.000 đồng. H1 đồng ý thanh toán thay
cho bà C. Bà H1 đã thanh toán đủ số tiền 364.800.000 đồng cho bà H3.
Tại Bản án dân sự thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 18/7/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ các điều 500, 501, 502 và Điều 503 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 167 và Điều 168 của Luật đất đai;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Điều 3 của Luật người cao tuổi.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Thị C về việc: Yêu cầu
Tòa án buộc bà Nguyễn Thị H1 thanh toán số tiền 549.000.000 đồng; trường
hợp hợp đồng vô hiệu, thì tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất được lập ngày 25 tháng 9 năm 2023 tại Ủy ban nhân
dân E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk giữa Lưu Thị C với Nguyễn Thị H1
hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định.
5
Ngoài ra bản án thẩm n quyết định về chi phí tố tụng, án phí
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/7/2024, nguyên đơn bà Lưu Thị C kháng
cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm. Đề nghị cấp phúc thẩm xét xử sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của Lưu Thị C.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Lưu Thị C giữ nguyên nội dung
kháng cáo và giữ nguyên nội dung khởi kiện.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát
biểu:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư phiên tòa các đương sđã chấp hành đúng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lưu Thị C. Sửa Bản án dân sự
thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 18/7/2024 của Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo,
tỉnh Đắk Lắk theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện, đơn kháng cáo của Lưu
Thị C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài
liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Lưu Thị C nộp trong thời
hạn luật định, bà Lưu Thị C thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên vụ
án được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2].Về nội dung: Ngày 21/9/2023 u Thị C Nguyễn Thị H1
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay với nhau, hai
bên thỏa thuận chuyển nhượng đối với 03 thửa đất và tài sản trên các thửa đất là:
Thửa đất số 20, tờ bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
; thửa đất số 100, tờ bản đồ số
38, diện tích 5.254m
2
và thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Địa chỉ của ba thửa đất thuộc thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Giá thỏa
thuận chuyển nhượng cba thửa đất tài sản trên đất bằng giấy viết tay
900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng). Do một thửa đất chưa giấy chứng
nhận, nên ngày 25/9/2023, Ủy ban nhân dân E chỉ chứng thực hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản trên đất đối với Thửa đất số 20, tờ
bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
và Thửa đất số 100, tờ bản đồ s38, diện tích
5.264m
2
. Giá chuyển nhượng 400.000.000 đồng. Còn 01 thửa đất chưa
giấy chứng nhận quyền sdụng đất nên hai bên không tiến hành kết tại ủy
ban.
[3]. Xét đơn đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Lưu Thị C: Đối với hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/9/2023, tại Ủy ban nhân dân xã
E, huyện E giữa bà Lưu Thị C và bà Nguyễn Thị H1, Hội đồng xét xử thấy rằng:
6
Việc thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số
20, tờ bản đồ số 23, diện tích 8.119m
2
và thửa đất s100, tờ bản đồ số 38, diện
tích 5.264m
2
, địa chỉ hai thửa đất thuộc thôn E, E, huyện E giữa hai bên là
hoàn toàn tự nguyện, không sự ép buộc hay vì mục đích nào khác, nội dung,
hình thức của giao dịch không vi phạm điều cấm pháp luật, không vi phạm đạo
đức hội. Tại thời điểm giao dịch tài sản này không bị quan nào biên,
cấm chuyển dịch phù hợp quy định tại tại các Điều 500, 501 Điều 502 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 167 Luật đất đai năm 2013. Lưu Thị C
Nguyễn Thị H1 đều năng lực hành vi dân sđầy đủ. Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được các bên thừa nhận tuân thủ đúng hình thức
hợp đồng nên có hiệu lực pháp luật.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng bằng giấy viết tay ngày 21/9/2023 đối
với thửa đất chưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì trong đơn khởi
kiện, cũng như trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, các bên không
yêu cầu nên không xem xét.
Sau khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết, Lưu
Thị C đã chuyển giao 03 thửa đất gồm: Thửa đất số 20; thửa đất số 100 thửa
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Nguyễn Thị H1
quản lý, sử dụng giấy tờ liên quan đến thửa đất số 20; thửa đất số 100 để
H1 làm thủ tục đăng ký biến động sang tên cho bà H1. Sau đó bà H1 đã thế chấp
tài sản để vay tiền Ngân Hàng.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà C, bị đơn bà H1 đều xác định số
tiền thỏa thuận chuyển nhượng 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng)
bà bà H1 đã trả cho bà H3 thay cho C số tiền 364.800.000 đồng (số tiềnC
nợ H’ Tun trước đó). H1 cho rằng ngoài số tiền 364.800.000 đồng H1
trả nợ cho bà H3 thay cho bà C thì bà H1 đã trả số tiền 546.000.000 đồng còn lại
cho C. Nhưng do quan hệ cháu nên các bên chỉ bàn giao bằng miệng
không lập văn bản. Tuy nhiên, C không thừa nhận cho rằng H1 đang
còn nợ số tiền 549.000.000 đồng cho đến nay chưa thanh toán.
Việc Nguyễn Thị H1 không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng
minh về việc đã thanh toán số tiền còn lại cho u Thị C. Nên H1 phải
thanh toán số tiền còn lại cho C là: (900.000.000 đồng - 364.800.000 đồng)
= 535.200.000 đồng (Năm trăm ba mươi lăm triệu, hai trăm nghìn đồng).
Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của Lưu Thị C, sửa Bản án dân sự thẩm số
41/2024/DS-ST ngày 18/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk
Lắk theo hướng phân tích trên.
[4] Về chi phí tố tụng và án phí:
[4.1] Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị H1 phải chịu tiền chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ và tiền chi phí định giá tài sản.
[4.2] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
7
[4.3] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận, nguyên đơn
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lưu Thị C. Sửa Bản án dân sự
thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 18/7/2024 của Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo,
tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng các Điều 500, 501, 502 Điều 503 của Bộ luật dân sự năm
2015;
Áp dụng Điều 167 và Điều 168 của Luật đất đai 2013;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Toà án.
[2] Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lưu Thị C.
Buộc Nguyễn Thị H1 trả cho u Thị C số tiền 535.200.000 đồng
(Năm trăm ba mươi lăm triệu, hai trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo
mức lãi suất tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị H1 phải chịu 1.900.000 đồng tiền chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ 2.100.000 đồng tiền chi phí định giá tài sản.
Hoàn trả cho Lưu Thị C 1.900.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ 2.100.000 đồng tiền chi phí định giá tài sản sau khi thu được của
Nguyễn Thị H1.
[4] Về án phí:
[4.1] Về án phí dân s thẩm: Bị đơn bà Nguyễn Thị H1 phải chịu
25.400.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Lưu Thị C không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Ea H’Leo;
- Chi cục THADS huyện Ea H’Leo;
- Các đương sự; (đã ký)
- Lưu hồ sơ.
Đinh Thị Tuyết
8
Tải về
Bản án số 222/2025/DS-PT Bản án số 222/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 222/2025/DS-PT Bản án số 222/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất