Bản án số 41/DSPT/2025 ngày 11/06/2025 của TAND tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/DSPT/2025
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/DSPT/2025
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/DSPT/2025
Tên Bản án: | Bản án số 41/DSPT/2025 ngày 11/06/2025 của TAND tỉnh Tuyên Quang về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tuyên Quang |
Số hiệu: | 41/DSPT/2025 |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tổ dân phố Q.T khởi kiện Công ty TNHH MTV Ph. Đ đề nghị Toà án tuyên vô hiệu hợp đồng và phụ lục hợp đồng thuê đất, di dời tài sản vật kiến trúc và trả lại mặt bằng diện tích đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TUYÊN QUANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 41/2025/DS-PT
Ngày 11/6/2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng thuê đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Phúc An Hoành,
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đức Nam và ông Bàn Văn Thế.
- Thư ký phiên toà: Ông Lê Hồng Phong, Thẩm tra viên, Toà án nhân dân
tỉnh Tuyên Quang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang tham gia phiên tòa:
Bà Đào Thị Hảo, Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2025/TLPT-DS ngày 21 tháng 4
năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST, ngày 07 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2025/QĐXX.PT-DS ngày 26
tháng 5 năm 2025; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa xét xử phúc thẩm số
1752/TB-TA ngày 09/6/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đặng Thị T, sinh năm 1956; chức vụ: Tổ
trưởng tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
2. Bị đơn: Công ty TNHH MTV S;
Địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Phan Thị H, chức vụ: Giám đốc. Người
đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ dân phố Q,
thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân thị trấn S, huyện S; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn S,
huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lại Minh H2, chức vụ: Chủ tịch. Người
đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quốc H3, sinh năm 1986; chức vụ: Công chức
2
địa chính - xây dựng đô thị và môi trường UBND thị trấn S. Vắng mặt, có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
- Công ty TNHH Một thành viên N1; Trụ sở Công ty: Tổ dân phố K, thị
trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Bằng
V, chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn N; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh
Tuyên Quang. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Thành Đ; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh
Tuyên Quang. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H1 người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai tại bản tự khai, biên bản hoà giải trong quá
trình giải quyết vụ án và tranh tụng tại phiên toà nguyên đơn Tổ dân phố (TDP)
Q, thị trấn S bà Đặng Thị T trình bày: Ngày 25/11/2009 TDP Q, thị trấn S có ký
hợp đồng cho Công ty N1 thuê đất, theo hợp đồng thuê đất số 09/HĐTD-ND ngày
25/11/2009. Bên cho thuê đất đại diện tổ dân phố là ông Đinh Văn T1 (ông T1
chết năm 2024), chức vụ tổ trưởng và ông Nguyễn Văn N chức vụ Bí thư chi bộ tổ
dân phố ký hợp đồng. Bên thuê đất đại diện ông Phan Bằng V, chức vụ Giám đốc
(có sự chứng kiến của UBND thị trấn S ông Phùng Việt H4, thời điểm đó là Chủ
tịch UBND thị trấn S, ông Trần Quang V1 thời điểm đó là địa chính xây dựng).
Theo đó, T2 nhất trí cho Công ty N1 thuê đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
TDP tại khu T2 để Công ty N1 xây dựng khu trung tâm kinh doanh vật liệu xây
dựng. Quy mô và quy cách xây dựng theo Biên bản cuộc họp Ban chi ủy và các
đầu ngành TDP Q ngày 20/11/2009. Tổng diện tích cho thuê là 256m
2
, vị trí cho
thuê một đầu nhà giáp nhà văn hóa T2 dài 16m về phía đường 13B, chiều ngang từ
mặt đường 37 về đường A cách mép tường bảo vệ khu vực trụ sở UBND thị trấn S
là 0,3m, phía trong giáp khu vực xây dựng 4 gian của Nhà văn H5. Thời hạn cho
thuê là 10 năm, tính từ ngày 01/01/2010 đến hết ngày 31/12/2020. Giá thuê đất là
6.000.000 đồng/năm và 10 năm là 60.000.000 đồng; phương thức thanh toán chia
làm 03 đợt, đợt 1 thanh toán 30.000.000 đồng ngay sau khi ký hợp đồng, đợt 2
thanh toán 15.000.000 đồng vào ngày 01/01/2011, đợt 3 thanh toán nốt 15.000.000
đồng vào ngày 01/01/2012. Sau khi thuê đất, Công ty N1 có xây dựng 03 gian ky
ốt để làm nơi bán hàng hóa. Đến ngày 06/01/2012 Công ty N1 bán lại cho Công ty
S toàn bộ tài sản trên đất. Quá trình thực hiện hợp đồng cho thuê đất, đến ngày
16/05/2018 TDP Q ký thêm Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP cho Công ty S
tiếp tục thuê diện tích trên, vị trí đất 03 gian nhà kho cũ được xây dựng năm 2009,
mặt tiền kho giáp đường bê tông ngõ Q, chiều dài kho một bên giáp nhà văn hóa,
3
một bên cách nhà vệ sinh TDP Q 0,9m, phía sau cách tường rào xây của UBND
thị trấn S 1,2m; thời gian thuê là 10 năm từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/12/2030.
Thời điểm tính tiền thuê từ ngày 01/01/2021, số tiền thuê được chia làm 03 giai
đoạn, giai đoạn 1 từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 31/12/2023 giá thuê là
1.200.000 đồng/tháng; giai đoạn 2 từ ngày 01/01/2024 đến ngày 31/12/2026 giá
tiền thuê đất là 1.500.000 đồng/tháng; giai đoạn 3 từ ngày 01/01/2027 đến hết
ngày 31/12/2030 giá thuê là 1.700.000 đồng/ tháng. Phương thức thanh toán Bên
B thanh toán cho Bên A làm 3 lần, lần 1 vào tháng 06/2018, lần 2 vào tháng
01/2024, lần 3 vào tháng 01/2027. TDP không thu tiền thuê đất kể từ khi ký kết
phụ lục hợp đồng số 01 do TDP đã cân đối đủ kinh phí xây dựng nhà văn hóa. (Lý
do hai bên có ký thêm phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018 là
TDP xây nhà văn hóa mới mở rộng diện tích của nhà văn hóa nên liên quan đến 01
gian ky ốt vì vậy TDP cùng các ban ngành có mời đại diện Công ty S là ông
Nguyễn Văn P đến thống nhất phương án xử lý chuyển 01 gian ky ốt tiếp giáp nhà
văn hóa cũ về phía khu vực nhà vệ sinh của TDP. Ông P nhất trí tự tháo dỡ và xây
dựng ky ốt mới không yêu cầu TDP phải trả tiền. Đồng thời ủng hộ TDP 10 triệu
để xây dựng nhà văn hóa với điều kiện TDP phải cho Công ty S được tiếp tục thuê
đất sau khi hết hạn theo hợp đồng 09 ngày 25/11/2009). Trên thực tế số tiền thuê
đất 10 năm đã được thanh toán làm hai đợt, đợt 01 là ngay sau khi ký kết hợp đồng
thuê đất; đợt hai 30.000.000 đồng vào ngày 12/01/2012. Số tiền thuê đất đợt 01 bà
nghe thông tin ông Nguyễn Văn N nói đã sử dụng vào công việc chung và bổ sung
vào quỹ xây dựng Nhà văn hóa năm 2009, còn cụ thể chi tiêu như nào bà không
nắm được. Tới năm 2015 thì TDP Q đã rút 10.000.000 đồng từ khoản tiền thuê đất
do Công ty N1 trả ngày 12/01/2012 để phục vụ các hoạt động của TDP Q trong
năm 2015. Đến năm 2016 TDP Q đã sử dụng nốt số tiền 20.000.000 đồng từ
khoản tiền thuê đất do Công ty N1 trả ngày 12/01/2012 để xây cổng và tu sửa nhà
văn hóa.
Về việc xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 19/12/2024 bà
nhất trí và không có ý kiến gì khác.
Sau khi UBND thị trấn S kiểm tra xác định hợp đồng cho thuê đất của TDP
Q là không đúng quy định của pháp luật và yêu cầu các bên thanh lý hợp đồng trả
lại mặt bằng đất cho TDP Q. Nhưng Công ty S không thực hiện chấm dứt, thanh lý
hợp đồng và phụ lục hợp đồng. TDP Q, thị trấn S khởi kiện Công ty S ra Tòa án
đề nghị Tòa án tuyên bố hủy Hợp đồng thuê đất số 09/HĐTĐ-ND ngày
25/11/2009 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018 giữa hai bên,
buộc Công ty S trả lại mặt bằng, diện tích đất sau khi xem xét thẩm định tại chỗ là
229,27m
2
cho TDP Q.
Tại phiên tòa TDP Q, thị trấn S thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án
tuyên bố Hợp đồng thuê đất số 09/HĐTĐ-ND ngày 25/11/2009 giữa TDP Q, thị
4
trấn S với Công ty N1 là vô hiệu; Tuyên bố Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP
ngày 16/5/2018 giữa TDP Q, thị trấn S với Công ty S là vô hiệu.
Buộc Công ty S tháo dỡ, di rời và trả lại mặt bằng, diện tích đất sau khi xem
xét thẩm định tại chỗ là 229,27m
2
cho TDP Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên
Quang.
* Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai tại phiên tòa,
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn công ty S, ông Nguyễn Văn P và bà
Nguyễn Thị H1 trình bày: Ngày 06/01/2012 Công ty N1 bán lại cho Công ty S
toàn bộ tài sản trên đất của diện tích cho thuê là 256m
2
với giá chuyển nhượng là
150.000.000 đồng. Giá trên thể hiện bên B được tiếp tục sử dụng diện tích nêu trên
đến hết 31/12/2020 theo Hợp đồng số 09 ngày 25/11/2009. Bên B được quyền sử
dụng toàn bộ diện tích căn nhà được Công ty N1 đã xây trên diện tích nêu trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng cho thuê đất, đến ngày 16/05/2018 TDP Q ký thêm
Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP cho Công ty S tiếp tục thuê diện tích trên. Lý
do hai bên có ký thêm Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP là TDP xây nhà văn
hóa mới mở rộng diện tích của nhà văn hóa nên liên quan đến 01 gian ky ốt vì vậy
TDP cùng các ban ngành có mời ông đến thống nhất phương án xử lý chuyển 01
gian ky ốt tiếp giáp nhà văn hóa cũ về phía khu vực nhà vệ sinh của TDP. Công ty
S nhất trí tự tháo dỡ và xây dựng 01 ky ốt mới, lợp mái tôn 02 ky ốt cũ không yêu
cầu TDP phải trả tiền, chi phí tháo dỡ và xây dựng khoảng 185.000.000 đồng.
Đồng thời ủng hộ TDP 10.000.000 đồng để xây dựng nhà văn hóa với điều kiện
TDP phải cho Công ty S được tiếp tục thuê đất sau khi hết hạn theo hợp đồng 09
ngày 25/11/2009.
Vị trí đất 03 gian nhà kho cũ được xây dựng năm 2009, mặt tiền kho giáp
đường bên tông ngõ Q, chiều dài kho một bên giáp nhà văn hóa, một bên cách nhà
vệ sinh TDP Q 0,9m, phía sau cách tường rào xây của UBND thị trấn S 1,2m; thời
gian thuê là 10 năm từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/12/2030. Thời điểm tính tiền
thuê từ ngày 01/01/2021, số tiền thuê được chia làm 03 giai đoạn, giai đoạn 1 từ
ngày 01/01/2021 đến hết ngày 31/12/2023 giá thuê là 1.200.000 đồng/tháng; giai
đoạn 2 từ ngày 01/01/2024 đến ngày 31/12/2026 giá tiền thuê đất là 1.500.000
đồng/tháng; giai đoạn 3 từ ngày 01/01/2027 đến hết ngày 31/12/2030 giá thuê là
1.700.000 đồng/ tháng. Phương thức thanh toán Bên B thanh toán cho bên A làm 3
lần, lần 1 vào tháng 06/2018, lần 2 vào tháng 01/2024, lần 3 vào tháng 01/2027.
Công ty S chưa thanh toán tiền thuê đất cho TDP vì TDP chưa thu tiền. Theo
Công ty S việc hai bên ký kết Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018
thời điểm đó là đúng pháp luật do có UBND thị trấn S chứng kiến và xác nhận.
Việc ký kết Phụ lục hợp đồng theo Công ty S là không có lỗi.
5
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp
đồng thuê đất số 09/HĐTĐ-ND ngày 25/11/2009 giữa TDP Q, thị trấn S với Công
ty N1 là vô hiệu; Tuyên bố Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018
giữa TDP Q, thị trấn S với Công ty S là vô hiệu. Buộc Công ty S tháo dỡ, di dời và
trả lại mặt bằng, diện tích đất sau khi xem xét thẩm định tại chỗ là 229,27m
2
cho
TDP Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Công ty S không nhất trí đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc xem xét thẩm định tại chỗ ngày 19/12/2024 Công ty S. Tuy nhiên
về việc định giá tài sản ngày 19/12/2024 không nhất trí vì kết quả định giá của Hội
đồng định giá không sát với thực tế, tuy nhiên không đề nghị định giá lại.
* Theo bản tự khai và lời khai tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thị trấn S, ông Trần Quốc H3
trình bày: UBND thị trấn S được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 769542, thửa đất số 175 tờ
bản đồ số 106, địa chỉ thửa đất tại TDP Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang;
diện tích thửa đất là 842 m
2
. Mục đích sử dụng là đất cơ sở V2 (Nhà văn hóa T2).
Đối với TDP Q cho thuê đất nhà văn hóa là không đúng với quy định của
pháp luật theo khoản 3, Điều 12, Luật đất đai năm 2013 về những hành vi bị
nghiêm cấm trong đó có việc không sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục
đích; theo Điều 59, Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì TDP không được cho bất cứ tổ
chức hay cá nhân nào thuê đất nhà văn hóa và UBND thị trấn S cũng không nhất
trí với việc cho thuê đất này. Về tiền thuê đất được TDP sử dụng vào mục đích gì
thì UBND thị trấn S không nắm được. Đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng thuê đất
số 09/HĐTĐ-ND ngày 25/11/2009 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày
16/5/2018 là vô hiệu, buộc Công ty S trả lại mặt bằng cho TDP Q. Về việc xem
xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 19/12/2024 ông nhất trí và không có
ý kiến gì khác. * Theo bản tự khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thành Đ trình bày: Ông là bí thư chi bộ TDP Q, thị trấn S từ tháng 3/2015
đến khoảng tháng 6/2019 thì ông xin nghỉ giữa nhiệm kỳ vì lý do sức khỏe và việc
gia đình. Năm 2018 với tư cách là bí thư chi bộ ông và bà Đặng Thị T, tổ trưởng
TDP có ký bản phụ lục hợp đồng thuê đất giữa TDP Q và Công ty S thì ông có
được biết vào năm 2009, giữa T2 và Công ty N1 có ký hợp đồng thuê đất nhà văn
hóa với diện tích là 256m
2
. Ngày 16/5/2018, TDP Q gồm bên cho thuê đất bà
Đặng Thị T, tổ trưởng TDP và ông là bí thư chi bộ có lập bản phụ lục hợp đồng
với bên thuê đất là ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1983, chức vụ: Giám đốc Công
ty S. Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP cho Công ty S tiếp tục thuê diện tích
trên, vị trí đất 03 gian nhà kho cũ được xây dựng năm 2009, mặt tiền kho giáp
6
đường bê tông ngõ Q, chiều dài kho một bên giáp nhà văn hóa, một bên cách nhà
vệ sinh TDP Q 0,9m, phía sau cách tường rào xây của UBND thị trấn S 1,2m; thời
gian thuê là 10 năm từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/12/2030. Thời điểm tính tiền
thuê từ ngày 01/01/2021, số tiền thuê được chia làm 03 giai đoạn, giai đoạn 1 từ
ngày 01/01/2021 đến hết ngày 31/12/2023 giá thuê là 1.200.000 đồng/tháng; giai
đoạn 2 từ ngày 01/01/2024 đến ngày 31/12/2026 giá tiền thuê đất là 1.500.000
đồng/tháng; giai đoạn 3 từ ngày 01/01/2027 đến hết ngày 31/12/2030 giá thuê là
1.700.000 đồng/ tháng. Phương thức thanh toán Bên B thanh toán cho bên A làm 3
lần, lần 1 vào tháng 06/2018, lần 2 vào tháng 01/2024, lần 3 vào tháng 01/2027.
TDP không thu tiền thuê đất kể từ khi ký kết phụ lục hợp đồng số 01 do TDP đã
cân đối đủ kinh phí xây dựng nhà văn hóa. Bản phụ lục hợp đồng này có sự tham
gia chứng kiến của UBND thị trấn S ông Nguyễn Mạnh D, Chủ tịch UBND thị
trấn và ông Trần Quang V1, cán bộ địa chính xây dựng thị trấn. Về yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, ông nhất trí đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện S. D xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ; không hòa giải được và đưa ra xét xử. Tại bản án dân sự sơ thẩm số
01/2025/DS-ST, ngày 07 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện S. D, tỉnh
Tuyên Quang quyết định: Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 157, 158, 165, 166,
227, 235, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 15, 37, 109 Luật đất đai năm
2003; Điều 122, 127, 128, 137 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 10, 12, 59 Luật Đất
đai năm 2013; Điều 117, 122, 123, 131 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.1.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tổ dân phố Q, thị trấn S,
huyện S. Tuyên bố Hợp đồng thuê đất số 09/HĐTĐ-ND ngày 25/11/2009 giữa tổ
dân phố Q, thị trấn S với Công ty TNHH MTV N1 là vô hiệu. Tuyên bố Phụ lục
hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018 giữa tổ dân phố Q, thị trấn S với
Công ty TNHH MTV S là vô hiệu. Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc Công
ty TNHH MTV S tháo dỡ, di dời và trả lại mặt bằng, diện tích đất sau khi xem xét
thẩm định tại chỗ là 229,27m
2
(có sơ đồ thửa đất kèm theo) cho tổ dân phố Q, thị
trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Trong đó buộc tháo dỡ, di rời tài sản trên đất
bao gồm: 03 gian ky ốt có tổng diện tích 155,29m
2
, trong đó nhà số A (bao gồm
02 ky ốt): nhà xây cấp 4, diện tích 109,18m
2
, xây dựng năm 2009, tường xây gạch
xi măng, trát tường quét vôi ve, mái lợp tấm fibro xi măng, đỡ mái bằng gỗ tạp
nhóm 8, nền lát gạch hoa, cửa sắt cuốn đã lợp thêm phần tôn sắt toàn bộ phần mái
chống nắng (vật liệu tái sử dụng lại), phần mái che mưa lợp tôn thường sử dụng lại
diện tích 27,81m
2
; nhà số B (gồm 01 ky ốt): nhà xây cấp 4, diện tích 46,11m
2
, xây
dựng năm 2018, tường xây gạch xi măng, trát tường quét vôi ve, mái lợp tôn đã
7
qua sử dụng, nền bê tông, cửa sắt cuốn, phần mái che mưa lợp tôn thường tận
dụng lại diện tích 11,7m
2
. Công ty S phải chịu chi phí tháo dỡ và di dời tài sản trên
đất.
2. Về chi phí tố tụng:
Bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí thẩm định, định giá tài sản với số tiền
1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Buộc bị đơn phải có trách nhiệm
thanh toán số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) cho nguyên đơn.
Trả lại cho nguyên đơn số tiền thừa sau thẩm định, định giá là 4.200.000đ
(Bốn triệu hai trăm nghìn đồng) theo biên bản giao nhận tiền ngày 18/02/2025.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn TDP Q, thị trấn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn
trả cho T2, thị trấn S số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001350 ngày 11/6/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện S. D.
Bị đơn Công ty TNHH MTV S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Kiến nghị: UBND thị trấn S và UBND huyện S trong việc quản lý đất đai
chung trên địa bàn thị trấn S và các xã thuộc quyền quản lý của UBND huyện S.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo bản án của các đương sự
theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/3/2025 Tòa án nhận được đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1 là
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết
bao gồm: Kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày
07/3/2025 của Toà án nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang. Đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện S. D, tỉnh
Tuyên Quang.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Nguyễn Thị H1 là người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm, không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm. Đại diện bị đơn xác định
năm 2012 việc thực hiện nhận chuyển nhượng thuê khoán lại diện tích đất của Tổ
dân phố Q, thị trấn S của Công ty TNHH MTV S với Công ty TNHH MTV N1 là
không đúng định của pháp luật. Ngày 16/5/2018, Công ty TNHH MTV S với Tổ
dân phố Q, thị trấn S ký thêm phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP là không đúng
quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi thực hiện hợp đồng có sự tham gia của đại
diện UBND thị trấn S, do đó phía bị đơn yêu cầu phía nguyên đơn và UBND thị
trấn S hỗ trợ cho bị đơn tiền công di chuyển tài sản, tháo dỡ các ky ốt đã xây dựng
trên diện tích đất thuê với số tiền 60.000.000 đồng; đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm tiến hành định giá lại tài sản các ky ốt mà phía bị đơn đã xây dựng và đề
8
nghị kéo dài thời gian tháo dỡ các ky ốt đã xây dựng trên đất thuê của Tổ dân phố
Q đến hết năm 2025 nếu trong trường hợp cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Đại diện Tổ dân phố Q, nguyên đơn bà Đặng Thị T trình bày: Không nhất
trí với nội dung trình bày, kháng cáo của bị đơn. Nhất trí với quyết định của bản
án dân sự sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự
sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử
đã thực hiện đảm bảo các thủ tục về phiên tòa phúc thẩm, sự có mặt của các thành
viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các đương sự thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Đơn kháng cáo người đại diện theo ủy quyền của bị đơn hợp lệ trong
hạn luật định, nội dung kháng cáo nằm trong nội dung bản án sơ thẩm, được xem
xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung: Xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng pháp luật, giải quyết phù hợp
với quy định của pháp luật, nội dung kháng cáo của bị đơn không có căn cứ xem
xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự, không chấp nhận kháng cáo bản án của người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày 07/3/2025 của
Toà án nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang.
Về tiền án phí phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận đề nghị Hội
đồng xét xử buộc bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm nhưng trừ vào tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm bị đơn đã nộp tạm ứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Ngày 19/3/2025, Tòa án nhận được đơn kháng cáo bản án của bị đơn, kháng
cáo toàn bộ nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày 07/3/2025
của Toà án nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang. Đơn kháng cáo được thực
hiện trong thời hạn luật định, nội dung kháng cáo và quyền kháng cáo phù hợp với
quy định của pháp luật, đơn kháng cáo hợp lệ, nên được chấp nhận xem xét theo
trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét nội dung kháng cáo bản án của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
9
Quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ, đánh giá chứng cứ, quyết định các vấn đề theo bản án dân sự sơ
thẩm là có căn cứ. Tổ dân phố Q, thị trấn S; UBND thị trấn S được cấp có thẩm
quyền giao quản lý, sử dụng đất cơ sở văn hóa, sử dụng vào mục đích công cộng
phục vụ cho cộng đồng dân cư.... Tuy nhiên, Tổ dân phố Q, thị trấn S đã dùng một
phần đất được giao để cho Công ty TNHH MTV N1 và Công ty TNHH MTV S
thuê đất là trái với quy định, vi phạm điều cấm của luật. Cấp sơ thẩm xác định hợp
đồng thuê đất giữa các đương sự vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu
là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, đại diện bị đơn kháng cáo bản án, trình bày các nội
dung, lý do, yêu cầu liên quan đến nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy
việc trình bày các nội dung đến nội dung kháng cáo là không có căn cứ. Do đó
không có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo bản án sơ thẩm của bị đơn, cần giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày 07/3/2025 của Toà án
nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Tuyên Quang tại phiên tòa phúc thẩm.
[3]. Đối với nội dung mục 4. Phần quyết định của bản án sơ thẩm (trang 15
của bản án) đã ghi: “Kiến nghị UBND thị trấn S và UBND huyện S trong việc
quản lý đất đai chung trên địa bàn thị trấn S và các xã thuộc quyền quản lý của
UBND huyện S”. Hội đồng xét xử xét thấy trách nhiệm trước Nhà nước đối với
việc quản lý, sử dụng đất đối với người đại diện cho cộng đồng dân cư; Chủ tịch
UBND xã, phường, thị trấn được quy định cụ thể trong Luật đất đai hiện nay (các
Điều 6, 7 Luật đất đai năm 2024). Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy cần
thiết việc sửa đổi, bổ sung nội dung tuyên về trách nhiệm quản lý, sử dụng đất bản
án dân sự sơ thẩm nêu trên cho phù hợp theo quy định của pháp luật.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo bản án không được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Không chấp nhận kháng cáo bản án của người đại diện theo ủy quyền bị
đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2025/DS-ST, ngày 07/3/2025 của
Tòa án nhân dân huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang như sau:
10
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 157, 158, 165, 166, 227, 235, 271, 273 Bộ
luật tố tụng dân sự; Điều 15, 37, 109 Luật Đất đai năm 2003; Điều 122, 127, 128,
137 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 10, 12, 59 Luật Đất đai năm 2013; Điều 117,
122, 123, 131 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 6, 7 Luật Đất đai năm 2024;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Toà án.1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tổ dân phố Q,
thị trấn S, huyện S. Tuyên bố Hợp đồng thuê đất số 09/HĐTĐ-ND ngày
25/11/2009 giữa tổ dân phố Q, thị trấn S với Công ty TNHH MTV N1 là vô hiệu.
Tuyên bố Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-TDP ngày 16/5/2018 giữa tổ dân phố Q,
thị trấn S với Công ty TNHH MTV S là vô hiệu. Về hậu quả của hợp đồng vô
hiệu: Buộc Công ty TNHH MTV S tháo dỡ, di dời và trả lại mặt bằng, diện tích
đất sau khi xem xét thẩm định tại chỗ là 229,27m
2
(có sơ đồ thửa đất kèm theo)
cho tổ dân phố Q, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Trong đó buộc tháo dỡ,
di rời tài sản trên đất bao gồm: 03 gian ky ốt có tổng diện tích 155,29m
2
, trong đó
nhà số A (bao gồm 02 ky ốt): nhà xây cấp 4, diện tích 109,18m
2
, xây dựng năm
2009, tường xây gạch xi măng, trát tường quét vôi ve, mái lợp tấm fibro xi măng,
đỡ mái bằng gỗ tạp nhóm 8, nền lát gạch hoa, cửa sắt cuốn đã lợp thêm phần tôn
sắt toàn bộ phần mái chống nắng (vật liệu tái sử dụng lại), phần mái che mưa lợp
tôn thường sử dụng lại diện tích 27,81m
2
; nhà số B (gồm 01 ky ốt): nhà xây cấp 4,
diện tích 46,11m
2
, xây dựng năm 2018, tường xây gạch xi măng, trát tường quét
vôi ve, mái lợp tôn đã qua sử dụng, nền bê tông, cửa sắt cuốn, phần mái che mưa
lợp tôn thường tận dụng lại diện tích 11,7m
2
. Công ty S phải chịu chi phí tháo dỡ
và di dời tài sản trên đất. 2. Về chi phí tố tụng: Bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí
thẩm định, định giá tài sản với số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn
đồng). Buộc bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán số tiền 1.800.000đ (Một triệu
tám trăm nghìn đồng) cho nguyên đơn. Trả lại cho nguyên đơn số tiền thừa sau
thẩm định, định giá là 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng) theo biên bản
giao nhận tiền ngày 18/02/2025.3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn TDP Q,
thị trấn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho T2, thị trấn S số
tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001350 ngày 11/6/2024
của Chi cục thi hành án dân sự huyện S. D.
Bị đơn Công ty TNHH MTV S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Chủ tịch UBND thị trấn S, người đại diện cho cộng đồng dân cư tổ dân
phố Q, thị trấn S có trách nhiệm quản lý, sử dụng đối với đất cơ sở V2 (Nhà văn
hóa tổ dân phố T2), thị trấn S đúng quy định của pháp luật.5. Về án phí dân sự
phúc thẩm: Bị đơn Công ty TNHH MTV S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn
11
đồng) án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án ký hiệu: BLTU/24, số 0001712
ngày 24/3/2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện S. D, tỉnh Tuyên Quang,
Công ty TNHH MTV S đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm. Bản án phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 11/6/2025.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Tuyên Quang;
- TAND huyện S. D;
- CCTHADS huyện S. D;
- Các đương sự;
- Lưu VPTA (HCTP);
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Phúc An Hoành
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm