Bản án số 190/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 190/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 190/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 190/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sửa bản án sơ thẩm. Vô hiệu Biên bản thỏa thuận lối đi chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU Độc lập Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 190/2024/DS-PT
Ngày: 05-9-2024
V/v “Tranh chấp lối đi
và khoảng không gian trên mặt đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Thị Huệ
Các Thẩm phán: Ông Cao Xuân Long
Bà Bùi Thị Thương
- Thư phiên tòa: Phạm Vân Thủy Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu: Ông
Duyên Trường – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 28-8 05-9-2023, tại trụ sở Tòa án nhân n tỉnh Rịa
Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 190/2023/TLPT-DS
ngày 03 tháng 10 năm 2023 vviệc: “Tranh chấp lối đi khoảng không gian trên
mặt đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố V, tỉnh Rịa Vũng Tàu bị kháng cáo, theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xsố 232/2023/-PT ngày 21-11-2023, Quyết định hoãn phiên tòa
phúc thẩm số 246/2023/QĐ-PT ngày 13-12-2023, Thông báo về việc mở lại phn
tòa số 85/2024/TB-TA ngày 05-7-2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố
tụng số 123/2024/QĐ-TA ngày 30-7-2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm
số 211/2024/QĐ-PT ngày 30-7-2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng
số 201 ngày 27-8-2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Võ Mộng T, sinh năm 1973; (có mặt)
Địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện hợp pháp của bà T: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1982; Địa
chỉ số C đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Rịa - Vũng Tàu người đại
diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền lập ngày 23-6-2020 (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Bà Lê Thị B, sinh năm 1963 (có mặt),
2.2. Ông Lê Minh N, sinh năm 1962 (chết ngày 13-01-2023);
2
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Minh N:
2.2.1. Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1965 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
2.2.2. Anh Lê Minh T1, sinh năm 1985 (vắng mặt).
2.2.3. Anh Lê Minh N1, sinh năm 1987 (vắng mặt).
2.2.4. Anh Lê Thành T2, sinh năm 1999 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
2.2.5. Chị Lê Thị Thúy H1, sinh năm 1997 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1942 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Người đại diện hợp pháp của Đ1: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1982;
Địa chỉ số C đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Rịa - Vũng Tàu người
đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền lập ngày 05-5-2021 (có mặt).
3.2. Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1965 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.3. Anh Lê Thành T2, sinh năm 1999 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.4. Chị Lê Thị Thúy H1, sinh năm 1997 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.5. Anh Lê Văn S, sinh năm 1991 (vắng mặt).
3.6. Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1996 (vắng mặt).
3.7. Anh Lê Văn T3, sinh năm 1994 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.8. Chị Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Người kháng cáo: Bà Võ Mộng T nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn Võ Mộng
T và người đại diện hợp pháp ông Nguyễn Thái H trình bày:
Bà T đang sử dụng diện tích đất 197m
2
, thửa số 127, tờ bản đồ số 39, thôn G,
L, thành phố V (gọi tắt thửa đất 127). Thửa đất này của anh Minh T1 (con
trai của ông Lê Minh N) chuyển nhượng cho mẹ bà T là bà Nguyễn Thị Đ1 từ ngày
05-01-2017. Sau đó Đ1 sang tên cho bà T từ năm 2018.
Từ trước khi anh T1 chuyển nhượng đất cho bà Đ1 thì gia đình em ruột của
ông N Thị B kế bên đã sử dụng một phần đất để lợp mái tôn chiều
ngang 5m x dài 1,5m, nối dài từ nhà B đi cắt ngang qua đất thửa 127 để sang lối
đi nhà ông N rồi đi ra đường công cộng, đồng thời B mở 02 cửa sổ tấm đan
lấn sang đất thửa 127. Bên nhà ông N cũng mở 02 cửa sổ có tấm đan cùng với 01 ô
văng lấn sang đất thửa 127.
3
Khi nhận chuyển nhượng đất thửa 127, bà T làm thủ tục hộ cho mẹ nên bà T
cùng ông N, B lập “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-
2017. Nội dung thỏa thuận cho phép bà B được đi chung phần lối đi rộng 1,5m bên
dưới mái tôn đã dựng trên đất thửa 127; Đồng thời ông N cũng cam kết chừa một
lối đi có chiều rộng khoảng 3m, dài khoảng 15m trên đất của ông N, chạy dọc theo
đất thửa 127 để khi B đi ngang qua đất thửa 127 thì sẽ nối vào đây đi ra
đường chính (đường B). Khi lập Biên bản thỏa thuận, các bên đã thống nhất sau
này khi T xây nhà thì B phải tháo dỡ phần mái tôn đã dựng trên lối đi nêu
trên. Tuy nhiên, khi bà T xây nhà thì bà B không đồng ý tháo dỡ mái tôn, đồng thời
trong quá trình sử dụng phần lối đi này thì B giăng mắc quần áo chắn ngang lối
đi, để thùng rác trước cửa sau nhà bà T dẫn đến ruồi nhặng bâu gây ra mùi hôi thối,
bay thẳng vào nhà bà T làm ảnh hưởng tới sức khỏe, vệ sinh, bà B còn xả nước thải
tràn ra phần lối đi này. T đã nhiều lần góp ý nhưng không thay đổi, sau đó T
khiếu nại đến Ủy ban nhân dân L nhưng B vẫn không chấp nhận, nhiều lần
chửi bới bà T.
Thửa đất 127 nguồn gốc trước kia thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông N
vợ Đặng Thị Đ. Ông N Đ tặng cho con anh Minh T1. Tại thời
điểm ký Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi ngày 05-01-2017 nêu trên thì ông N,
B, T không phải chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất, T tự ý
không thông báo cho Đ nên việc cùng nhau Biên bản thỏa thuận về lối đi
chung trên phần đất này không phù hợp về mặt chủ thể. Thỏa thuận này cũng
không phải điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, T Đ không
nhận bất cứ khoản tiền hay lợi ích vật chất nào từ B hay ông N, anh T1. Biên
bản thỏa thuận ngày 05-01-2017 tính chất chuyển quyền sử dụng đất nhưng văn
bản này không được công chứng chứng thực, không tuân thủ hình thức của Hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất và Biên bản này chưa đăng ký với cơ quan có thẩm
quyền.
Thực tế sát nhà B một lối đi công cộng ngay mặt sau nhà nhưng do
bà B tự xây bít lại, lối đi đang tranh chấp không phải là lối đi duy nhất của bà B nên
bà T không có nghĩa vụ phải dành lối đi này cho bà B.
Thông qua đơn khởi kiện ngày 26-02-2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 04-
12-2020, đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 28-6-2021 ngày 10-
8-2022, cụ thể không buộc Thị B tháo dỡ phần mái tôn chiều ngang 1,5m
x dài 5m nối dài từ đất B, qua đất thửa 127 của T sang đất nhà ông N, dỡ bỏ
các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất 127; không buộc ông
Minh N phải tháo dỡ chuồng di dời các cây trồng của ông N trên thửa
đất 127, dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thửa 127.
Bà T khởi kiện yêu cầu chính thức như sau:
4
- Tuyên hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ký ngày 05-01-2017
giữa bà T, bà B và ông N.
- Buộc bà Lê Thị B phải dỡ bỏ đường ống nước phía dưới và đường dây điện
phía trên lối đi để trả lại cho T toàn vẹn quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 127.
- Buộc ông N tháo dỡ 01 ô văng và đường dây điện phía trên đ trả lại
khoảng không gian trên mặt đất thuộc thửa đất 127 cho bà.
Bị đơn Thị B trình bày: Vnguồn gốc đất thửa 127 T đang
quản sử dụng lối đi hiện hữu từ nhà qua nhà đất của ông N thống nhất
với lời trình bày của ông N. Xung quanh nhà bà bị bao bọc bởi các nhà khác, không
có lối đi nào để đi ra đường lớn ngoài lối đi theo như Biên bản thỏa thuận đường đi
ký ngày 05-01-2017.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của T thì bà không đồng ý yêu cầu nào.
B yêu cầu phản tố ngày 07-3-2022, yêu cầu Tòa án công nhận B được thể
hiện trên đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai lập ngày 06-01-
2022, thuộc một phần thửa đất 127, tờ bản đồ số 39, L, thành phố V lối đi
chung của gia đình B và bà T.
Các thành viên trong gia đình bà đang sử dụng nhà đất gồm có bà B, hai con
trai Văn S, sinh năm 1991 Văn T3, sinh năm 1994; con dâu Nguyễn
Thị Kiều D, sinh năm 1996 và Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995; cháu nội là
Ngọc N2, sinh năm 2019.
Bị đơn là ông Lê Minh N khi còn sống trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 127 là của ông tách ra cho con trai là anh Lê Minh T1 từ
năm 2010. Trên đất thửa 127 một lối đi đặc điểm như T trình bày do ông
dành cho B em gái của ông đi qua đã tồn tại khoảng 30 năm nay. Năm
2017, anh T1 chuyển nhượng cho T thửa đất này. Trước khi T nhận chuyển
nhượng đất của anh T1, ông ra điều kiện nếu T đồng ý để một phần đất như
lối đi hiện hữu thì ông mới đồng ý cho anh T1 chuyển nhượng đất. Bà T đồng ý nên
giữa ông, T B lập Biên bản thỏa thuận đường đi ngày 05-01-2017 như
T đã nêu. Nay T đã cất nhà trên đất, phần đuôi nhà giáp với lối bà B đi nêu
trên.
Đối với các yêu cầu khởi kiện ca bà T ông có ý kiến:
- Không đồng ý yêu cầu hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày
05-01-2017.
- Đồng ý tháo dỡ tấm đan cửa sổ, phần ô văng nằm phía bên phần đất của bà
T. Bà T trách nhiệm thực hiện, ông chỉ chứng kiến, chi phí tháo dỡ mỗi bên chịu
50%.
5
- Đối với dây điện mắc vào nhà ông đi qua nđất của T (thửa đất 127),
sau này bà T làm nhà bị ảnh hưởng bởi đường dây điện thì yêu cầu Điện lực
xuống di dời.
Các thành viên trong gia đình ông đang sử dụng nhà đất gồm ông N, vợ
ông Đặng Thị Đ, sinh năm 1965; hai con của ông Thị Thúy H1, sinh năm
1997 và Lê Thành T2, sinh năm 1999.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Đặng Thị Đ, anh Thành T2, chị Thị Thúy H1 đồng thời
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Minh N trình bày: Thống
nhất với toàn bộ lời trình bày của ông N tại Tòa án, không trình bày bổ sung gì
thêm.
- Anh Minh T1 anh Minh Nghĩa l người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông Minh N không tham gia làm việc theo triệu tập của
Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến.
- Anh Văn S, anh Văn T3, chị Nguyễn Thị Ngọc C, chị Nguyễn
Thị Kiều D trình bày: Các anh chị là con của bà Thị B, thống nhất với toàn bộ
lời trình bày của bà B tại Tòa án, không trình bày bổ sung gì thêm.
- Nguyễn Thị Đ1 thông qua người đại diện hợp pháp ông Nguyễn
Thái H trình bày:
Khoảng cuối năm 2016, đầu năm 2017, các con bà Đ1, trong đó T,
tặng cho Đ1 một số tiền để Đ1 mua một căn nhà sinh sống. Do Đ1 tuổi
cao không tiện đi lại nên giao cho con gái là bà Mộng T thay mặt bà liên hệ với
người có nhu cầu chuyển nhượng nhà đất.
Ngày 17-3-2017, bà Đ1 và anh T3 đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa đất 127, tờ bản đồ 39 tại thôn G, L, thành phố V. Tiền nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà đã giao hết cho bà T để thanh toán, sau đó bà
Đ1 nghe nói đã thanh toán xong và bà đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Ngày 12-01-2018, T nhu cầu vtài sản vay vốn làm ăn nên Đ1 đã
tặng cho bà T toàn bộ quyền sử dụng thửa đất nói trên.
Khi kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh T3 thì
Đ1 không nghe ai nói về lối đi của B phía sau nhà. Mãi sau này, mới nghe
T nói lại ngày 05-01-2017, ông N, B T cùng kết vào Biên bản
thỏa thuận lối đi chung, cắt ngang thửa đất bà Đ1 nhận chuyển nhượng nêu trên.
T tự ýbiên bản thỏa thuận này chứ bà Đ1 không hề biết. Đ1 không nhận bất
6
cứ khoản tiền hay lợi ích vật chất gì từ bà B hay ông N, anh T3 để phải chừa lại bất
cứ phần đất nào làm đường đi chung.
Đ1 đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của T.
Bản án dân sự thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
- Đình chỉ các yêu cầu: Buộc Thị B phải dỡ bỏ phần mái che bằng tôn
dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ
bản đồ số 39 tọa lạc tại L, thành phố V; Buộc ông Minh N phải tháo dỡ
chuồng gà, di dời các cây trồng dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện
tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39 tọa lạc tại xã L, thành phố V.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi”
ngày 05-01-2017.
- Không chấp nhận yêu cầu buộc gia đình B phải tháo dỡ đường dây điện
phía trên và đường ống nước phía dưới lối đi chung thuộc thửa đất số 127, tờ bản
đồ số 39, xã L, thành phố V.
- Không chấp nhận yêu cầu buộc ông N phải tháo dỡ đường dây điện trên
không gian nhà bà T thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V.
- Chấp nhận yêu cầu buộc bà Đặng Thị Đ, anh Thành T2, chị Thị
Thúy H1 phải tháo dỡ một phần ô văng nhà ông N lấn chiếm không gian thuộc thửa
đất 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V, theo các điểm tọa độ 28, 29, 30, 31, 28
tại Sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai lập ngày 06-01-2022.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của Thị B: Công nhận Lô B theo các
điểm tọa độ 4, 5, 23, 20, 4 tại đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng Đất
đai lập ngày 06-01-2022, thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V
là lối đi chung của gia đình bà B và Võ Mộng T.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Kháng cáo: Ngày 06-6-2023, nguyên đơn bà Mộng T đơn kháng
cáo một phần Bản án thẩm với do: Các chủ thể Biên bản trao đổi thỏa
thuận đường đi ngày 05-01-2017 không có quyền xác lập giao dịch tại thời điểm ký
kết nội dung biên bản vi phạm pháp luật; B xây dựng nhà không giấy
phép xây dựng, đất của B chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên không sở xác lập lối đi qua bất động sản liền kề; B còn một lối đi
khác ra đường chính ngoài lối đi tranh chấp; Việc bà B và những người thừa kế của
ông N lắp đặt thiết bđiện, nước trên diện tích đất của nguyên đơn trong khi chưa
được sự đồng ý xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. T yêu
7
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án:
Vic tuân theo pháp lut t tng: Thông qua kim sát vic gii quyết v án t
khi th cho đến thi đim xét x thì Thm phán, Hi đồng xét x Thư đã
thc hin đúng các quy đnh ca B lut T tng dân s. c đương s mt ti
phiên tòa phúc thm chp nh tt quy định pháp lut t tng.
V ni dung v án:
Biên bn trao đổi tha thun đường đi lp ngày 05-01-2017 gia
Mộng T ông Minh N, Thị B tha thun t nguyn gia các bên, tuy
nhiên ti thi đim kết thì những người này đều không phi ch s dng tha
đất 127. Căn c quy định ti Điu 117, Điu 122 B lut dân s thì Biên bn nêu
trên bhiu.
Theo sơ đồ v trí tha đất ngày 08-3-2024 ca Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai thành phố V Công văn s 1004/UBND-ĐC ngày 31-7-2024 ca Ủy
ban nhân dân L th hin thc tế phía sau nhà bà B một lối đi công cng do
Nhà nước qun nm tiếp giáp trc tiếp vi đất nhà B, không phi nhà b
các h gn k vây bc. Do đó, h B quyn s dng li đi này không cn
phi đi qua đất ca h bà T. Hơn na, vic h bà B s dng li đi qua đất ca h bà
T, đã ct ngang tha đất làm hai phn, nh hưởng đến vic s dng đất ca h bà T.
Do đó yêu cu phn t ca B v vic công nhn B li đi chung ca gia
đình bà B và bà T không có cơ sở.
Hộ bà B lối đi công cộng phía sau nhà để sử dụng lắp đặt đường dây
điện đường ống nước vào nhà, vậy căn cứ chấp nhận yêu cầu của T về
việc hộ B phải tháo dỡ đường dây điện đường ống nước dưới phần đất tranh
chấp.
Đối với yêu cầu buộc những người thừa kế của ông N phải tháo dỡ và di dời
toàn bộ đường dây điện ra khỏi phần diện tích thuộc thửa đất số 127 giữ nguyên
hiện trạng như Bản án sơ thẩm tuyên là phù hợp.
Do vậy, đnghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của T;
sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo nội dung nêu trên.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định:
[1] Về việc vắng mặt đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự vắng
mặt tại phiên tòa, đều thuộc trường hợp đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên theo quy định tại Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người
này.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn là bà Võ Mộng T về việc hủy “Biên bản trao
đổi thỏa thuận đường đi” ny 05-01-2017:
[2.1] Thửa đất 127, tờ bản đồ 39 tại thôn G, xã L, thành phố V nguồn gốc
của ông Lê Minh N và bà Đặng Thị Đ tặng cho con trai là anh Lê Minh T1. Anh T1
chuyển nhượng cho mẹ của bà T Nguyễn Thị Đ1 từ ngày 27-02-2017, sau đó
Đ1 được chỉnh sang tên ngày 17-3-2017. Đến ngày 22-12-2017, Đ1 lập
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 04039, tặng cho con gái là Mộng T
diện tích đất trên và bà T được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V
chỉnh lý sang tên ngày 12-01-2018 (BL 52 66 tập 4).
[2.2] Đối với lối đi hiện nay đang tranh chấp được thể hiện tại B của
đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố V ký ngày 08-
3-2024, thực trạng lối đi chạy ngang qua cắt đôi thửa đất 127 của T
thành hai phần, nối từ cửa nhà B đi ngang qua đất T, sang đất của ông
Minh N đđi ra đường công cộng. Lối đi này chỉ một mình nhà B sử dụng,
còn T mở cửa sau quay ra lối đi này nhưng không sử dụng lối đi chỉ sử
dụng đường đi phía trước nhà của bà. Phần lối đi vẫn thuộc quyền sử dụng đất của
T theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 243276 do Ủy ban nhân dân
thành phố V cấp ngày 11-6-2010. c đương sự thừa nhận B đã đi qua đất thửa
127 lắp đặt đường ống dẫn nước sinh hoạt vào nhà bà B từ trước khi anh T1
chuyển nhượng đất cho Đ1. Theo hồ vụ án, việc B đi qua thửa đất 127
trước đây toàn bộ khu đất đều là của ông Minh N cha của anh T1 anh
trai của bà B, nên ông N cho bà B đi qua (BL 56 tập 4; 84, 85 tập 6; 291 tập 27).
[2.3] Việc ngày 05-01-2017 Mộng T ông Minh N, Thị B
“Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” thật, với nội dung “Bà T đồng ý
chừa 1m5 ngang đường đi chung vĩnh viễn cho Thị B. Bên Mộng T
chừa sân trước 2m5 tính luôn đường đi chung của Thị B để làm sân. Còn
phần tôi (ông N), đường đi của tôi, tôi đồng ý cho bà T và bà B đi vĩnh viễn”. Biên
bản trước khi mẹ T Đ1 nhận chuyển nhượng thửa 127 của anh T1. Xét
thấy Biên bản này được giữa những người không phải người quyền sử
9
dụng đất thửa 127 ở thời điểm đó. Mặc dù thời điểm này bà T là người bàn bạc giao
dịch với anh T1 để nhận chuyển nhượng đất thửa 127, nhưng là thực hiện thay cho
mẹ của mình nên chưa quyền sử dụng đất, sau này T mới được mẹ cho thửa
đất 127. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Minh T1 từ
ngày 11-6-2010, còn người đứng tên hợp đồng nhận chuyển nhượng đất thửa
127 Nguyễn ThĐ1, nhưng anh T1 và Đ1 lại không không thỏa
thuận về lối đi này. Còn bà T B, ông N không phải người quyền sử
dụng đất thửa 127 nhưng lại thỏa thuận với nhau, định đoạt lối đi qua đất thửa 127
là không phù hợp với điều kiện hiệu lực của giao dịch quy định tại Điều 117 Bộ
luật dân sự, nên giao dịch hiệu theo Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo Điều 131
Bộ luật dân sự thì giao dịch vô hiệu không có hiệu lực từ thời điểm ký kết, nên nay
bà T yêu cầu hủy biên bản này là có cơ sở (BL 11 tập 1).
[3] Xét việc bị đơn Thị B yêu cầu được công nhận phần lối đi đang
tranh chấp tại Lô B làm lối đi chung, thấy rằng:
[3.1] Với việc thỏa thuận lối đi không phù hợp như trên, nhưng Đ1
T vẫn để cho B sử dụng lối đi này T chưa nhu cầu sử dụng đất phía
sau. Tuy nhiên T cho rằng B không sử dụng lối đi đúng mục đích đã sử
dụng lối đi vào những việc khác như để thùng rác, để xe máy, để chậu cây, phơi
quần áo, ảnh hưởng đến vệ sinh chung và quyền sử dụng đất của nguyên đơn. T
cung cấp các hình ảnh chụp lại những thực trạng trên, thực tế hai bên đã tranh
chấp được Ủy ban nhân dân L hòa giải ngày 14-11-2019 nhưng sự việc vẫn
tiếp diễn phải tranh chấp ra Tòa án. Nay T không đồng ý tiếp tục thực hiện
thỏa thuận lối đi vì đây không phải lối đi duy nhất của bà B, còn bà B cho rằng thỏa
thuận lối đi là đi vĩnh viễn và đã tồn tại nhiều năm nên không đồng ý đi lối khác.
[3.2] Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét, thẩm định tại chỗ và cho đo vẽ lại
toàn bộ đất của T, B thực trạng các lối đi. Theo đồ vị trí thửa đất do
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Vngày 08-3-2024 thì lối đi bà
B đang sử dụng cắt đôi thửa đất 127 của T, được hiệu B rộng 1,5m
dài hết bề ngang (4,51m; 4,48m) đất của T; đất của bà T nằm trong các Lô A-B-
D-F; lối đi khác bên cạnh nhà bà B hiệu G; đất nhà B đang sử dụng
nằm trong Lô C; phần nhà của bà B có một phần tường nhà tắm và một phần tường
bếp giáp với lối đi G. Lối đi G phần giáp nhà bà B rộng khoảng 1,5m, kéo
dài khoảng 8m thì đến hẻm rộng 3,11m nối với đường lớn 28/4. Hội đồng xét xử
thấy lối đi Lô G này về hình dáng, kích thước cũng tương tự như lối đi bà B đang đi
ngang qua thửa 127 của bà T (BL 291 tập 27).
[3.3] Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân L (Văn bản số
1004/UBND-ĐC ngày 31-7-2024) thì lối đi Lô G là lối đi chung do Nhà nước quản
lý và có chủ sử dụng đất thửa 124, 126, tờ 39 mở rộng thêm một phần lối đi. Lối đi
10
G chỉ nhà bà Nguyễn Thị T4 sử dụng n B thì trước nay không đi lối
này. Theo trình bày của bà B thì lối đi Lô G tồn tại ít nhất từ trước năm 2014, nghĩa
trước khi “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-2017 (BL 291
tập 27; 306 tập 28).
[3.4] Theo quy định tại Điều 254 Bộ luật dân sự thì B chỉ quyền yêu
cầu mở lối đi qua đất của T nếu nhà B bị vây bọc bởi các bất động sản của
chủ sở hữu khác, đồng thời việc yêu cầu mở lối đi qua đất của T hợp nhất,
gây thiệt hại ít nhất trong số các thửa đất xung quanh. Tuy nhiên qua xem xét thẩm
định như trên thì thấy rằng nhà đất bà B không bị vây bọc mà có lối đi công cộng là
G nêu trên, nhưng chỉ do từ trước đến nay đã quen đi ngang đất thửa 127 từ
khi đất còn thuộc quyền sử dụng của anh trai ông N, nên B đã tự xây nhà bịt
lại không sử dụng lối đi công cộng. Do vậy việc B đi qua đất của bà T không
thuộc vào trường hợp bắt buộc nêu trên.
[3.5] Diện tích đất thửa 127 của T rộng khoảng 5m, dài khoảng 37m
chỉ có một mặt tiền phía trước nhà giáp đường B. Như vậy lối đi đang tranh chấp là
lối đi cắt ngang qua đất của bà T, chia đất của T thành 02 phần không hợp lý,
gây bất tiện, làm nh hưởng đến quyền sử dụng đất bình thường của T nên
không đồng ý việc bà B tiếp tục đi qua đất của bà là hợp lý, có cơ sở.
[3.6] Mặt khác, từ năm 2019 đến nay hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, không
thỏa thuận được với nhau về việc sử dụng lối đi này, tranh chấp kéo dài làm ảnh
hưởng đến tinh thần của cả hai bên, nên cần chấm dứt việc sử dụng lối đi đang
tranh chấp, tránh gây hậu quả xấu về lâu dài cho các đương sự.
[4] Xét việc T yêu cầu buộc B tháo dỡ, di dời đường ống nước của bà
B đi ngầm bên dưới lòng đất thửa 127, thấy rằng: Do Hội đồng xét xử quyết định
B không được tiếp tục sử dụng đất của T làm lối đi chung nên việc đường
ống cấp nước sinh hoạt của nhà bà B cũng tương tự, không bắt buộc phải đi qua đất
của T. Cho nên đường ống nước sinh hoạt của B đã lắp đặt dưới lòng đất
thuộc diện tích đất lối đi Lô B cũng phải di dời khỏi đất của bà T, vì không phù hợp
với Điều 252 Bộ luật dân sự về quyền cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề.
[5] Xét việc T yêu cầu tháo dỡ đường dây tải điện của nhà ông N nhà
B phía trên lối đi thuộc thửa đất 127. Thấy rằng đường dây điện chưa làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng đất của bà T. Do đó Hội đồng xét xử giữ nguyên phần này
của Bản án sơ thẩm. Tuy nhiên sau này việc sử dụng đường dây tải điện không còn
phù hợp với Điều 255 Bộ luật dân sự thì các đương sự có quyền yêu cầu xem xét.
[6] Xét về yêu cầu khởi kiện của T liên quan đến tháo dỡ phần ô văng của
ông N trên diện tích thửa đất 127, Bản án thẩm đã giải quyết buộc bà Đặng Thị
Đ, anh Thành T2, chị Thị Thúy H1 phải tháo dỡ một phần ô văng lấn chiếm
11
không gian của thửa đất 127. Phần này không kháng cáo, kháng nghị nên Hội
đồng xét xử giữ nguyên như Bản án sơ thẩm.
[7] Bà T không nhận bất cứ khoản tiền nào trước đây để cho B đi qua đất
B nêu trên. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, T tự nguyện hỗ trợ B một
số tiền để bà B mở lối đi ra đường công cộng, B yêu cầu bà T hỗ trợ
100.000.000đ nhưng bà T trình bày chỉ khả năng hỗ trợ 30.000.000đ đề nghị
Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận bà T tự nguyện hỗ trợ
bà B 30.000.000đ, các đương sự không phải chịu án phí đối với số tiền này.
[8] Với c phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà T,
sửa một phần Bản án thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của bà T, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà B, thống nhất vô hiệu “Biên bản
trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-2017, diện tích đất B không phải lối
đi chung, bà T được tiếp tục sử dụng diện tích đất này theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BC 243276 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp ngày 11-6-2010.
Do sửa Bản án thẩm nên án phí thẩm của nguyên đơn bị đơn được điều
chỉnh lại theo quy định pháp luật.
[9] Chi phí ttụng gồm định giá, thu thập tài liệu chứng cứ, xem xét, thẩm
định tại chỗ, đo vđất tại Tòa án cấp thẩm 20.000.000đ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, đo vẽ đất tại Tòa án cấp phúc thẩm 3.600.000đ, tổng cộng
23.600.000đ, T B đều phải chịu. Tuy nhiên T đã tạm ứng đủ tại
phiên tòa phúc thẩm, T tự nguyện chịu toàn bộ nên B không phải trả lại cho
bà T.
[10] Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sửa một phần Bản án thẩm
theo nội dung đã phân tích như trên. Bà T không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật T tụng dân s;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 26, 147, 148, 157, 293, 296, 313 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Điều 117, 122, 131, 252, 254, 255, 256 Bộ Luật Dân sự; Nghị quyết số
326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận 01 phần nội dung kháng cáo của Mộng T, sửa Bản án dân
sự thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án nhân dân thành phố V
như sau:
1. Đình chỉ các yêu cầu sau đây của nguyên đơn là bà Võ Mộng T:
12
- Buộc Thị B phải dỡ bỏ phần mái che bằng tôn dỡ bỏ các tấm đan
cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, L,
thành phố V.
- Buộc ông Minh N phải dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ, tháo dỡ chuồng gà, di
dời các cây trồng trên một phần diện tích đất thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L,
thành phố V.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Mộng T,
không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là bà Lê Thị B:
2.1. Tuyên bố hiệu Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi ngày 05-01-
2017 giữa bà Võ Mộng T ông Minh N, Thị B. Không công nhận
diện tích đất thuộc thửa số 127, tờ bản đồ số 39, L, thành phố V, hiệu
B theo các điểm tọa độ 4-5-24-23-4 tại đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai thành phố V lập ngày 08-3-2024 lối đi chung của
Thị B và bà Võ Mộng T.
T được tiếp tục sử dụng diện tích đất thuộc một phần B, thửa đất số
127, tờ bản đồ số 39, L, thành phố V theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BC 243276 do y ban nhân dân thành phố V cấp ngày 11-6-2010 cho anh
Minh T1, được Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố V chỉnh sang
tên bà Võ Mộng T tại trang 4 ngày 12-01-2018.
2.2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn Mộng T: Mộng
T có trách nhiệm hỗ trợ cho bà Lê Thị B số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi
hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả thêm cho bên
được thi hành án số tiền lãi 10%/năm của khoản tiền chậm thi hành án, tương ứng
với thời gian chưa thi hành án.
2.3. Buộc Đặng Thị Đ, anh Thành T2, chị ThThúy H1 phải tháo
dỡ một phần ô văng lấn chiếm không gian của thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39,
L, thành phố V, theo các điểm tọa độ 28-29-30-31-28 tại đồ vtrí do Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V lập ngày 06-01-2022.
2.4. Buộc Lê Thị B, anh Văn S, anh Lê Văn T3, chị Nguyễn Thị Ngọc
C, chị Nguyễn Thị Kiều D phải tháo dỡ, di dời đường ống nước phía dưới lòng đất
thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, L, thành phố V, tại vị trí đất hiệu B
theo các điểm tọa độ 4-5-24-23-4 tại Sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thành phố V lập ngày 08-3-2024.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Mộng T về việc buộc Thị B ông Minh N, nay người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông N Đặng Thị Đ, anh Thành T2, chị Thị Thúy
13
H1 phải tháo dỡ đường dây tải điện phía trên không gian thửa đất số 127, tờ bản đồ
số 39, xã L, thành phố V.
(Kèm theo Bản án đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai thành phố V lập ngày 06-01-2022 và ngày 08-3-2024).
4. Chi phí tố tụng 23.600.000đ (Hai mươi ba triệu, sáu trăm ngàn đồng).
Võ Mộng T tự nguyện chịu và đã nộp xong.
5. Án phí Dân sự sơ thẩm:
- Mộng T phải chịu 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) nhưng được trừ
vào tiền tạm ứng án phí 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số
0007464 ngày 09-12-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh
Rịa Vũng Tàu. T không phải chịu và được trả lại 300.00 (Ba trăm ngàn
đồng) theo Biên lai thu số 0000043 ngày 26-02-2020 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Thị B phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ vào
tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0001953 ngày 23-3-2022 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà B đã nộp xong.
- Đặng Thị Đ, anh Minh T1, anh Minh N1, anh Thành T2, chị
Lê Thị Thúy H1 phải liên đới chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Mộng T không phải chịu, được trả lại
tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0000662
ngày 12-6-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Rịa Vũng
Tàu.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9
Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (05-9-2024).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh BR-VT; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP V;
- Chi cục THADS TP V;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ. (Đã ký)
Đào Thị Huệ
Tải về
Bản án số 190/2024/DS-PT Bản án số 190/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 190/2024/DS-PT Bản án số 190/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất