Bản án số 23/2024/DS-ST ngày 30/07/2024 của TAND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 23/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 23/2024/DS-ST ngày 30/07/2024 của TAND huyện Đức Huệ, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đức Huệ (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 23/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Phan Minh K, bà Trần Thị P khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất” đối với bà Nguyễn Thị Ngọc H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN Đ Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
TỈNH LONG AN
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hùng Vương.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Tư;
2. Ông Phạm Hoàng Anh Dũng.
- Thư phiên tòa: Mai Thị Bé Đào - Thư Tòa án nhân dân huyện Đ,
tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An, tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thanh Thảo - Kiểm sát viên.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 26/2022/TLST-DS ngày 25 tháng 01 năm
2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 40/2024/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 7 năm 2024, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phan Minh K, sinh năm 1966 và Trần Thị P, sinh năm
1970; Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phan Minh K: Ông Nguyễn
Văn K1 - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp nhà nước tỉnh L. (có
mặt)
2. Bị đơn: Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1992; Địa chỉ: Xóm T, B,
huyện G, tỉnh Tiền Giang. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của H: Ông Văn T, sinh năm 1988; Địa chỉ:
Số F, N, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền ngày 17-
6-2023). (vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bản án số: 23 /2024/DS-ST
Ngày: 30-7-2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng y
quyền quyền sử dụng đất”
2
3.1. Văn phòng C; Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An;
(vắng mặt)
3.2. Ông Châu Thành T1, sinh năm 1971; Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện Đ, tỉnh
Long An. (vắng mặt)
3.3. Bà Nguyễn Tường V, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số A, C, Phường D, quận
T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3.4. Văn phòng C1; Địa chỉ: S E, đường T-T, Khu phố G, phường B, quận T,
Thành Phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của Văn P1 công chứng Dương Thanh T2: Ông
Nguyễn Lê Phú T3, sinh năm 1996; Địa chỉ: Tổ D, ấp Đ, xã N, huyện C, Thành phố
Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền ngày 16-8-2023) (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Phan Minh K Trần Thị P trình bày yêu cầu: Ông
sở hữu quyền sử dụng đất đối với thửa số 1153, tờ bản đồ số 8, diện tích 6.512m
2
,
loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Ông bà với ông Châu
Thành T1 chỗ quen biết. Thấy ông đang cần vốn làm ăn, ngày 12-5-2021 ông
T1 nói có quen người làm trong Ngân hàng V2 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nên đề
nghị ông bà đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông T1, để ông T1
đưa cho bạn nhờ làm hồ sơ vay vốn dùm.
Ngày 14-5-2021, ông T1 điện thoại ông tới Văn phòng C để hợp đồng;
đến nơi, ông mới biết là ký hợp đồng ủy quyền (lúc này không mặt ông T1
Văn phòng C) và người có tên trong hợp đồng là bà Nguyễn Thị Ngọc H (nhưng bà
H cũng không có mặt ở Văn phòng C ngày hôm đó).
Văn phòng công chứng đưa cho ông bà bộ hồ sơ và bảo ông bà ký vào; lúc này
ông bà nghĩ là ký hợp đồng ủy quyền để vay tiền, do đó không xem rõ nội dung văn
bản mà mình đã ký có nội dung gì.
Sau khi hợp đồng, đến tháng 5-2021, trên địa bàn huyện Đ dịch bệnh bùng
phát, ông liên hthì ông T1 trả lời ông không trách nhiệm trong vụ này, ông
với ai thì hỏi người đó. Đến nay ông cũng không bất kỳ vay mượn tài
sản hoặc sang nhượng nào khác và ông bà không nhận số tiền vay nào từ bà H.
Ngày 05-11-2021, ông bà được tin H đang rao bán tài sản là quyền sử dụng
đất của ông bà; ông bà xem xét lại hợp đồng thì phát hiện trong hợp đồng có nêu vấn
đề giao cho H quyền sang nhượng đất, nhận tiền cọc,... toàn quyền đối với thửa
đất nêu trên. Do đó, ông thấy việc y quyền tại văn phòng C H lừa dối
ông bà, hợp đồng ủy quyền này không đúng sự thật, ông chỉ ký giấy ủy quyền với
mục đích vay vốn, không với mục đích sang nhượng đất như trong giấy y
quyền thể hiện.
Ông bà yêu cầu Tòa án:
3
Huỷ Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông bà với bà H, công chứng
số 2818, ngày 14-5-2021 tại Văn phòng C, huyện Đ, tỉnh Long An, đối với quyền sử
dụng đất thửa số 1153, tờ bản đồ số 8, diện tích 6.512 m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp
A, xã M.
Hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông bà (do bà H đại diện theo
Hợp đồng ủy quyền do Văn phòng C ngày 14-5-2021) với bà Nguyễn Tường V, đối
với quyền sử dụng đất thửa số 1153 tờ bản đsố 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa,
tọa lạc tại ấp A, xã M, do Văn phòng C1 công chứng số 0001715 quyển số 02/2021
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-5-2021.
Yêu cầu ông T1 và H trả lại cho ông bà giấy chứng nhận quyền sdụng đất
đối với thửa đất nêu trên.
- Tại bản tự khai ngày 28-6-2024, bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:
Ngày 14-5-2021, tại Văn phòng C, nhận ủy quyền quyền sử dụng đất từ ông
Phan Minh K và bà Trần Thị P, diện tích 6.512m
2
, thuộc thửa đất số 1153, tờ bản đồ
số 8, tọa lạc tại ấp A, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BP 629420 do Ủy ban
nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp ngày 11-10-2013, vào sổ GCN số CH02296)
theo Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất số công chứng 2818, quyển số
01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do Văn phòng C chứng nhận.
Đến ngày 20-5-2021, tại Văn phòng C1, đã thực hiện việc ủy quyền lại quyền
sử dụng đất nêu trên cho bên thứ ba Nguyễn Tường V, theo Hợp đồng ủy quyền
số công chứng 00001715, quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-5-2021 do
Văn phòng C1 chứng nhận.
Bà đồng ý toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Tại bản tự khai ngày 28-6-2024, ông Văn T đại diện hợp pháp của bị đơn
Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:
Ngày 14-5-2021, tại Văn phòng C, bà Nguyễn Thị Ngọc H nhận ủy quyền
quyền sử dụng đất từ ông Phan Minh K bà Trần Thị P, đối với phần đất diện
tích 6.512m
2
thuộc thửa đất số 1153, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp A, xã M, huyện Đ,
tỉnh Long An (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất số BP 629420 do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp
ngày 11-10-2013, vào sGCN sCH02296) theo Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng
đất số công chứng 2818, quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do
Văn phòng C chứng nhận.
Đến ngày 20-5-2021, tại Văn phòng công chứng Dương Thanh T2, H đã thực
hiện việc ủy quyền lại quyền sdụng đất nêu trên cho bên thứ ba Nguyễn Tường
V, theo Hợp đồng ủy quyền số công chứng 00001715, quyển số 02/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 20-5-2021 do Văn phòng C1 chứng nhận.
Ông trình bày ý kiến của H đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
như sau:
4
+ Đồng ý hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông K, bà P và bà H
số công chứng 2818, quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do Văn
phòng C chứng nhận đối với quyền quyền sử dụng đất thửa số 1153, tờ bản đồ 8,
diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, xã M.
+ Đồng ý hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông K, P (do
H đại diện theo Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất số công chứng 2818, quyển
số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do Văn phòng C chứng nhận) và bà
V, số công chứng 00001715, quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-5-2021
do do Văn phòng công chứng Dương Thanh T2 chứng nhận, đối với quyền quyền sử
dụng đất thửa số 1153, tờ bản đồ 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A,
xã M.
- Tại bản tự khai ngày 11-9-2023, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Tường V trình bày:
Nguyễn Thị Ngọc H nói với bà, H chủ đất thửa số 1153, tờ bản đồ
8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Bà
H vay tiền của giao cho G chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc, hợp đồng
ủy quyền toàn phần từ ông Phan Minh K, Trần Thị P lập Hợp đồng ủy quyền
toàn phần cho bà để bà tin tưởng; Bà không biết ông K, P bị H lừa gạt chiếm
đoạt tài sản.
Nay bà biết được ông K, bà P là nạn nhân của bà H, do đó, bà đồng ý hủy Hợp
đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông K, P (do H đại diện theo Hợp đng
ủy quyền do Văn phòng C 2818 ngày 14-5-2021) với bà, đối với quyền sử dụng đất
thửa số 1153, tờ bản đồ số 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, xã M,
do Văn phòng công chứng Dương Thanh T2 công chứng số công chứng 00001715,
quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-5-2021.
- Tại bản tkhai ngày 10-3-2022, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Châu Thành T1 trình bày: Khoảng tháng 11-2021 ông vay vốn của ngân hàng V2
nên quen biết với bà Nguyễn Thị Ngọc H, Nguyễn Hoàng Kim V1 Lê Anh T4
giám đốc chi nhánh phó giám đốc kinh doanh làm hồ sơ cho ông vay; Lúc đó
Trần Thị P cũng nhờ ông làm hồ sơ vay vốn 1,7 tỷ đồng; Khi vay vốn lần 1 xong,
P quen biết với giám đốc, phó giám đốc và có số điện thoại tự liên lạc thỏa thuận
với nhau để P và ông K tiếp tục làm hvay vốn lần 2, không còn liên lạc với
ông, vì sợ ngân hàng và ông tính phí 3% như đợt 1. Do ông đi mua bán đất nên bà P
nhờ ông cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi cho Văn phòng C, bà P bảo gửi
cho P2 đánh ủy quyền dùm bà. Vì vậy, ông chỉ đến văn phòng công chứng gửi dùm.
Ông không biết việc ủy quyền của vợ chồng P bà H. Việc ông K, P đến Văn
phòng C hợp đồng với H ông không biết, do đó ông K, P Huyền t chịu
trách nhiệm với nhau, ông không có liên quan.
- Tại văn bản ghi ý kiến ngày 17-8-2023, ông Nguyễn Lê PT3 đại diện hợp
pháp người có quyền lợi nghĩa vliên quan là Văn phòng công chứng ơng Thanh
T2 trình bày: Theo yêu cầu công chứng của Nguyễn Thị Ngọc H, Công chứng
5
viên Hoàng Vũ D có tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền quyền
sử dụng đất, bà H và bà Nguyễn Tường V đã cung cấp đầy đủ bản chính giấy tờ liên
quan. vậy Công chứng viên đã thực hiện thủ tục công chứng theo đúng trình tự
thủ tục theo quy định pháp luật. Nay Văn phòng công chứng Dương Thanh T2 không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông K, P về việc yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền
do Văn phòng C1 công chứng số 0001715 quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 20-5-2021. Tuy nhiên, nếu Tòa án hủy Hợp đồng ủy quyền số 2818, đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
- Tại Công văn số 10-CV/2023 ngày 19-6-2023, người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan là Văn phòng C trình bàyuệHueejxác đinhy: Hợp đồng ủy quyền quyền sử
dụng đất số công chứng 2818, quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD giữa ông Phan
Minh K, Trần Thị P Nguyễn Thị Ngọc H đã được chứng nhận theo đúng
trình tự thủ tục pháp luật quy định. Tại thời điểm công chứng, các bên đều năng
lực hành vi n sự, tự nguyện tham gia giao dịch quyền sử dụng đất không bị ngăn
chặn. Thời hạn ủy quyền 15 năm kể từ khi hợp đồng được chứng nhận không vi
phạm điều cấm của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Phan Minh K:
Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự vviệc hủy hợp đồng ủy quyền
quyền sử dụng đất đã nêu; Về lệ phí ông K, bà H không yêu cầu giải quyết; về Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, đề nghị xem xét theo quy định của pháp luật để buộc
người đang quản lý là bà V trả lại, nếu bà V không trả, đề nghị dành quyền đăng ký
lại cho nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm t nhân dân huyện Đ nhận xét: Trong quá trình giải
quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm
phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục
theo quy định của Bộ luật T tụng Dân sự, Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự được đảm bảo; Người tham gia tố tụng chấp hành, thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ
án: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự về việc hủy hợp đồng ủy quyền
quyền sử dụng đất;
Vụ việc được hòa giải ở Tòa án nhưng không thành.
Ngày 19-6-2023, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng C có đơn
xin giải quyết xét xử vắng mặt; Ngày 21-6-2023, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Châu Thành T1 đơn xin giải quyết xét xử vắng mt; Ngày 17-8-2023,
ông Nguyễn Lê PT3 đại diện hợp pháp của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Văn phòng công chứng Dương Thanh T2 có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt;
Ngày 11-9-2023, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Tường V đơn
xin giải quyết và xét xử vắng mặt; Ngày 28-6-2024, bđơn bà Nguyễn Thị Ngọc H
đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt; Ngày 16-7-2024, ông Lê Văn T, đại diện
hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H đơn xin giải quyết và xét xvắng
mặt; Nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông Phan Minh K, Trần Thị P khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng ủy
quyền quyền sử dụng đất” đối với Nguyễn Thị Ngọc H; đất tọa lạc tại M, huyện
Đ, tỉnh Long An; Tòa án nhân dân huyện Đ tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là
đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm
a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[2] Bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H, người đại diện hợp pháp của bị đơn
Nguyễn Thị Ngọc H là ông Lê Văn T, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Văn phòng C, ông Châu Thành T1, Văn phòng C1, bà Nguyễn Tường V đơn
xin giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn không có đơn rút yêu cầu khởi kiện. Các đương
sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
[4] Xét các yêu cầu của nguyên đơn:
[4.1.] Xét yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông K, bà
P H số công chứng 2818, quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-
2021 do Văn phòng C chứng nhận, đối với quyền quyền sử dụng đất thửa số 1153,
tờ bản đ8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, M, huyện Đ, tỉnh
Long An: Nguyên đơn ông K, bà P yêu cầu hủy hợp đồng, bị đơn là bà H, người đại
diện hợp pháp của H thống nhất hủy hợp đồng. Đây là sự tự nguyện của đương sự
tham gia giao dịch nên ghi nhận là phù hợp Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[4.2.] Xét yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông K, bà
P (do bà H đại diện theo Hợp đồng y quyền quyền sử dụng đất số công chứng 2818,
quyển số 01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do Văn phòng C chứng nhận)
và bà V, số công chứng 00001715, quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-
5-2021 do Văn phòng công chứng Dương Thanh T2 chứng nhận, đối với quyền
quyền sử dụng đất thửa số 1153, tờ bản đồ 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc
tại ấp A, M, huyện Đ, tỉnh Long An: Nguyên đơn ông K, bà P yêu cầu hủy hợp
đồng, bị đơn là H, người đại diện hợp pháp của H, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan V thống nhất hủy hợp đồng. Đây là sự tự nguyện của đương sự tham
gia giao dịch n ghi nhận là phù hợp Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[4.3] Về xử hậu quả pháp của việc hủy 02 hợp đồng nêu trên, các bên
đương sự không đưa ra ý kiến yêu cầu nên không căn cứ xem xét; nếu xảy ra
tranh chấp, các đương sự quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo pháp luật tố tụng
dân sự là phù hợp.
[4.4] Xét yêu cầu về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu
trên: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên H đã giao cho bà V, được V
thừa nhận; Do các Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất bị hủy, nên quyền sử dụng
đất vẫn thuộc ông K, P. V nghĩa vgiao giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BP 629420 do Ủy ban nhân
7
dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp ngày 11-10-2013, vào sGCN số CH02296 cho ông
K, bà P là phù hợp.
[4.5] Người được thi hành án người phải thi hành án trách nhiệm liên
hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc
một phần diện tích trên giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu quan nhà nước
thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
(hoặc một phần diện ch trên giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sdụng đất
đã cấp)
[5] Nguyên đơn ông K, P, bị đơn bà H, những người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà Vông T1 không có yêu cầu gì khác trong vụ án này nên không
căn cứ xem xét. Nếu xảy ra tranh chấp, c đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án
khác theo pháp luật tố tụng dân sự là phù hợp.
[6] Đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông
Phan Minh K là có căn cứ.
[7] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ.
[8] Về lệ phí: Lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng ông K
P tự nguyện chịu không yêu cầu giải quyết, đây sự tự nguyện của đương sự nên
ghi nhận, không đề cập giải quyết.
[9] Về án phí, căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xét thấy:
Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên khoong phải chịu án phí dân s
thẩm. Trả lại nguyên đơn 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sthẩm;
Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu khởi kiện về hủy 02 Hợp đồng ủy quyền quyền
sử dụng đất nên bị đơn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Những
đương sự còn lại không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 92, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 117,
119, 500, 501, 502 và 503 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167 Điều 188 Luật
Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và s
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Minh K, bà Trần Thị
P khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng y quyền quyền sử dụng đất” đối với Nguyễn
Thị Ngọc H.
8
1. Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự ông Phan Minh K, bà Trần Thị P,
Nguyễn Thị Ngọc H và bà Nguyễn Tường V:
1.1. Hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông Phan Minh K, Trần
Thị P và Nguyễn Thị Ngọc H số công chứng 2818, quyển số 01/2021TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do Văn phòng C chứng nhận đối với quyền quyền sử
dụng đất thửa số 1153, tờ bản đồ 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A,
xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.2. Hủy Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông Phan Minh K, Trần
Thị P (do bà Nguyễn Thị Ngọc H đại diện theo Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng
đất số công chứng 2818, quyển s01/2021TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-5-2021 do
Văn phòng C chứng nhận) và Nguyễn Tường V, số công chứng 00001715, quyển
số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20-5-2021 do do Văn phòng ng chứng
Dương Thanh T2 chứng nhận, đối với quyền quyền sdụng đất thửa số 1153, tờ bản
đồ 8, diện tích 6.512m
2
, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp A, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
2. Nguyễn Tường V có nghĩa vụ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BP 629420 do Ủy ban nhân dân
huyện Đ, tỉnh Long An cấp ngày 11-10-2013, vào sổ GCN số CH02296 cho ông
Phan Minh K, bà Trần Thị P khi án có hiệu lực pháp luật.
Người được thi hành án người phải thi hành án trách nhiệm liên hệ
quan Nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một
phần diện tích trên giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu quan nhà nước
thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
(hoặc một phần diện ch trên giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sdụng đất
đã cấp).
3. Về án phí:
- Bà Nguyễn Thị Ngọc H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm;
- Hoàn trả cho ông Phan Minh K, bà Trần Thị P 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0005116 ngày
25-01-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
4. Các đương sự mặt quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 30-7-2024).
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
9
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Hùng Vương
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Long An;
- VKSND huyện Đ;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- UBND xã M;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, án văn.
Tải về
Bản án số 23/2024/DS-ST Bản án số 23/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 23/2024/DS-ST Bản án số 23/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất