Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 21/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Bông (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 21/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 15/12/2021, bà Vũ Thị Cẩm T đã ký kết Hợp đồng tín dụng số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG BÔNG
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 23/2024/DS-ST
Ngày 19 - 9 - 2024
V/v “T/c hợp đồngn dụng”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Văn Hồi.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Hà Thị Huyền; Ông Rmah In.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Nga - Thư Tòa án nhân n huyện Krông
Bông, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông tham gia phiên tòa:
Ông Lê Thanh Niềm - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân n huyện Krông
Bông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2021/TLST-DS ngày 23 tháng 6
năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 25/2024/QĐXX-DSST ngày 07 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa
số: 41/2024/QĐST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Ngân hàng No và PTNT VN (Viết tắt: A).
Địa chỉ: Số 02 Láng H, phường Thành C, quận Ba Đ, Tp Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T Chức vụ: Giám đốc A chi nhánh
huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk (Giấy uỷ quyền số 2665//NHNoKrB-PC ngày
01/12/2022).
Đại diện theo ủy quyền lại: Ông Phạm Ngọc Đinh L Chức vụ: Trưởng phòng
KHKD A chi nhánh huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk. (Giấy uỷ quyền số
04/2022/NHNoKrB-UQTA ngày 01/12/2022).
2
Địa chỉ: Số 211 Nguyễn Tất T, thị trấn Krông K, huyện Krông B, tỉnh Đăk Lăk
(có mặt).
Bị đơn:
+ Nguyễn Thị N, sinh năm 1960; Địa chỉ: Thôn N, xã Hòa L, huyện Krông
B, tỉnh Đắk Lk.
+ Ông Lê Quang T, sinh năm 1959 (đã chết ngày 29/7/2018 theo Trích lục khai
tử số 444/TLKT-BS ngày 26/10/2021 do UBND xã Hòa L cấp).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Lê Thị Quỳnh T, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn N, Hòa L, huyện Krông
B, tỉnh Đắk Lk.
+ Ông Trần Mai K Nguyễn Thị Bích L. Địa chỉ: Thôn N, xã Hòa L, huyện
Krông B, tỉnh Đắk Lk (vắng mặt – có đơn xin vắng mặt).
+ Ông Lê Thanh T1. Địa chỉ: Thôn N, xã Hòa L, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lk
(vắng mặt – có đơn xin vắng mặt).
+ Ông Diệp Đình H và Thị T. Địa chỉ: Thôn B, Hòa L, huyện Krông
B, tỉnh Đắk Lk (vắng mặt – có đơn xin vắng mặt).
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Quang T:
+ Bà Nguyễn Thị N; Chị Lê Thị Quỳnh T
+ Anh Quang Đ, sinh năm 1983. Nơi trú cuối cùng: B31, 36 Huy T,
TDP 10, phường Tân L, Tp Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk
+ Chị Thị Quỳnh Tr, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn H, xã Long H, huyện Bù
Gia M, tỉnh Bình Phước (Chị T, chị Tr đều vắng mặt đơn xin vắng mặt; N,
anh Đ đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện, quá trình tham gia ttụng, đại diện theo ủy quyền lại của
nguyên đơn ông Phạm Ngọc Đinh L, trình bày:
Ngày 16/3/2018, Nguyễn Thị N đã kết Hợp đồng tín dụng số:
5205LAV201800791 với Ngân hàng No và PTNT VN - Chi nhánh huyện Krông B,
Đắk Lắk (Viết tắt là: A) để vay vốn với số tiền vay: 140.000.000đ (Một trăm bốn
mươi triệu đồng). Lãi suất vay: 10,5%/năm, tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Thời hạn vay: 36 tháng; Ngày trả nợ cuối cùng 17/3/2021; Mục đích sử dụng vốn
vay: chi phí sản xuất, kinh doanh, đời sống của hộ gia đình.
3
Khi vay Nguyễn Thị N có thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất theo hợp đồng thế chấp số 240153012/HĐTC ngày 14/3/2018 giá trị thửa đất
số 144A, 15, tờ bản đồ số 03, diện tích 2.340m
2
(300m
2
đất ở và 2040m
2
đất màu) và
các tài sản trên đất, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số O 341168 do y ban nhân dân huyện Krông Bông
cấp ngày 18/8/2000, mang hộ ông Lê Quang T, số vào sổ 00489 QSDĐ/QH03, địa
chỉ đất tại Hòa L, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk. Hợp đồng thế chấp đã được
chứng thực tại Ủy ban nhân dân Hòa L Đăng giao dịch đảm bảo tại Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai huyện Krông B. Nguyễn Thị N được ông Lê
Quang T chị Thị Quỳnh T ủy quyền để sử dụng giấy chứng nhận quyền s
dụng đất là tài sản thuộc shữu chung của hộ gia đình để thế chấp vay vốn theo Hợp
đồng ủy quyền số 240153012/HĐUQ ngày 14 tháng 3 năm 2018.
Quá trình thực hiện hợp đồng Nguyễn Thị N mới trả được 17.438.630 tiền
lãi chưa trả được khoản nợ gốc. Tính đến nay N đã vi phạm hợp đồng trong
việc trả nợ gốc và lãi cho A, mặc dù đã được A nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở. A khởi
kiện yêu cầu N, chồng N ông Lê Quang T phải liên đới trả cho A số tiền
140.000.000 đồng nợ gốc và nợ lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng tạm tính đến
ngày 20/6/2021 32.541.370 đồng tiếp tục trả lãi phát sinh theo hợp đồng từ ngày
21/7/2021 cho đến ngày trả hết nợ gốc.
Trường hợp Nguyễn Thị N, ông Quang T không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ trả nợ, thì A Việt Nam thông qua A - chi nhánh huyện Krông
B, tỉnh Đắk Lắk có quyền yêu cầu quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản đảm bảo
của bà N và ông T theo hợp đồng thế chấp số: 240153012/HĐTC ngày 14/3/2018 để
thu hồi nợ cho ngân hàng là gtrị thửa đất số 144A, 15, tờ bản đồ số 03, diện tích
2.340m
2
(200m
2
đất ở và 2.140m
2
đất màu) và các tài sản có trên đất.
Trường hợp sau khi phát mãi tài sản bảo đảm nêu trên mà không đủ thanh toán
số tiền nợ gốc, lãi vay, lãi phạt và các chi phí hợp lý khác thì Nguyễn Thị N vẫn
phải chịu trách nhiệm thanh toán cho đến khi trả hết nợ vay cho A theo quy định của
pháp luật.
- Quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn Nguyễn Thị N; Người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan anh Lê Quang Đ vắng mặt không có lý do.
- Ông Quang T, sinh năm 1959 (ông T đã chết ngày 29/7/2018 theo Trích lục
khai tử số 444/TLKT-BS ngày 26/10/2021 do UBND xã Hòa L cấp).
4
- Chị Thị Quỳnh T khai: vào năm 2018 tôi giấy ủy quyền cho mẹ
Nguyễn Thị N được sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình để
vay vốn A, thời điểm đó tôi đã lập gia đình riêng từ lâu nhưng chưa cắt khẩu về nhà
chồng nên là thành viên hộ gia đình, sau khi vay vốn thì mẹ tôi sử dụng vào mục đích
thì tôi không biết. Do khoản vay đã quá hạn nên A khởi kiện, tôi không đồng ý
cùng với mẹ tôi trả nợ. Thời điểm ký kết hợp đồng vay vốn thì ba tôi là Lê Quang T
còn sống, đến tháng 7 năm 2018 thì ba tôi chết. Bản thân tôi có liên quan đến tài sản
thế chấp là di sản thừa kế của ba tôi để lại hiện đang thế chấp cho A. Thời điểm mẹ
tôi vay tiền tôi đã gia đình riêng nên tôi không liên quan đến khoản nợ, trường
hợp mẹ tôi không trả được ncho A tôi đồng ý giao toàn bộ tài sản cho mẹ tôi để xử
trả nợ cho Ngân hàng. Tôi tchối nhận di sản của ba tôi cũng không yêu
cầu gì đối với tài sản hiện đang thế chấp tại Ngân hàng.
- Chị Thị Quỳnh Tr khai: vào năm 2018 khi cha mẹ ông Quang T
bà Nguyễn Thị N ký kết hợp đồng vay vốn A, thời điểm đó tôi đã lập gia đình riêng
cắt khẩu về nhà chồng từ năm 2012 nên không còn thành viên trong hộ gia đình.
Tôi có biết mẹ tôi có vay A nhưng không được sử dụng số tiền đó nên tôi không có
trách nhiệm cùng với mẹ tôi trả nợ cho A. Do khoản vay đã quá hạn nên A khởi kiện,
tôi không đồng ý cùng với mẹ tôi trả nợ. Hiện nay ba tôi đã mất. Bản thân tôi có liên
quan đến nghĩa vụ của người chết để lại và di sản thừa kế của ba tôi để lại. Hiện nay
tôi đã có gia đình riêng nên tôi không liên quan đến nghĩa vụ trả nợ này, tài sản thế
chấp là do cha mẹ tôi tạo dựng tôi không có đóng góp gì, di sản của ba tôi đang thế
chấp tại A. Trường hợp mẹ tôi không trả được nợ cho A thì Ngân hàng cứ xử lý tài
sản theo quy định của pháp luật. Tôi từ chối nhận di sản của ba tôi cũng không
yêu cầu gì. Mong Ngân hàng tạo điều kiện cho mẹ tôi có thời gian để trả nợ. Chị Tr
có đơn từ chối tham gia tố tụng.
Qua xác minh tại chính quyền địa phương Hòa L, huyện Krông B: Nguyễn
Thị N hiện vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn N, xã Hòa L, huyện Krông
B. hiện nay bà N không có mặt tại địa phương cũng không ai biết địa chỉ cụ thể.
Chị Thị Quỳnh T cắt khẩu chuyển về thôn S, Hòa L từ ngày 25/9/2018; Chị
Thị Quỳnh Tr cắt khẩu chuyển vthôn H, xã Long H, huyện Gia M, tỉnh Bình
Phước từ ngày 07/02/2012; Anh Quang Đ cắt khẩu chuyển về phường Tân L,
thành phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk từ ngày 09/10/2014.
Qua xác minh tại chính quyền địa phương phường Tân L: Anh Lê Quang Đ
đăng ký hộ khẩu tại địa chỉ B31, 26 Hà Huy T, Tổ dân phố 10. phường Tân L, thành
phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk. Đây không phải là nhà riêng của ông Đ là khu tập
5
thể của Điện lực - Thủy điện 5. Ông Đ đăng hộ khẩu tại địa chtrên chỉ để làm
thủ tục hành chính, ông Đ không sinh sống tại địa chỉ trên không ai biết hiện nay
ông Đ ở đâu.
Quá trình giải quyết ván, Tòa án cũng đã niêm yết công khai Thông báo về
việc thụ vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và các văn bản tố tụng khác. Tuy nhiên, bà N anh Đ đều vắng
mặt không do; Chị T chị Tr đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt nên không
thể tiến hành hòa giải được.
Tại biên bản xemt, thẩm định tại chỗ thể hiện: Thửa đất số 144A và s15, tờ
bản đồ số 03, có diện tích 2.340m
2
. Trong đó: thửa đố 144A có diện tích 300m
2
đất
và thửa s15 diện tích 2.040m
2
đất màu, tại Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất số O 341168 do UBND huyện Krông Bông cấp ngày 18/8/2000, cấp cho hộ
ông Lê Quang T.
Thửa đất số 144A theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp đất ở.
Tuy nhiên, sau này quy hoạch thuộc đất nông nghiệp do trước đây bị ngập , nhà
nước đã di dân vào khu tránh lũ. Do chủ hộ không cung cấp bìa đỏ để đính chính
mục đích sử dụng từ đất ở sang đất nông nghiệp theo quy định. Toàn bộ diện tích đất
đang được ông Trần Mai K và bà Nguyễn Thị Bích L sử dụng trồng cỏ le.
Thửa đất số 15 đang được ông Diệp Đình H và bà Thị T sử dụng trồng cây
bắp.
Tại biên bản lấy lời ông Trần Mai K Nguyễn Thị Bích L, trình bày: Vào
ngày 22/6/2020 chúng tôi cho Nguyễn Thị N, con trai Nhàn anh Quang
Đ mượn số tiền 60.000.000 đồng, hẹn đến ngày 22/9/2020 sẽ trả. Tuy nhiên, quá thời
hạn trả nhưng bà N, ông Đ không trả n đã đồng ý sang nhượng cho chúng tôi thửa
đất có diện tích 300m
2
để khấu trừ nợ. Do tin tưởng nên chúng tôi cũng có tìm hiểu
những hộ dân xung quanh thì họ cũng nói đất không tranh chấp gì, từ khi chuyển
nhượng thửa đất thì chúng tôi làm cho đến nay. Chúng tôi cũng không biết thửa đất
này đã bìa đỏ. Sử dụng ổn định đến khi giấy mời của Tòa án và địa chính
Hòa L anh T báo có liên quan thửa đất của chúng tôi nhận sang nhượng của bà N đã
bìa đỏ là thửa đất số 144A, tờ bản đồ 03, giấy chứng nhận QSD đất số 0 341168
ngày 18/8/2000 mang tên hộ ông Lê Quang T và đã thế chấp Ngân hàng. Nay Ngân
hàng khởi kiện ông T, N thì chúng tôi người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
6
trong vụ án, khi Ngân hàng xử tài sản thế chấp liên quan thửa đất này của chúng
tôi ý kiến bàn giao đất lại cho Ngân hàng xử theo quy định pháp luật, còn
việc giữa vợ chồng chúng tôi với bà N, ông Đ xảy ra tranh chấp thì chúng tôi sẽ khởi
kiến bằng vụ án khác, trong vụ án này chúng tôi không có ý kiến gì nữa.
Tại biên bản lấy lời ông Diệp Đình H, bà Lê Thị T, trình bày: Do chúng tôi
01 thửa đất sát đất của ông Lê Thanh T1. Do biết được ông T1 bán đất nên có nhận
sang nhượng một thửa đất khoảng 2000m
2
của ông T1. Thời gian nhận chuyển
nhượng không nhớ khoảng 09, 10 năm. Khi nhận sang nhượng giữa hai bên có làm
giấy viết tay với nhau, chuyển nhượng với giá 24.000.000 đồng, chúng tôi đưa
trước cho anh T1 số tiền 22.000.000 đồng, còn 2.000.000 đồng thì khi nào lấy số từ
Ngân hàng ra làm thủ tục sang tên cho chúng tôi tchúng tôi đưa số tiền còn lại. Do
tin tưởng nên chúng tôi không tìm hiểu kĩ thửa đất, từ lúc sang nhượng đến bây giờ
chúng tôi sản xuất canh tác trên thửa đất này. Nay chúng tôi mới phát hiện ra thửa
đất này thửa đất số 15, tbản đồ 03, đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất chúng
tôi mua thửa đất đã đứng tên hộ ông Quang T, hiện tại đang thế chấp Nn
hàng. Nay Ngân hàng khởi kiện ông T, N thì chúng tôi người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án, khi Ngân hàng xử lý tài sản thế chấp liên quan thửa
đất này của chúng tôi mua của ông T1 thì chúng tôi có ý kiến là bàn giao đất lại cho
Ngân hàng xử theo quy định pháp luật, còn việc chúng tôi sang nhượng đất với
ông T1 thì chúng tôi yêu cầu ông T1 trả lại tiền cho chúng tôi, khi giữa chúng tôi và
ông T1 xảy ra tranh chấp thì chúng tôi sẽ khởi kiến bằng ván khác, trong vụ án này
chúng tôi không có ý kiến gì nữa.
Tại bản tự khai, ông Thanh T1, trình bày: vào năm 2005 tôi mua của ông
Nguyễn Thanh B bà Nguyễn Thị L (B L) một thửa đất màu có diện tích khoảng
2 sào 2, sau một thời gian đến khoảng năm 2009 đã chuyển nhượng lại cho ông Diệp
Đình H, nguồn gốc là mua của vợ chồng B L, không biết trước đó ông B L mua
của ai, việc mua bán chthỏa thuận bằng giấy viết tay. Nay tôi được biết đất đã
bìa đỏ và đã thế chấp vay ngân hàng, việc này tôi không ý kiến gì, nếy xảy ra tranh
chấp sau này chúng tôi giải quyết bằng vụ án khác, tôi không có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn, ông Phạm Ngọc Đinh L, trình bày:
Khi khoản vay đến hạn thì đại diện A đã đôn đốc, nhắc nhở bà N trả nợ nhưng bà N
không trả và cũng không đồng ý bàn giao tài sản để Ngân hàng xử thu hồi nợ, A
vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, khi bà N đứng kết hợp đồng tín dụng tđã
7
được chồng ông Quang T ủy quyền cho N được toàn quyền định đoạt tài sản
là quyền sử dụng đất thuộc sở hữu hộ gia đình để thế chấp vay vốn tại A, mục đích
vay vốn về sử dụng cho chi phí sản xuất, kinh doanh, đời sống của hộ gia đình. Ông
T đã chết, các đồng thừa kế của ông T đồng ý giao phần tài sản liên quan đến di sản
của ông T đang thế chấp tại A để xnợ không yêu cầu gì. Theo hợp đồng
tín dụng thời hạn vay là 36 tháng nhưng đến hạn kỳ đầu là ngày 16/3/2019, do chưa
trả được nên đã quá hạn và bà Nhàn có đề nghị gia hạn nợ đến ngày 16/3/2020, đến
hạn do ảnh hưởng của dịch COVID nên N xin gia hạn nợ đến ngày 16/3/2021,
khoản vay quá hạn từ ngày 17/3/2021 nhưng N không thực hiện việc trả nợ
nên đại diện cho A yêu cầu HĐXX xem xét buộc N trách nhiệm trả ngay cho
A số tiền là 244.249.178 đồng. Trong đó, nợ gốc là 140.000.000 đồng; lãi trong hạn
và quá hạn tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm (19/9/2023) là 104.249.178 đồng. Yêu
cầu N tiếp tục trả lãi suất kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm theo hợp
đồng cho đến khi trả xong nợ. Trường hợp bà N không trả nợ hoặc trả không đầy đ
thì A được quyền yêu cầu quan thẩm quyền xử tài sản thế chấp để thu hồi
nợ. Trường hợp sau khi phát mãi tài sản bảo đảm nêu trên không đủ thanh toán
cho khoản nợ vay, thì bà N vẫn phải tiếp tục chịu trách nhiệm trả hết nợ vay cho A
theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa Nguyễn Thị N, anh Quang Đ vắng mặt lần thứ hai không
có lý do. Chị T, chị Tr, vợ chồng ông KL, vợ chồng ông H bà T, ông T1 vắng
mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán từ khi thụ ván theo đúng thẩm quyền, xác định mối quan htranh
chấp, những người tham gia tố tụng đúng, đủ; tiến hành thu thập chứng cứ, hoà giải,
tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng, chuyển hồ vụ án cho
Viện kiểm sát nghiên cứu Thẩm phán đã chấp hành đúng với quy định tại Điều 48
BLTTDS tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ án theo đúng quy
định của BLTTDS; Đối với thành phần HĐXX không thành viên nào thuộc trường
hợp phải thay đổi, việc hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục tống đạt
được đảm bảo đúng các quy định của BLTTDS về phiên toà sơ thẩm.
Ti phiên a bị đơn N, anh Đ vắng mặt lần thứ hai không do. Quyết định
hoãn phiên tòa đã được tống đạt, chị T, chị Tr, vợ chồng ông KL, vợ chồng ông
H và T, ông T1 vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, do vậy Tòa án vẫn tiến hành
8
xét xử vụ án là đúng quy định.
Về nội dung: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện, cung cấp đủ tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bị đơn bà Nguyễn Thị N
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Quang Đ không hợp tác, cố tình vắng
mặt.
Qua chứng cứ trong hồ ván do đương sự cung cấp tòa án thu thập
đươc công khai và kiểm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh luận tại phiên tòa thì
đủ cơ sở xác định ngày 16/3/2018 Nguyễn Thị N đã kết Hợp đồng tín dụng số:
5205LAV201800791 với No và PTNT VN - Chi nhánh huyện Krông B để vay vốn,
việc vay vốn đã được ông Quang T chủ hộ uỷ quyền cho N được sdụng
quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung để thế chấp vay vốn, việc vay vốn để sản suất,
kinh doanh phục vụ nhu cầu đời sống của hộ gia đình, kể từ khi vay đến nay N đã
trả được 17.438.630 tiền lãi và chưa trả được khoản nợ gốc nào. Hiện nay bà N còn
nợ A số tiền cả gốc lãi phát sinh tính đến ngày 19/9/2024 244.249.178 đồng,
xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ, căn cứ các Điều 288,
299, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Buộc
Nhàn phải liên đới trả cho Ngân hàng No PTNT VN - chi nhánh Krông B số
tiền còn nợ tạm tính đến hết ngày 19/9/2024 244.249.178 đồng, tiếp tục trả lãi suất
theo hợp đồng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm. Trường hợp N không
trả nhoặc trả không đầy đủ thì A được quyền yêu cầu cơ quan thẩm quyền xlý
tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Trường hợp sau khi phát mãi tài sản bảo đảm nêu trên
không đủ thanh toán cho khoản nợ vay thì Nguyễn Thị N vẫn phải tiếp tục
chịu trách nhiệm trả hết nợ vay cho A theo quy định của pháp luật.
Nguyễn Thị N phải chịu tiền chi phí tố tụng án phí theo quy định của pp
luật.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án, lời trình bày xác
nhận của đương sự trước phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở lời trình bày của đương scũng như qua các tài liệu chứng cứ
trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Ván “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa Ngân hàng
No PTNT VN với bà Nguyễn Thị N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
9
dân huyện Krông Bông theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35
và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Tòa án thụ lý vụ án là đúng
thẩm quyền.
Các văn bản tố tụng quyết định hoãn phiên tòa đã tống đạt hợp lệ cho bđơn,
người quyền lợi nghĩa vliên quan vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vụ án
theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Điều 241 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Ngày 16/3/2018, bà Nguyễn Thị N đã ký kết Hợp đồng
tín dụng số: 5205LAV201800791 với Ngân hàng No PTNT VN - Chi nhánh huyện
Krông B, Đăk Lăk để vay vốn với số tiền vay: 140.000.000 đồng. Lãi suất vay:
10,5%/năm, tại thời điểm kết hợp đồng tín dụng. Thời hạn vay: 36 tháng; Ngày
trả nợ cuối cùng 17/3/2021; Mục đích sử dụng vốn vay: đáp ứng nhu cầu chi phí sản
xuất, kinh doanh, đời sống.
Tài sản thế chấp thửa đất số 144A, 15, tờ bản đồ số 03, diện ch 2.340m
2
(300m
2
đất 2.040m
2
đất màu), tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O
341168 do UBND huyện Krông Bông cấp ngày 18/8/2000, cấp cho hộ ông
Quang T các tài sản có trên đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất số 240153012/HĐTC ngày 14/3/2018. Đất tọa lạc tại thôn N, xã
Hòa L, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lk. Hợp đồng thế chấp đã được chứng thực tại Ủy
ban nhân dân Hòa L và Đăng giao dịch đảm bảo tại Chi nhánh văn phòng đăng
quyền sử dụng đất huyện Krông B. Nguyễn Thị N được ông Quang T
con là chị Lê Thị Quỳnh T ủy quyền để sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thuộc sở hữu hộ gia đình để đăng thế chấp vay vốn theo Hợp đồng y quyền số
240153012/HĐUQ ngày 14/3/2018. Xác định hợp đồng thế chấp là hợp pháp.
Xét hợp đồng tín dụng là do bà Nhàn kết với A và được chồng, con bà N
ông Lê Quang T và chị Lê Thị Quỳnh T ủy quyền cho bà N được sử dụng quyền sử
dụng đất tài sản thuộc sở hữu của hộ gia đình để thế chấp vay Ngân hàng. Mục
đích sdụng vốn vay: đáp ứng nhu cầu chi phí sản xuất, kinh doanh, đời sống của
gia đình. Sau khi vay vốn đến ngày 29/7/2018 thì ông T đã chết, xác định chị T trước
đó đã lập ra đình ở riêng nhưng chưa cắt khẩu nên thuộc thành viên hộ gia đình, vốn
vay chỉ được sử dụng cho gia đình ông T Nhàn nên chị T không chịu trách
nhiệm cùng N tr nợ. Đối với phần di sản của ông T đang thế chấp thì các con của
ông T chị T và chị Tr từ chối nhận di sản, ông Đ cố tình vắng mặt không hợp tác
nên xác định ông Đ đã tự từ bquyền tham gia tố tụng đbảo vệ quyền và lợi ích
10
hợp pháp của mình. N người trực tiếp kết hợp đồng tín dụng hiện nay
không mặt tại địa phương, khi đi không báo chính quyền địa phương cũng
không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho Ngân hàng biết địa chỉ đang sinh sống. Quá
trình giải quyết vụ án Tòa án đã trực tiếp làm việc với chị T chị Tr, các chị đã biết
về nội dung vụ án yêu cầu khởi kiện của A, còn việc chị T chị Tr phải
nghĩa vụ thông báo cho mẹ N. Như vậy, xác định N đã biết việc A khởi kiện
nhưng cố tình trốn tránh trách nhiệm nhiệm trả nợ cho A theo hợp đồng nên Ngân
hàng khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà N phải trả nợ là phù hợp.
Căn cứ hợp đồng tín dụng số 5205LAV201800791 ngày 16/3/2018 đã kết
giữa Ngân hàng No và PTNT VN Chi nhánh huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk với bà
Nguyễn Thị N. Kể từ khi giải ngân đến nay N đã trả được 17.438.630 tiền lãi và
chưa trả được khoản nợ gốc nào, bà N đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi định kỳ
theo hợp đồng tín dụng đã kết khoản nợ quá hạn từ ngày 16/3/2019. Sau đó, do
gặp khó khăn nên bà N có xin cơ cấu và gia hạn thời hạn trả nợ đến ngày 16/3/2020
và được Ngân hàng chấp thuận, khi đến hạn do ảnh hưởng của dịch Covid nên bà N
tiếp tục xin gia hạn lại thời hạn trả nợ đến ngày 16/3/2021 được A chấp thuận.
Tuy nhiên, hết thời hạn nêu trên mà bà N vẫn không thực hiện việc trả nợ mặc dù A
đã nhiều lần đôn đốc, đòi nợ nhưng bà N không trả. A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc N phải trả cho A toàn bộ số tiền nợ gốc nợ lãi phát sinh còn nợ theo
hợp đồng tín dụng tạm tính đến ngày 19/9/2024 là 244.249.178 đồng phù hợp, cần
được chấp nhận. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm là ngày 20/9/2024 bà
N còn phải tiếp tục trả lãi suất trên nợ gốc theo hợp đồng đã ký.
Ngay khi bà N thanh toán hết khoản nợ trên cho A thì A chi nhánh Krông B
trách nhiệm trả lại ngay cho Nguyễn Thị N Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số O 341168 do UBND huyện Krông Bông ký cấp ngày 18/8/2000, cấp cho hộ ông
Lê Quang T và các tài sản có trên đất.
Trường hợp Nguyễn Thị N không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ trả nợ thì A quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp
để thu hồi nợ.
Trường hợp sau khi phát mãi tài sản bảo đảm nêu trên mà không đủ thanh toán
cho khoản nợ vay, tNguyễn Thị N vẫn phải tiếp tục chịu trách nhiệm trả hết nợ
vay cho A theo quy định của pháp luật.
Thửa đất số 144A, tờ bản đồ số 03, có diện tích 300m
2
, hiện nay đang được vợ
11
chồng ông Trần Mai K Nguyễn Thị Bích L đang sử dụng đtrồng cỏ le, do
trước đó bà Nguyễn Thị N anh Lê Quang Đ vay tiền của vợ chồng ông K (có
giấy vay tiền viết tay) nên vợ chồng ông K lấy đất của bà N anh Đ để khấu trừ n
vào thời điểm năm 2020, sự việc chuyển nhượng đất có làm giấy tờ viết tay, không
biết đất đã được cấp bìa đỏ và đang thế chấp vay ngân hàng. Sau khi vợ chồng ông
K được Tòa án thông báo thì mới biết đất đã bìa đỏ thế chấp vay vốn tại A. Do
việc mua bán với nhau không thông qua chính quyền địa phương nên vợ chồng
ông K không có yêu cầu gì trong vụ án này, khi nào Ngân hàng yêu cầu bàn giao tài
sản thì sẽ giao đất cho ngân hàng để xử lý. Sau này có tranh chấp sẽ giải quyết bằng
một vụ án khác.
Thửa đất số 15, tờ bản đồ số 03, diện tích 2040m
2
, hiện nay đang được vợ
chồng ông Diệp Đình H Thị T đang sử dụng để trồng cây hoa màu, vợ chồng
ông H mua lại đất của ông Lê Thanh T1, trước đó ông T1 mua của vợ chồng Nguyễn
Thanh B Nguyễn Thị L. Hiện nay vợ chồng B L đã đi khỏi địa phương
không ai biết địa chỉ nên không làm rõ được việc vợ chồng B L trước đó mua đất
của ai, việc mua bán giữa ông T1với vợ chồng B L các bên không cung cấp được
giấy tờ nên không xác định được thời điểm mua bán. Việc mua bán giữa ông H
với ông T1 chỉ viết giấy viết tay mà không ghi ngày tháng năm mua bán cụ thể, nên
không thời điểm mua bán, không thông qua chính quyền địa phương. Hiện nay,
vợ chồng ông H mới biết đất đã được cấp bìa đỏ đang thế chấp vay vốn tại A. Do
việc mua bán với nhau không thông qua chính quyền địa phương nên vợ chồng
ông H không có yêu cầu gì trong vị án này, khi nào Ngân hàng yêu cầu bàn giao tài
sản thì sẽ giao đất cho ngân hàng để xử . Còn việc sang nhượng đất với ông T1 nếu
xảy ra tranh chấp thì sẽ khởi kiến bằng vụ án khác, trong vụ án này không yêu cầu
. HĐXX xác định việc chuyển nhượng đất giữa các đương sự nêu trên chỉ thỏa
thuận giá rồi giao đất và nhận tiền, các bên không tìm hiểu nguồn gốc đất cũng
không thông qua chính quyền địa phương, có ghi giấy viết tay, không xác định được
thời điểm chuyển nhượng, do N anh Đ trốn tránh không hợp tác nên không làm
được nên xác định các giao dịch chuyển nhượng đất không hợp pháp. Vợ chồng
L ông K, ông T1, vợ chồng ông H và bà T cũng thừa nhận việc chuyển nhượng
đất đã được thế chấp vay vốn tại Ngân hàng là không hợp pháp nên trong vụ án này
không có yêu cầu gì, khi nào Ngân hàng yêu cầu thì sẽ bàn giao đất cho Ngân hàng
xử theo quy định của pháp luật. Nếu sau này xảy ra tranh chấp với nhau thì yêu
cầu giải quyết bằng một vụ việc khác. Do vậy, HĐXX không đặt ra để giải quyết.
12
[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Nguyễn Thị N phải chịu chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.500.000 đồng.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị
N phải chịu toàn bộ án phí thẩm (5% x 244.249.178 đồng) 12.212.458 đồng.
Nguyên đơn không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144, Điều
147, Điều 157, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 241; Điều 266,
Điều 267, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 299, 357; 463; 466; 468; 470 Bộ luật dân sự;
- Căn cứ khoản 7 Điều 4; Điều 100; 103 Luật các tổ chức tín dụng;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[1] Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng No
PTNT VN, đối với bị đơn Nguyễn Thị N. Về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng”.
1.1. Buộc Nguyễn Thị N phải nghĩa vụ trả cho Ngân hàng No PTNT
VN Chi nhánh Krông B, tỉnh Đắk Lắk tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 19/9/2024
244.249.178 đồng (Hai trăm bốn mươi tư triệu hai trăm bốn mươi chín nghìn một
trăm bảy tám đồng). Trong đó: nợ gốc là 140.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn và quá
hạn còn nợ 104.249.178 đồng. Kể từ ngày 20/9/2024, bà Nguyễn Thị N còn phải
tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất của
hợp đồng tín dụng số 5205LAV201800791 ngày 16/3/2018 cho đến khi thanh toán
xong khoản nợ gốc.
1.2. Ngay sau khi bà Nguyễn Thị N thanh toán hết khoản nợ gốc i cho Ngân
hàng No và PTNT VN thì Chi nhánh A Krông Bông trách nhiệm trả lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất
số O 341168 do UBND huyện Krông Bông ký cấp ngày 18/8/2000 và các tài sản có
trên đất cho bà Nguyễn Thị N.
1.3. Trường hợp Nguyễn Thị N không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng No PTNT VN - Chi nhánh A Krông B quyền đề
13
nghị quan Thi hành án dân sự thẩm quyền biên, phát mãi tài sản thế chấp
theo hợp đồng thế chấp số 240153012/HĐTC ngày 14/3/2018 Giá trị quyền sử
dụng 300m
2
đất ở, thuc thửa đất s 144A, tờ bản đồ số 03 (tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đất , nay thuộc quy hoạch đất nông nghiệp); Giá
trị quyền sử dụng 2.040m
2
đất màu, thuc thửa đất s 15, tờ bản đồ số 03. Ti Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất
s O 341168 do UBND huyện Krông Bông cấp ngày 18/8/2000, cấp cho hộ ông
Lê Quang T. Đất tọa lạc ti Thôn N, xã Hòa L, huyn Krông B, tỉnh Đắk Lk.
1.4. Trường hợp sau khi phát mãi tài sản bảo đảm nêu trên mà không đủ thanh
toán cho khoản nợ vay, thì Nguyễn Thị N vẫn phải tiếp tục chịu trách nhiệm trả
hết số nợ còn lại cho Ngân hàng NoPTNT VN chi nhánh huyện Krông B, tỉnh
Đắk Lắk theo hợp đồng tín dụng số 5205LAV201800791 ngày 16/3/2018.
[2] Về chi phí tố tụng:
- Nguyễn Thị N phải chịu 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng)
tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, theo biên bản giao nhận tiền ngày 06/12/2021
ngày 19/7/2024. Ngân hàng No PTNT VN - Chi nhánh Krông B đã nộp tạm
ứng và đã chi phí xong.
- Ngân hàng No PTNT VN - chi nhánh Krông B được nhận lại 3.500.000
đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, sau khi thu được của Nguyễn Thị N.
[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu tiền án phí dân sự thẩm giá
ngạch 12.212.000 (i hai triu hai trăm i hai nghìn đồng) (làm tròn số).
Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lk.
Trả lại cho Ngân hàng No PTNT VN số tiền tạm ứng án phí đã nộp
4.313.000 đồng (Bốn triệu ba trăm mười ba nghìn đồng) theo biên lai số 0004830
ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lk.
Trường hợp bản bán được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
[4] Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày, kể tngày tuyên án thẩm. Đương sự vắng mặt quyền kháng cáo trong
14
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm
yết công khai.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Lk;
- VKSND H Krông Bông;
- THADS H Krông Bông;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Chu Văn Hồi
Tải về
Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất