Bản án số 205/2025/DS-PT ngày 29/05/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 205/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 205/2025/DS-PT ngày 29/05/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 205/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 205/2025/DS-PT
Ngày 29-05-2025
V/v tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Châu Minh Hoàng
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư phiên tòa: Nguyễn Ngọc Chọn Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Bà Lê
Thị Màu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 06 và ngày 29 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Mau xét xử phúc thẩm công khai ván thụ số: 15/2025/TLPT-DS ngày
16 tháng 01 năm 2025, về việc tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số: 377/2024/DS-ST ngày 04 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 92/2025/QĐ-PT ngày 11
tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Phú H, sinh năm 1975. Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Cà
Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H:Phạm Hồng V, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).
2. Phạm Hồng V, sinh năm 1977. Địa chỉ: Ấp C, P, huyện T, tỉnh
Mau (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn: Luật Nguyễn
Văn M - Văn phòng Luật Nguyễn Văn M thuộc Đoàn luật tỉnh C. Địa chỉ:
Khóm A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Minh D, sinh năm 1973. Địa chỉ: Ấp C, P, huyện T, tỉnh
Mau.
2
2. Bùi Thúy T2, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp C, P, huyện T, tỉnh
Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm
1971. Địa chỉ: Khóm A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thái Thị T1, sinh năm 1972. Địa
chỉ: Ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Võ Minh D là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V thống nhất trình bày:
Ngày 06 tháng 8 năm 2021, ông bà hợp đồng thuê đất với vợ chồng ông
D, bà T2 phần đất có diện tích ngang 15m, dài 40m, tọa lạc ấp C, P, huyện T, tỉnh
Mau do vợ chồng ông D, T2 đứng tên giấy chứng nhận. Thời hạn thuê 10
năm tức đến ngày 06 tháng 8 năm 2031. Giá thuê 50.000.000 đồng/năm, trả tiền
thuê đất hàng năm vào ngày 06 tháng 12 âm lịch. Sau khi thuê mặt bằng xong, ông
tiến hành xây dựng công trình đổ tông toàn bộ phần diện tích đất thuê, mục
đích thuê được các bên xác định làm nơi kinh doanh trông gửi xe. Sau khi y
dựng xong, năm 2022 ông bà có đăng ký đấu nối để thực hiện hoạt động kinh doanh
nhưng phần đất xây dựng đất nông nghiệp, chưa quy hoạch sử dụng cho việc
đấu nối nên không đủ điều kiện để đấu nối do đó ông đến thông báo với vợ
chồng ông D, bà T2 về việc chấm dứt hợp đồng thuê đất nhưng vợ chồng ông D, bà
T2 không đồng ý. Ngày 24 tháng 3 năm 2023 vợ chồng ông D, bà T2 chủ động bán
cho Thái Thị T1 phần đất chiều ngang 6m nằm trong vị trí phần đất của ông
đã thuê, việc chuyển nhượng giữa vợ chồng ông D, T2T1 không có trao
đổi với ông bà. Do vợ chồng ông D, T2 bán phần đất cho T1 làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của bên thuê ông cũng như mục đích cho thuê đất không thực
hiện được nên ông khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê thanh toán lại
giá trị xây dựng theo kết quả định giá là 269.080.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm ông bà giữ nguyên yêu cầu tuyên bố hợp đồng thuê đất
hiệu, yêu cầu bồi thường giá trị đã đầu y dựng trên phần đất của ông
Minh D, bà Thái Thị T1 với số tiền 197.656.000 đồng/2 = 98.828.000 đồng. Ông
xin rút lại yêu cầu bổi thường giá trị đã đầu xây dựng trên đất hành lang lộ giới
do nhà nước quản lý.
Bị đơn vợ chồng ông D, T2, người đại diện hợp pháp của bà T2 ông
T thống nhất trình bày:
Ông xác định cho vợ chồng ông H, V thuê phần đất như vợ chồng
ông H, V trình bày. Phương thức thuê, diện tích thuê thống nhất như trình bày
nguyên đơn. Tháng 3 năm 2023, ông chủ động chuyển nhượng cho bà Thái Thị
T1 phần đất thuộc một phần trong vị trí đất của ông đã cho nguyên đơn thuê trước
đó, việc chuyển nhượng đã hoàn thành T1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Đối với phần đất chuyển nhượng cho T1, hiện nay ông đã thoả
thuận với bà T1 về việc vẫn tiếp tục cho vợ chồng nguyên đơn thuê đến khi hết thời
3
hạn thuê ông đã thoả thuận với vợ chồng ông H, V. Trường hợp nguyên
đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê đất thì ông bà không đồng ý thanh toán lại giá
trị xây dựng trên đất như yêu cầu nguyên đơn.
Bị đơn xác định hiện vợ chồng ông H, V vẫn còn nợ bị đơn số tiền thuê
đến hạn (làm tròn) 50.000.000 đồng nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
vợ chồng ông H, bà V trả số tiền thuê đất còn nợ 50.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thái Thị T1 trình bày: Bà xác định
năm 2023, nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông D, T2 phần đất ngang
6m dài 47m nằm trong phần đất vợ chồng ông H, bà V đang thuê và sử dụng. Thời
điểm chuyển nhượng bà có biết việc vợ chồng ông H, bà V đang thuê và sử dụng và
đã sang lấp, đổ tông xong mặt bằng, việc chuyển nhượng đã thực hiện xong
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng năm 2023. Từ thời điểm chuyển nhượng
đến nay đất vẫn do vợ chồng ông H, bà V sử dụng nên bà và vợ chồng ông D, bà T2
thống nhất thoả thuận cho vợ chồng ông D, T2 thuê lại bằng thời gian vợ
chồng ông D, bà T2 cho vợ chồng ông H, bà V thuê (tức là đến hết ngày 06 tháng 8
năm 2031). Tiền thuê đất vợ chồng ông D, bà T2 trả cho bà theo thoả thuận. Bà xác
định vẫn đảm bảo thời gian thuê đất cho vợ chồng ông H, V. không yêu
cầu gì trong vụ án này nếu có phát sinh tranh chấp bà sẽ khởi kiện trong vụ án khác.
Tại Bản án dân sự thẩm số 377/2024/DS-ST ngày 04 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng
V; không chấp nhận yêu cầu phản tố của vợ chồng ông Minh D, Bùi Thúy T2.
Tuyên bố “Hợp đồng thuê mặt bằng làm nhà xe” ngày 06 tháng 8 năm 2021
giữa bên thuê ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng V với bên cho thuê ông
Minh D, bà Bùi Thúy T2 vô hiệu.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng V trả lại cho vợ chồng ông
Minh D, Bùi Thị T2 398,5m
2
đất thuộc một phần thửa đất số 919, tờ bản đồ
số 03 (chỉnh lý năm 2023), tọa lạc ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Tứ cận phần đất tương ứng với vị trí số 2, 3 trên sơ đồ bản vẽ kèm theo.
Buộc vợ chồng ông Võ Minh D, bà Bùi Thúy T2 bồi thường thiệt hại cho vợ
chồng ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V với số tiền 98.828.000 (chín mươi tám
triệu tám trăm hai mươi tám nghìn) đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Minh D, bà Bùi Thúy T2 về
việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V thanh toán 50.000.000
(năm mươi triệu) đồng tiền thuê đất.
Ngoài ra án thẩm còn tuyên về chi phí ttụng, án phí, lãi suất quyền
kháng cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024 bị đơn ông Võ Minh D kháng cáo không đồng ý
bản án sơ thẩm và yêu cầu sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 377/2024/DS-ST ngày 04
tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời theo hướng không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Phú H và
4
Phạm Hồng V; chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn buộc ông H V trả tiền
thuê đất tới ngày xét xử là 100.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên a phát biểu
quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình
giải quyết vụ án, của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Võ Minh D, sửa
Bản án dân sự sơ thẩm số 377/2024/DS-ST ngày 04 tháng 12 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Trần Văn Thời theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu của ông D,
T2 về việc buộc ông H, bà V trả số tiền thuê đất là 12.600.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của bị đơn là ông Võ Minh D, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Ông D nêu lý do kháng cáo cụ thể là: Cấp sơ thẩm khi đánh giá chứng cứ
xem xét yếu tố lỗi thì cho rằng lỗi của cả hai bên là chưa phù hợp vì khi xác lập hợp
đồng thuê đất, phía ông H V đã đến xem đất và biết hiện trạng đất nuôi trồng
thủy sản nhưng vẫn đồng ý thuê để làm mặt bằng nhà xe. Sau khi ký hợp đồng thuê,
phía bđơn đã bàn giao đất đúng thỏa thuận, việc phía nguyên đơn xin cấp phép xây
dựng nhưng cấp có thẩm quyền không cho phép dẫn đến không kinh doanh được là
do lỗi của ông HV không chấp hành pháp luật nên nguyên đơn phải tự chịu,
không liên quan đến bị đơn.
Xét khi các bên xác lập hợp đồng thuê đất vào ngày 06/8/2021 quyền sử dụng
đất là của vợ chồng ông D, T2, thửa đất đã được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS730154 năm 2019. Theo giấy
chứng nhận được cấp, mục đích sdụng đất trồng lúa nước. Khoản 1 Điều 170
Luật đất đai 2013 quy định nghĩa vụ của người sử dụng đất phải “Sử dụng đất
đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng
đất chiều cao trên không, bảo vệ c công trình công cộng trong lòng đất tuân
theo các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Việc các bên xác lập hợp đồng
thuê đất đđầu làm nhà xe là sai với mc đích đất đã được cấp. Căn cứ Điều 123,
408 Bộ luật dân sự 2015hợp đồng thuê quyền sử dụng đất để làm nhà xe là giao dịch
dân sự hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm ca luật và hợp đồng vô hiệu do có
đối tượng không thể thực hiện được. Do đó, yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của
vợ chồng ông H, bà V được cấpthẩm chấp nhận là có căn cứ.
Đối với việc xác định mức độ lỗi của các bên thấy rằng: Vợ chồng ông H, bà
V phải có nghĩa vụ tìm hiểu thông tin liên quan đến mục đích sử dụng đất cũng như
xin cấp phép xây dựng trước khi thực hiện việc đầu tư xây dựng, để đảm bảo tài sản
được sử dụng ổn định, hiệu quả. Tuy nhiên vợ chồng ông H, V đã không thực
5
hiện trước lại tiến hành đầu xây dựng khi chưa xin phép chưa được cấp
phép của quan thẩm quyền. Do vậy vợ chồng ông H, V lỗi trong việc
đầu xây dựng gây ra thiệt hại. Đối với vợ chồng ông D, T2 mặc dù biết rõ mục
đích sử dụng đất của mình đất trồng lúa nhưng lại cho thuê để làm nhà xe sử
dụng đất không đúng mục đích. Do vậy khi công trình xây dựng xong không được
cấp phép hoạt động cũng phần lỗi của vợ chồng ông D, T2. Án thẩm xác
định lỗi làm cho hợp đồng thuê đất hiệu lỗi của cả bên thuê bên cho thuê
nên buộc nguyên đơn và bị đơn mỗi bên phải chịu ½ thiệt hại là phù hợp, đúng quy
định. do kháng cáo của ông D cho rằng hợp đồng thuê đất hiệu hoàn toàn
không có lỗi của bị đơn là không được chấp nhận.
Đối với yêu cầu kháng cáo xem xét chấp nhận yêu cầu phản tố của ông D buộc
nguyên đơn ông H V thanh toán tiền thuê đất còn thiếu 100.000.000 đồng
là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét trong phạm
vi khởi kiện ban đầu với yêu cầu tiền thuê đất là 50.000.000 đồng. Xét thấy ông H,
V thừa nhận vẫn chưa thanh toán tiền thuê của 01 năm n lại với số tiền
50.000.000 đồng. Do giao dịch hợp đồng giữa các bên hiệu đồng thời các
đương sự cũng thống nhất không tiếp tục thực hiện hợp đồng này nên bị đơn ông D
yêu cầu phía nguyên đơn thanh toán tiền thuê 01 năm là 50.000.000 đồng chưa
phù hợp. Tuy nhiên tại phiên tòa nguyên đơn chấp nhận thanh toán tiền thuê đất còn
thiếu đến ngày nguyên đơn khởi kiện là 03 tháng bằng 12.600.000 đồng. Xét đây là
sự tự nguyện của nguyên đơn và không trái quy định pháp luật nên được Hội đồng
xét xử ghi nhận.
[2] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ chấp nhận
một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Minh D, sửa Bản án dân sự sơ thẩm
số 377/2024/DS-ST ngày 04 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trần
Văn Thời.
[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tại phiên tòa
đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Võ Minh D, sửa bản án dân
sự sơ thẩm theo hướng ghi nhận tự nguyện của nguyên đơn trả cho bị đơn 03 tháng
tiền thuê đất bằng 12.600.000 đồng là phù hợp với nhận định trên.
[4] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo nên
người kháng cáo là ông Võ Minh D không phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật ttụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Võ Minh D.
6
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 377/2024/DS-ST ngày 04 tháng 12 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng
V. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tcủa vchồng ông Minh D, bà Bùi Thúy
T2.
1. Tuyên bố “Hợp đồng thuê mặt bằng làm nhà xe” ngày 06 tháng 8 năm 2021
giữa bên thuê ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng V với bên cho thuê ông
Minh D, bà Bùi Thúy T2 là vô hiệu.
2. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V trả lại cho vợ chồng
ông Võ Minh D, bà Bùi Thị T2 398,5m
2
đất thuộc một phần thửa đất số 919, tờ bản
đồ số 03 (chỉnh lý năm 2023), tọa lạc ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.
(Tứ cận phần đất tương ứng với vị trí số 2, 3 trên đồ Bản vẽ hiện trạng ngày
27/6/2024 của Công ty TNHH MTV T3).
3. Buộc vợ chồng ông Minh D, Bùi Thúy T2 bồi thường thiệt hại cho
vợ chồng ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V với số tiền 98.828.000 đồng.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu của vợ chồng ông Minh D, Bùi Thúy
T2 về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng V thanh toán
12.600.000 đồng tiền thuê đất.
Không chấp nhận một phần yêu cầu của vợ chồng ông Minh D, Bùi
Thúy T2 về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V thanh toán
37.400.000 đồng tiền thuê đất.
5. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản số tiền 7.235.500
đồng, buộc vợ chồng ông Minh D, Bùi Thúy T2 phải chịu. Vợ chồng ông
Nguyễn Phú H, bà Phạm Hồng V đã nộp xong nên buộc vợ chồng ông D, bà T2 trả
lại cho vợ chồng ông H, bà V số tiền 7.235.500 đồng.
Đối với khoản tiền nêu trên, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành xong khoản tiền
phải thanh toán thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền thời gian
chậm thi hành.
6. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Vợ chồng ông Minh D, Bùi Thúy T2 phải chịu 7.111.000 đồng, được
khấu trừ vào 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông bà đã nộp theo biên lai thu
tiền số 0006695 ngày 09/5/2023 của Chi cục Thi nh án dân sự huyện Trần Văn
Thời; vợ chồng ông Võ Minh D, bà Bùi Thúy T2 còn phải nộp 5.861.000 đồng.
Vợ chồng ông Nguyễn Phú H, Phạm Hồng V phải chịu 630.000 đồng, được
đối trừ vào số tiền 9.925.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông đã dnộp theo
biên lai thu tiền số 0006422 ngày 23/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
7
Trần Văn Thời; ông H bà V được nhận lại số tiền còn lại là 9.295.000 đồng.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Võ Minh D không phải chịu, ông D
đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005060 ngày 23/12/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được chuyển thu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thi;
- Chi cục THADS huyện Trần Văn Thời;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Châu Minh Hoàng
Tải về
Bản án số 205/2025/DS-PT Bản án số 205/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 205/2025/DS-PT Bản án số 205/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất