Bản án số 217/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 217/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 217/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 217/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Hồ Thị K, bị đơn Tô Thị Sáu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 217/2024/DS-PT
Ngày: 28/8/2024
V/v tranh chấp Hợp đồng cầm cố
quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Vũ;
Các Thẩm phán: Ông Hồ Văn Phụng;
Ông Nguyễn Thành Hữu.
- Thư phiên tòa: NMỹ Yên - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Huỳnh Thị Mỹ Liên - Kiểm sát viên.
Ngày 28/8/2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ số 110/2024/TLPT-DS ngày 18/6/2024 về việc
“Tranh chấp Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 162/2024/QĐ-PT ngày
04/7/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Hồ Thị K; Sinh ngày: 01/01/1965; Địa chỉ trú: Ấp M,
xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
- Bị đơn:
1. Bà Thị S; Tên gọi khác: Tô Thị Ú; Sinh ngày: 01/01/1959; Địa chỉ cư
trú: Ấp S, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
2. Ông Mã Hòa D; Sinh ngày: 01/01/1961; Địa chỉ cư trú: Ấp S, xã Đ, huyện
K, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của ông Hòa D: Thị S; Tên gọi khác:
Tô Thị Ú; Sinh ngày: 01/01/1959; Địa chỉ cư trú: Ấp S, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng; là người đại diện theo ủy quyền, theo Giấy ủy quyền lập ngày 08/4/2024.
(có mặt)
- Người kháng cáo: Bà Tô Thị S là bị đơn trong vụ án.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn trình bày như sau:
Vào ngày 09/11/2015, bà K có nhận cố đất của vợ chồng ông D và bà S đối
với phần đất ruộng có diện ch khoảng 4,5 công đất tầm lớn (diện tích 7.035m
2
)
thuộc thửa đất số 296, bản đsố 03, tọa lạc tại ấp S, Đ, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng với giá 06 cây 02 vàng 24k (62 chvàng 24k), thời hạn cố đất từ tháng
11/2015 đến tháng 02/2017, khi hết hạn thì chuộc lại một lần. Hai bên có làm
Giấy cố đất K vợ chồng S, ông D cùng tên, mi bên giữ 01 bản.
Vợ chồng bà S, ông D đã nhận đủ vàng cố đất và giao đất cho K sử dụng, canh
tác. Đến hết thời hạn cố đất theo hợp đồng, vợ chồng S, ông D không chuộc lại
đất nên K tiếp tục canh tác sử dụng đất. Ngày 29/12/2022, hai bên tiếp tục thỏa
thuận hợp đồng cố đất, có sự thay đổi về diện tích đất là 05 công đất tầm 03 mét,
với thời hạn 02 năm, kể từ ngày 29/12/2022 đến 29/12/2024. Trong thời hạn cố
đất này thì bà K có quyền thuê xe cuốc đất lên liếp trồng cây, thỏa thuận khi nào
S ông D giao đủ vàng chuộc đất trả đủ số tiền thuê xe cuốc đất lên liếp
trồng cây cho bà K thì K1 giao trả lại đất cho vợ chồng S và ông D. Hai bên
làm giấy tay thỏa thuận về việc này. Nhưng đến khoảng 09 giờ sáng ngày
30/12/2022), vợ chồng bà S, ông D mời bà K qua nhà nói chuyện về việc cầm cố
đất yêu cầu K mang theo hợp đồng cố đất (giấy cố đất ngày 09/11/2015).
Tuy nhiên, khi K mang theo hợp đồng cố đất (bản gốc giấy cố đất ngày
09/11/2015) qua nhà bà S, ông D nói chuyện thì con gái bà S, ông D (bà K không
biết tên) giật giấy cố đất ngày 09/11/2015 tự ý xé bỏ bản gốc của K, còn nói
với K không việc cố đất này không chịu trả tiền xe cuốc đất. Đồng
thời, vợ chồng S và ông D tự ý lấy lại phần đất cố này không cho bà K tiếp tục
sử dụng, cũng không trả số vàng cố đất cho K. Theo kết quả trích lục hồ
đăng quyền sử dụng đất thì thửa đất bà Kiều cố của bà S, ông D thửa đất
số 297, diện tích 6.428m
2
, tbản đồ s03, tọa lạc tại ấp S, Đ, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng hiện do bà Tô Thị M (em ruột bà S) đứng tên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. K yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng hòa giải
không thành. Bà K yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Tuyên bố Hợp đồng cầm
cố đất theo giấy cố đất ngày 09/11/2015 giữa bà Hồ Thị K và vợ chồng bà Tô Thị
S, ông Mã Hòa D đối với phần đất có diện tích 6.428m
2
thuộc thửa đất số 296, tờ
bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp S, Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng hiệu. Đồng
thời, buộc vợ chồng bà Tô Thị S, ông Mã Hoa D1 có nghĩa vụ trả cho bà K vàng
cố đất là 06 cây 02 chỉ vàng 24k (62 chỉ vàng 24k).
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn trình bày như
sau:
Bà S thừa nhận vợ chồng bà S, ông D1 cố đất cho K theo Giấy cố đất
ngày 9/11/2015 là đúng và vợ chồng bà S, ông D1 đã nhận 62 chỉ vàng 24k từ bà
K đã giao đất cho K sử dụng, canh tác. Đối với tờ Hợp đồng cố đất ngày
29/12/2022 mà bà K cung cấp cho Tòa án, S thừa nhận bà S và ông D1
tên vào tờ hợp đồng này, tuy nhiên nội dung trong tờ hợp đồng không giống nội
3
dung thỏa thuận miệng với nhau, cụ thể khi thỏa thuận miệng với K thì vợ
chồng bà S, ông D1 cũng đồng ý cho bà K từ đất lúa lên đất vườn, nhưng mọi chi
phí lên đất vườn là tiền mướn xe cuốc đất thì phía K tự chịu, S chỉ ghi
được tên họ của bà chứ không rành chữ nên khi ký tên vợ chồng bà cứ nghĩ đúng
như thỏa thuận miệng rồi tên, nhưng sau đó S đưa cho con xem lại thì
thấy không đúng, từ đó bà S lấy lại bản chính của Hợp đồng cố đất này để xé bỏ.
Nguồn gốc phần đất ccủa bà Tô Thị M (em gái bà S) trước đâytrú ở ấp S,
Đ, sau về chuyển về Vĩnh Long từ khoảng năm 2012, 2013 cho đến nay
nhưng S không địa chỉ cụ thể, M chỉ thỉnh thoảng về thăm anh em
đám giỗ cha mẹ. Phần đất nàyM đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào năm 1994. Phần đất này có tổng diện tích 6.428m
2
thuộc thửa đất số 297,
tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại p S, Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Hiện nay, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do M đang giữ nên bà S không cung cấp được
bản chính cho Tòa án, chứ không thế chấp tại ngân hàng nào. Việc S cố đất
cho bà K thì bà M biết. Phần đất cầm cố nêu trên bà M đã chuyển nhượng cho
bà S theo Tờ chuyển nhượng đất giữa S và bà M nhưng đến nay bà S chưa làm
thủ tục sang tên quyền sử dụng đất. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, không đồng ý tuyên bố hợp đồng cầm cố đất giữa vợ chồng bà
S, ông D1 với K theo Giấy cố đất ngày 9/11/2015 hiệu, vì vợ chồng
S, ông D1 không có vàng để chuộc lại đất.
* Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thị M đã được Tòa
án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ vụ án các văn bản tố tụng khác
nhưng M không nộp cho Tòa án văn bản ghi nhận ý kiến về vụ án M
vắng mặt tại các phiên họp, phiên tòa nên Tòa án không thu thập được ý kiến của
bà M về vụ án.
* Vụ án được Tòa án nhân n huyện K, tỉnh Sóc Trăng thlý, giải quyết
theo trình tự sơ thẩm.
* Tại Bản án dân sư sơ thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng quyết định:
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147,
Điều 192, Điều 161, Điều 165, khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015; khoản 1 Điều 167 Điều 203 Luật đất đai 2013; các điều 122, 123, 131
407 của Bluật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình năm
2014; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014); khoản 2 Điều 26, khoản 3 Điều 27, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị K. Tuyên bố Hợp
đồng cầm cố đất theo Giấy cố đất ngày 09/11/2015 giữa bà Hồ ThK vợ chồng
Thị S, ông Mã Hòa D đối với phần đất tại thửa 297, tờ bản đồ 03 (diện tích
6.428m
2
), tọa lạc tại ấp S, Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận
4
quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày
05/3/1994 cho Tô Thị M đứng tên là vô hiệu.
2. Buộc bị đơn Thị S và ông Hòa D cùng nghĩa vụ liên đới
trả cho bà Hồ Thị K 62 chỉ vàng 24k cố đất, được quy ra thành tiền tại thời điểm
xét xử là 435.550.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Buộc bà Hồ Thị K trả toàn bộ phần đất tại thửa 297, tờ bản đồ 03, loại đất
lúa, tọa lạc tại ấp S, Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cho vợ chồng S, ông D
quản lý, sử dụng theo Giấy cố đất ngày 09/11/2015. Phần đất hiện các trụ phân
ranh ràng, tứ cận thực tế theo xác minh ca Tòa án sau: Hướng Đông giáp
đất ông Trần Văn S1 (đã chết), hiện do ông Trần Văn C, Trần Thị Ngọc H (con
ông Trần Văn Đ) ông Trần Văn B sử dụng; Hướng Tây giáp đất ông Trần Văn
V (đã chết), hiện do ông Trần Văn T và bà Hồ Thị Thúy A sử dụng; Hướng Nam
giáp đất của ông Văn C1 (đã chết), hiện do ông Văn T1 sử dụng; Hướng
Bắc giáp đất bà Tô Thị T2 sử dụng. (đã cắm trụ ranh giữa các bên, có sơ đồ kèm
theo)
Hiện trạng trên đất không có nhà hay công trình kiến trúc khác, đất bỏ trống
chưa trồng lúa.
4. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay Tờ
chuyển nhượng đất giữa Thị S Thị M (không ghi ngày tháng năm),
do các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem
xét giải quyết. Trường hợp sau này phát sinh tranh chấp thì sẽ giải quyết trong vụ
án khác.
- Ngoài ra bản án thẩm n giải quyết vchi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ, định giá, án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 22/5/2024, bị đơn Thị S kháng cáo toàn bộ bản án thẩm,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn, bị đơn có
hiệu lực.
* Ngày 04/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ-VKS-DS, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015,
sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa
án nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
5
- Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn Thị S giữ nguyên nội
dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữ nguyên nội
dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng như sau:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử Thư phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự các
đương sự thực hiện quyền nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Về việc giải quyết vụ án: Xét kháng cáo của bị đơn bà Tô Thị S không
căn cứ chấp nhận vì hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà S,
ông D với bà K vi phạm điều cấm của pháp luật. Về kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Hội đồng xét xử thẩm buộc nguyên
đơn chịu ½ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ không phù hợp quy định tại
khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 buộc nguyên đơn cùng
chịu ½ án phí dân sự thẩm có giá ngạch đối với khoản tiền bị đơn phải trả lại
cho nguyên đơn là không phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân n tỉnh Sóc Trăng không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn Thị S, căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa một phần bản án thẩm đối với án phí
dân sự sơ thẩm và chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ như đã phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án, được thẩm tra các chứng
cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, ý kiến phát biểu và đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị
đơn ông Mã Hòa D vắng mặt nhưng người đại diện hợp pháp của ông D mặt
tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015,
Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo, kháng nghị phạm vi xét xử phúc
thẩm: Xét các Đơn kháng cáo của bị đơn bà Tô Thị S lập và nộp trực tiếp tại Tòa
án cấp sơ thẩm vào ngày 22/5/2024 là hợp lệ, đúng quy định về người kháng cáo,
thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng cáo theo quy định của các điều
271, 272, 273 và 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với Quyết định
kháng nghị phúc thẩm s17/QĐ-VKS-DS của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Sóc Trăng được ban hành và gửi đến Tòa án cấp thẩm cùng ngày
04/6/2024 hợp lệ, đúng quy định vthẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng
nghị theo quy định tại các điều 278 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm theo trình
tự phúc thẩm.
6
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, theo lời trình bày của các đương sự và
tài liệu, chứng cứ thu thập tại Văn phòng Đăng đất đai tỉnh S (bút lục s81-
83), sự thật khách quan của vụ án được xác định như sau: Vào ngày 09/11/2015,
vợ chồng bà S, ông D cầm cố cho K quyền sử dụng thửa đất số 297, diện tích
6.428m
2
, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp S, xã Đ, huyện K, tỉnhc Trăng với giá
62 chỉ vàng 24k, thời hạn cầm cố quyền sử dụng đất từ tháng 11/2015 đến tháng
02/2017, khi hết hạn thì vợ chồng bà S, ông D giao trả cho K 62 chỉ vàng 24k
để nhận lại đất. Hai bên làm Giấy cố đất K và vợ chồng S, ông D cùng
tên, mỗi bên giữ 01 bản. Vợ chồng S, ông D đã nhận đủ vàng cố đất và giao
đất cho K sử dụng, canh tác. Đến hết thời hạn cầm cố quyền sử dụng đất theo
hợp đồng, vợ chồng bà S, ông D không chuộc lại đất nên K tiếp tục canh tác,
sử dụng đất. Ngày 29/12/2022, hai bên tiếp tục thỏa thuận hợp đồng cầm cố quyền
sử dụng đất, với thời hạn 02 năm, kể từ ngày 29/12/2022 đến 29/12/2024 tuy nhiên
do không thống nhất về chi phí lên liếp trồng cây nên xảy ra tranh chấp. Theo kết
quả trích lục hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất thì thửa đất mà bà Kiều cố của bà
S, ông D hiện do Thị M (em ruột S) đứng n Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
[4] Về yêu cầu của nguyên đơn, về việc tuyên bố Hợp đồng cầm cố quyền
sử dụng đất theo Giấy cố đất ngày 09/11/2015 hiệu và kháng cáo của bị đơn
S, về việc yêu cầu tuyên b hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất ngày
09/11/2015 hiệu lực: Xét tại thời điểm vợ chồng chồng S, ông D K
thỏa thuận cầm cố quyền sử dụng thửa đất số 297 thì thửa đất này thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của Thị M theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 05/3/1994 nên S, ông D
không quyền định đoạt đối với quyền sử dụng thửa đất số 297. Đồng thời, theo
quy định tại Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 không cho phép người quyền
sử dụng đất thực hiện việc cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, việc Hội đồng xét
xử sơ thẩm thẩm tuyên bố Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất ngày 09/11/2015
giữa vợ chồng S, ông D K giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật phù hợp với quy định tại Điều 167 của Luật Đất đai năm
2013 và Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự hiệu như sau: “1. Giao dịch dân sự hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại
nh trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận. Trường hợp không thể
hoàn trđược bằng hiện vật ttrị gthành tiền để hoàn trả”. Nvậy, Hội đồng
xét xử sơ thẩm xhậu quả pháp của giao dịch dân shiệu, buộc vchồng
bà S, ông D trả lại cho bà K số vàng đã nhận khi cầm cố quyền sử dụng đất là 62
chỉ vàng 24k thành tiền 435.550.000 đồng (theo giá vàng thị trường tại thời
điểm xét xử thẩm) buộc K trả lại thửa đất số 297 cho vợ chồng S, ông
D quản có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của bị đơn
bà S là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.
7
[6] Xét nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Sóc Trăng:
[7] Về án phí dân sự thẩm: Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 khoản 2 Điều 26, khoản 3 Điều 27, điểm đ khoản 1 Điều
12, Điều 14, Điều 15, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì nguyên đơn không
phải chịu án pdân sự thẩm đối với yêu cầu khởi kiện do yêu cầu khởi kiện
được Tòa án chấp nhận. Đối với bị đơn phải chịu án phí dân sự thẩm không
giá ngạch đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được a án chấp nhận
300.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch đối với phần nghĩa vụ tài sản
phải trả lại cho nguyên đơn. Tuy nhiên, do bị đơn S ông D là người cao tuổi
yêu cầu xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất quyết
định miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà S và ông D.
[8] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ chi phí tố tụng khác: Căn cứ vào
khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, do yêu cầu khởi kiện
được Tòa án chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ. Bị đơn bà S, ông Dễ c chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí
ttụng khác 2.550.000 đồng và nghĩa vụ thanh toán lại cho người tạm ứng
là bà K.
[9] Từ những nhận định trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, không chấp nhận kháng cáo của bđơn
Thị S, sửa bản ánthẩm đối với phần giải quyết về án phí và chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ, chi phí tố tụng khác.
[10] Về án phí dân sự: Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15, khoản 1 Điều 29
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí lệ phí Tòa án. Do Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên phần bản án
thẩm bị kháng cáo nên bị đơn Thị S chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000
đồng. Tuy nhiên, S người cao tuổi yêu cầu xin miễn án phí dân sự phúc
thẩm nên Hội đồng xét xphúc thẩm thống nhất miễn án phí dân sự phúc thẩm
cho bà S.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15,
khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
8
* Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
* Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Tô Thị S (tên gọi khác: Tô Thị
Ú).
* Sửa phần quyết định về việc giải quyết về án phí dân sự thẩm, chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí tố tụng khác của Bản án dân sự sơ thẩm số
69/2024/DS-ST ngày 07/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng
Quyết định của Bản án sơ thẩm được tuyên lại như sau:
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147,
Điều 192, Điều 161, Điều 165, khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015; khoản 1 Điều 167 và Điều 203 Luật đất đai 2013; các điều 122, 123, 131,
407 khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân snăm 2015; Điều 27 của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa
đổi, bổ sung năm 2014); khoản 2 Điều 26, khoản 3 Điều 27, điểm đ khoản 1 Điều
12, Điều 14, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường v Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị K. Tuyên bố Hợp
đồng cầm cố quyền sử dụng đất theo Giấy cố đất ngày 09/11/2015 giữa H
Thị K vợ chồng bà Thị S, ông Hòa D đối với phần đất tại thửa đất số
297, tờ bản đồ 03 (diện tích 6.428m
2
), tọa lạc tại ấp S, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện K,
tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 05/3/1994 (do Thị M đứng tên) giao dịch dân
sự vô hiệu.
2. Buộc bị đơn bà Tô Thị Sông Mã Hòa D nghĩa vụ liên đới hoàn trả
cho bà Hồ Thị K 62 chỉ vàng 24k, được quy đổi thành tiền tại thời điểm xét xử sơ
thẩm 435.550.000 đồng (bốn trăm ba mươi lăm triệu, năm trăm năm mươi ngàn
đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Buộc bà Hồ Thị K trả toàn bộ phần đất tại thửa đất số 297, tờ bản đồ 03,
loại đất lúa, tọa lạc tại ấp S, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cho vợ chồng S,
ông D quản lý, sử dụng theo Giấy cố đất ngày 09/11/2015. Phần đất hiện có các
trụ phân ranh rõ ràng, có tứ cận thực tế theo xác minh của Tòa án sau:
- Hướng Đông giáp đất ông Trần Văn S1 (đã chết), hiện do ông Trần Văn C,
Trần Thị Ngọc H (con ông Trần Văn Đ) và ông Trần Văn B sử dụng.
9
- Hướng Tây giáp đất ông Trần Văn V (đã chết), hiện do ông Trần Văn T
Hồ Thị Thúy A sử dụng.
- Hướng Nam giáp đất của ông Tô Văn C1 (đã chết), hiện do ông Tô Văn T1
sử dụng.
- Hướng Bắc giáp đất bà Tô Thị T2 sử dụng.
(đã cắm trụ ranh giữa các bên, có sơ đồ kèm theo)
Hiện trạng trên đất không nhà hay công trình kiến trúc khác, đất bỏ trống
chưa trồng lúa.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn Hồ Thị K không phải chịu án phí dân sự thẩm. Trả lại
cho K số tiền tạm ứng án phí đã nộp 8.215.000 đồng (tám triệu, hai trăm
mười lăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007154
ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn bà Tô Thị S, ông Mã Hòa D được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về chi phí xem t, thẩm định tại chchi phí tố tụng khác: Bị đơn
Thị S, ông Hòa D nghĩa vụ liên đới chịu stiền 2.550.000 đồng (hai
triệu, năm trăm năm mươi ngàn đồng) nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho Hồ
Thị K số tiền 2.550.000 đồng (hai triệu, năm trăm năm mươi ngàn đồng).
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008
(sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bsung năm 2014).
* Án phí dân sự phúc thẩm:
- Bị đơn bà Tô ThS được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
* Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện K;
- Chi cục THADS huyện K;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VP;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Tải về
Bản án số 217/2024/DS-PT Bản án số 217/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 217/2024/DS-PT Bản án số 217/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất