Bản án số 190/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 190/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 190/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 190/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 190/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 190/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa bản án sơ thẩm. Vô hiệu Biên bản thỏa thuận lối đi chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 190/2024/DS-PT
Ngày: 05-9-2024
V/v “Tranh chấp lối đi
và khoảng không gian trên mặt đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Thị Huệ
Các Thẩm phán: Ông Cao Xuân Long
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Vũ Vân Thủy – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: Ông Vũ
Duyên Trường – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 28-8 và 05-9-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 190/2023/TLPT-DS
ngày 03 tháng 10 năm 2023 về việc: “Tranh chấp lối đi và khoảng không gian trên
mặt đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo, theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 232/2023/QĐ-PT ngày 21-11-2023, Quyết định hoãn phiên tòa
phúc thẩm số 246/2023/QĐ-PT ngày 13-12-2023, Thông báo về việc mở lại phiên
tòa số 85/2024/TB-TA ngày 05-7-2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố
tụng số 123/2024/QĐ-TA ngày 30-7-2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm
số 211/2024/QĐ-PT ngày 30-7-2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng
số 201 ngày 27-8-2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Mộng T, sinh năm 1973; (có mặt)
Địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện hợp pháp của bà T: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1982; Địa
chỉ số C đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu – là người đại
diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền lập ngày 23-6-2020 (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Bà Lê Thị B, sinh năm 1963 (có mặt),
2.2. Ông Lê Minh N, sinh năm 1962 (chết ngày 13-01-2023);
2
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Minh N:
2.2.1. Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1965 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
2.2.2. Anh Lê Minh T1, sinh năm 1985 (vắng mặt).
2.2.3. Anh Lê Minh N1, sinh năm 1987 (vắng mặt).
2.2.4. Anh Lê Thành T2, sinh năm 1999 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
2.2.5. Chị Lê Thị Thúy H1, sinh năm 1997 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1942 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Người đại diện hợp pháp của bà Đ1: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1982;
Địa chỉ số C đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu – là người
đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền lập ngày 05-5-2021 (có mặt).
3.2. Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1965 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.3. Anh Lê Thành T2, sinh năm 1999 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.4. Chị Lê Thị Thúy H1, sinh năm 1997 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.5. Anh Lê Văn S, sinh năm 1991 (vắng mặt).
3.6. Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1996 (vắng mặt).
3.7. Anh Lê Văn T3, sinh năm 1994 (có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.8. Chị Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Người kháng cáo: Bà Võ Mộng T – là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Võ Mộng
T và người đại diện hợp pháp ông Nguyễn Thái H trình bày:
Bà T đang sử dụng diện tích đất 197m
2
, thửa số 127, tờ bản đồ số 39, thôn G,
xã L, thành phố V (gọi tắt là thửa đất 127). Thửa đất này của anh Lê Minh T1 (con
trai của ông Lê Minh N) chuyển nhượng cho mẹ bà T là bà Nguyễn Thị Đ1 từ ngày
05-01-2017. Sau đó bà Đ1 sang tên cho bà T từ năm 2018.
Từ trước khi anh T1 chuyển nhượng đất cho bà Đ1 thì gia đình em ruột của
ông N là bà Lê Thị B ở kế bên đã sử dụng một phần đất để lợp mái tôn có chiều
ngang 5m x dài 1,5m, nối dài từ nhà bà B đi cắt ngang qua đất thửa 127 để sang lối
đi nhà ông N rồi đi ra đường công cộng, đồng thời bà B mở 02 cửa sổ có tấm đan
lấn sang đất thửa 127. Bên nhà ông N cũng mở 02 cửa sổ có tấm đan cùng với 01 ô
văng lấn sang đất thửa 127.
3
Khi nhận chuyển nhượng đất thửa 127, bà T làm thủ tục hộ cho mẹ nên bà T
cùng ông N, bà B có lập “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ký ngày 05-01-
2017. Nội dung thỏa thuận cho phép bà B được đi chung phần lối đi rộng 1,5m bên
dưới mái tôn đã dựng trên đất thửa 127; Đồng thời ông N cũng cam kết chừa một
lối đi có chiều rộng khoảng 3m, dài khoảng 15m trên đất của ông N, chạy dọc theo
đất thửa 127 để khi bà B đi ngang qua đất thửa 127 thì sẽ nối vào đây và đi ra
đường chính (đường B). Khi lập Biên bản thỏa thuận, các bên đã thống nhất sau
này khi bà T xây nhà thì bà B phải tháo dỡ phần mái tôn đã dựng trên lối đi nêu
trên. Tuy nhiên, khi bà T xây nhà thì bà B không đồng ý tháo dỡ mái tôn, đồng thời
trong quá trình sử dụng phần lối đi này thì bà B giăng mắc quần áo chắn ngang lối
đi, để thùng rác trước cửa sau nhà bà T dẫn đến ruồi nhặng bâu gây ra mùi hôi thối,
bay thẳng vào nhà bà T làm ảnh hưởng tới sức khỏe, vệ sinh, bà B còn xả nước thải
tràn ra phần lối đi này. Bà T đã nhiều lần góp ý nhưng không thay đổi, sau đó bà T
khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã L nhưng bà B vẫn không chấp nhận, nhiều lần
chửi bới bà T.
Thửa đất 127 nguồn gốc trước kia thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông N
và vợ là bà Đặng Thị Đ. Ông N và bà Đ tặng cho con là anh Lê Minh T1. Tại thời
điểm ký Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi ngày 05-01-2017 nêu trên thì ông N,
bà B, bà T không phải là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất, bà T tự ý ký mà
không thông báo cho bà Đ nên việc cùng nhau ký Biên bản thỏa thuận về lối đi
chung trên phần đất này là không phù hợp về mặt chủ thể. Thỏa thuận này cũng
không phải là điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà T và bà Đ không
nhận bất cứ khoản tiền hay lợi ích vật chất nào từ bà B hay ông N, anh T1. Biên
bản thỏa thuận ngày 05-01-2017 có tính chất chuyển quyền sử dụng đất nhưng văn
bản này không được công chứng chứng thực, không tuân thủ hình thức của Hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất và Biên bản này chưa đăng ký với cơ quan có thẩm
quyền.
Thực tế sát nhà bà B có một lối đi công cộng ở ngay mặt sau nhà nhưng do
bà B tự xây bít lại, lối đi đang tranh chấp không phải là lối đi duy nhất của bà B nên
bà T không có nghĩa vụ phải dành lối đi này cho bà B.
Thông qua đơn khởi kiện ngày 26-02-2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 04-
12-2020, đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 28-6-2021 và ngày 10-
8-2022, cụ thể không buộc bà Lê Thị B tháo dỡ phần mái tôn có chiều ngang 1,5m
x dài 5m nối dài từ đất bà B, qua đất thửa 127 của bà T sang đất nhà ông N, dỡ bỏ
các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất 127; không buộc ông
Lê Minh N phải tháo dỡ chuồng gà và di dời các cây trồng của ông N có trên thửa
đất 127, dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thửa 127.
Bà T khởi kiện yêu cầu chính thức như sau:
4
- Tuyên hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ký ngày 05-01-2017
giữa bà T, bà B và ông N.
- Buộc bà Lê Thị B phải dỡ bỏ đường ống nước phía dưới và đường dây điện
phía trên lối đi để trả lại cho bà T toàn vẹn quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 127.
- Buộc ông N tháo dỡ 01 ô văng và đường dây điện phía trên để trả lại
khoảng không gian trên mặt đất thuộc thửa đất 127 cho bà.
Bị đơn là bà Lê Thị B trình bày: Về nguồn gốc đất thửa 127 bà T đang
quản lý sử dụng và lối đi hiện hữu từ nhà bà qua nhà đất của ông N bà thống nhất
với lời trình bày của ông N. Xung quanh nhà bà bị bao bọc bởi các nhà khác, không
có lối đi nào để đi ra đường lớn ngoài lối đi theo như Biên bản thỏa thuận đường đi
ký ngày 05-01-2017.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của bà T thì bà không đồng ý yêu cầu nào. Bà
B có yêu cầu phản tố ngày 07-3-2022, yêu cầu Tòa án công nhận Lô B được thể
hiện trên sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai lập ngày 06-01-
2022, thuộc một phần thửa đất 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V là lối đi
chung của gia đình bà B và bà T.
Các thành viên trong gia đình bà đang sử dụng nhà đất gồm có bà B, hai con
trai là Lê Văn S, sinh năm 1991 và Lê Văn T3, sinh năm 1994; con dâu là Nguyễn
Thị Kiều D, sinh năm 1996 và Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1995; cháu nội là Lê
Ngọc N2, sinh năm 2019.
Bị đơn là ông Lê Minh N khi còn sống trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 127 là của ông tách ra cho con trai là anh Lê Minh T1 từ
năm 2010. Trên đất thửa 127 có một lối đi có đặc điểm như bà T trình bày do ông
dành cho bà B – em gái của ông – đi qua và đã tồn tại khoảng 30 năm nay. Năm
2017, anh T1 chuyển nhượng cho bà T thửa đất này. Trước khi bà T nhận chuyển
nhượng đất của anh T1, ông có ra điều kiện nếu bà T đồng ý để một phần đất như
lối đi hiện hữu thì ông mới đồng ý cho anh T1 chuyển nhượng đất. Bà T đồng ý nên
giữa ông, bà T và bà B lập Biên bản thỏa thuận đường đi ký ngày 05-01-2017 như
bà T đã nêu. Nay bà T đã cất nhà trên đất, phần đuôi nhà giáp với lối bà B đi nêu
trên.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của bà T ông có ý kiến:
- Không đồng ý yêu cầu hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày
05-01-2017.
- Đồng ý tháo dỡ tấm đan cửa sổ, phần ô văng nằm phía bên phần đất của bà
T. Bà T có trách nhiệm thực hiện, ông chỉ chứng kiến, chi phí tháo dỡ mỗi bên chịu
50%.
5
- Đối với dây điện mắc vào nhà ông đi qua nhà đất của bà T (thửa đất 127),
sau này bà T có làm nhà mà bị ảnh hưởng bởi đường dây điện thì yêu cầu Điện lực
xuống di dời.
Các thành viên trong gia đình ông đang sử dụng nhà đất gồm có ông N, vợ
ông là Đặng Thị Đ, sinh năm 1965; hai con của ông là Lê Thị Thúy H1, sinh năm
1997 và Lê Thành T2, sinh năm 1999.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đặng Thị Đ, anh Lê Thành T2, chị Lê Thị Thúy H1 đồng thời là
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Minh N trình bày: Thống
nhất với toàn bộ lời trình bày của ông N tại Tòa án, không trình bày bổ sung gì
thêm.
- Anh Lê Minh T1 và anh Lê Minh Nghĩa l người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Minh N không tham gia làm việc theo triệu tập của
Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến.
- Anh Lê Văn S, anh Lê Văn T3, chị Nguyễn Thị Ngọc C, chị Nguyễn
Thị Kiều D trình bày: Các anh chị là con của bà Lê Thị B, thống nhất với toàn bộ
lời trình bày của bà B tại Tòa án, không trình bày bổ sung gì thêm.
- Bà Nguyễn Thị Đ1 thông qua người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn
Thái H trình bày:
Khoảng cuối năm 2016, đầu năm 2017, các con bà Đ1, trong đó có bà T,
tặng cho bà Đ1 một số tiền để bà Đ1 mua một căn nhà sinh sống. Do bà Đ1 tuổi
cao không tiện đi lại nên giao cho con gái là bà Võ Mộng T thay mặt bà liên hệ với
người có nhu cầu chuyển nhượng nhà đất.
Ngày 17-3-2017, bà Đ1 và anh T3 đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa đất 127, tờ bản đồ 39 tại thôn G, xã L, thành phố V. Tiền nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà đã giao hết cho bà T để thanh toán, sau đó bà
Đ1 nghe nói đã thanh toán xong và bà đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Ngày 12-01-2018, bà T có nhu cầu về tài sản vay vốn làm ăn nên bà Đ1 đã
tặng cho bà T toàn bộ quyền sử dụng thửa đất nói trên.
Khi ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh T3 thì bà
Đ1 không nghe ai nói gì về lối đi của bà B phía sau nhà. Mãi sau này, bà mới nghe
bà T nói lại là ngày 05-01-2017, ông N, bà B và bà T cùng ký kết vào Biên bản
thỏa thuận lối đi chung, cắt ngang thửa đất bà Đ1 nhận chuyển nhượng nêu trên. Bà
T tự ý ký biên bản thỏa thuận này chứ bà Đ1 không hề biết. Bà Đ1 không nhận bất
6
cứ khoản tiền hay lợi ích vật chất gì từ bà B hay ông N, anh T3 để phải chừa lại bất
cứ phần đất nào làm đường đi chung.
Bà Đ1 đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.
Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
- Đình chỉ các yêu cầu: Buộc bà Lê Thị B phải dỡ bỏ phần mái che bằng tôn
và dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ
bản đồ số 39 tọa lạc tại xã L, thành phố V; Buộc ông Lê Minh N phải tháo dỡ
chuồng gà, di dời các cây trồng và dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ trên một phần diện
tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39 tọa lạc tại xã L, thành phố V.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi”
ngày 05-01-2017.
- Không chấp nhận yêu cầu buộc gia đình bà B phải tháo dỡ đường dây điện
phía trên và đường ống nước phía dưới lối đi chung thuộc thửa đất số 127, tờ bản
đồ số 39, xã L, thành phố V.
- Không chấp nhận yêu cầu buộc ông N phải tháo dỡ đường dây điện trên
không gian nhà bà T thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V.
- Chấp nhận yêu cầu buộc bà Đặng Thị Đ, anh Lê Thành T2, chị Lê Thị
Thúy H1 phải tháo dỡ một phần ô văng nhà ông N lấn chiếm không gian thuộc thửa
đất 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V, theo các điểm tọa độ 28, 29, 30, 31, 28
tại Sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai lập ngày 06-01-2022.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Lê Thị B: Công nhận Lô B theo các
điểm tọa độ 4, 5, 23, 20, 4 tại Sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất
đai lập ngày 06-01-2022, thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V
là lối đi chung của gia đình bà B và bà Võ Mộng T.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Kháng cáo: Ngày 06-6-2023, nguyên đơn là bà Võ Mộng T có đơn kháng
cáo một phần Bản án sơ thẩm với lý do: Các chủ thể ký Biên bản trao đổi thỏa
thuận đường đi ngày 05-01-2017 không có quyền xác lập giao dịch tại thời điểm ký
kết và nội dung biên bản vi phạm pháp luật; Bà B xây dựng nhà không có giấy
phép xây dựng, đất của bà B chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên không có cơ sở xác lập lối đi qua bất động sản liền kề; Bà B còn một lối đi
khác ra đường chính ngoài lối đi tranh chấp; Việc bà B và những người thừa kế của
ông N lắp đặt thiết bị điện, nước trên diện tích đất của nguyên đơn trong khi chưa
được sự đồng ý là xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Bà T yêu
7
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ
khi thụ lý cho đến thời điểm xét xử thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự có mặt tại
phiên tòa phúc thẩm chấp hành tốt quy định pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án:
Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi lập ngày 05-01-2017 giữa bà Võ
Mộng T và ông Lê Minh N, bà Lê Thị B là thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, tuy
nhiên tại thời điểm ký kết thì những người này đều không phải chủ sử dụng thửa
đất 127. Căn cứ quy định tại Điều 117, Điều 122 Bộ luật dân sự thì Biên bản nêu
trên bị vô hiệu.
Theo sơ đồ vị trí thửa đất ngày 08-3-2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
ký đất đai thành phố V và Công văn số 1004/UBND-ĐC ngày 31-7-2024 của Ủy
ban nhân dân xã L thể hiện thực tế phía sau nhà bà B có một lối đi công cộng do
Nhà nước quản lý nằm tiếp giáp trực tiếp với đất nhà bà B, không phải nhà bà bị
các hộ gần kề vây bọc. Do đó, hộ bà B có quyền sử dụng lối đi này mà không cần
phải đi qua đất của hộ bà T. Hơn nữa, việc hộ bà B sử dụng lối đi qua đất của hộ bà
T, đã cắt ngang thửa đất làm hai phần, ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của hộ bà T.
Do đó yêu cầu phản tố của bà B về việc công nhận Lô B là lối đi chung của gia
đình bà B và bà T là không có cơ sở.
Hộ bà B có lối đi công cộng ở phía sau nhà để sử dụng lắp đặt đường dây
điện và đường ống nước vào nhà, vì vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà T về
việc hộ bà B phải tháo dỡ đường dây điện và đường ống nước dưới phần đất tranh
chấp.
Đối với yêu cầu buộc những người thừa kế của ông N phải tháo dỡ và di dời
toàn bộ đường dây điện ra khỏi phần diện tích thuộc thửa đất số 127 giữ nguyên
hiện trạng như Bản án sơ thẩm tuyên là phù hợp.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà T;
sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo nội dung nêu trên.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định:
[1] Về việc vắng mặt đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự vắng
mặt tại phiên tòa, đều thuộc trường hợp có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên theo quy định tại Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người
này.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn là bà Võ Mộng T về việc hủy “Biên bản trao
đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-2017:
[2.1] Thửa đất 127, tờ bản đồ 39 tại thôn G, xã L, thành phố V có nguồn gốc
của ông Lê Minh N và bà Đặng Thị Đ tặng cho con trai là anh Lê Minh T1. Anh T1
chuyển nhượng cho mẹ của bà T là bà Nguyễn Thị Đ1 từ ngày 27-02-2017, sau đó
bà Đ1 được chỉnh lý sang tên ngày 17-3-2017. Đến ngày 22-12-2017, bà Đ1 lập
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 04039, tặng cho con gái là bà Võ Mộng T
diện tích đất trên và bà T được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V
chỉnh lý sang tên ngày 12-01-2018 (BL 52 – 66 tập 4).
[2.2] Đối với lối đi hiện nay đang tranh chấp được thể hiện tại Lô B của Sơ
đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố V ký ngày 08-
3-2024, có thực trạng là lối đi chạy ngang qua và cắt đôi thửa đất 127 của bà T
thành hai phần, nối từ cửa nhà bà B đi ngang qua đất bà T, sang đất của ông Lê
Minh N để đi ra đường công cộng. Lối đi này chỉ có một mình nhà bà B sử dụng,
còn bà T có mở cửa sau quay ra lối đi này nhưng không sử dụng lối đi mà chỉ sử
dụng đường đi phía trước nhà của bà. Phần lối đi vẫn thuộc quyền sử dụng đất của
bà T theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 243276 do Ủy ban nhân dân
thành phố V cấp ngày 11-6-2010. Các đương sự thừa nhận bà B đã đi qua đất thửa
127 và lắp đặt đường ống dẫn nước sinh hoạt vào nhà bà B từ trước khi anh T1
chuyển nhượng đất cho bà Đ1. Theo hồ sơ vụ án, việc bà B đi qua thửa đất 127 là
vì trước đây toàn bộ khu đất đều là của ông Lê Minh N – cha của anh T1 và là anh
trai của bà B, nên ông N cho bà B đi qua (BL 56 tập 4; 84, 85 tập 6; 291 tập 27).
[2.3] Việc ngày 05-01-2017 bà Võ Mộng T và ông Lê Minh N, bà Lê Thị B
ký “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” là có thật, với nội dung “Bà T đồng ý
chừa 1m5 ngang đường đi chung vĩnh viễn cho bà Lê Thị B. Bên bà Võ Mộng T
chừa sân trước 2m5 tính luôn đường đi chung của bà Lê Thị B để làm sân. Còn
phần tôi (ông N), đường đi của tôi, tôi đồng ý cho bà T và bà B đi vĩnh viễn”. Biên
bản ký trước khi mẹ bà T là bà Đ1 nhận chuyển nhượng thửa 127 của anh T1. Xét
thấy Biên bản này được ký giữa những người không phải là người có quyền sử
9
dụng đất thửa 127 ở thời điểm đó. Mặc dù thời điểm này bà T là người bàn bạc giao
dịch với anh T1 để nhận chuyển nhượng đất thửa 127, nhưng là thực hiện thay cho
mẹ của mình nên chưa có quyền sử dụng đất, sau này bà T mới được mẹ cho thửa
đất 127. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Lê Minh T1 từ
ngày 11-6-2010, còn người đứng tên ký hợp đồng nhận chuyển nhượng đất thửa
127 là bà Nguyễn Thị Đ1, nhưng anh T1 và bà Đ1 lại không ký và không thỏa
thuận gì về lối đi này. Còn bà T và bà B, ông N không phải là người có quyền sử
dụng đất thửa 127 nhưng lại thỏa thuận với nhau, định đoạt lối đi qua đất thửa 127
là không phù hợp với điều kiện có hiệu lực của giao dịch quy định tại Điều 117 Bộ
luật dân sự, nên là giao dịch vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo Điều 131
Bộ luật dân sự thì giao dịch vô hiệu không có hiệu lực từ thời điểm ký kết, nên nay
bà T yêu cầu hủy biên bản này là có cơ sở (BL 11 tập 1).
[3] Xét việc bị đơn là bà Lê Thị B yêu cầu được công nhận phần lối đi đang
tranh chấp tại Lô B làm lối đi chung, thấy rằng:
[3.1] Với việc ký thỏa thuận lối đi không phù hợp như trên, nhưng bà Đ1 và
bà T vẫn để cho bà B sử dụng lối đi này vì bà T chưa có nhu cầu sử dụng đất phía
sau. Tuy nhiên bà T cho rằng bà B không sử dụng lối đi đúng mục đích mà đã sử
dụng lối đi vào những việc khác như để thùng rác, để xe máy, để chậu cây, phơi
quần áo, ảnh hưởng đến vệ sinh chung và quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Bà T
cung cấp các hình ảnh chụp lại những thực trạng trên, thực tế hai bên đã có tranh
chấp và được Ủy ban nhân dân xã L hòa giải ngày 14-11-2019 nhưng sự việc vẫn
tiếp diễn và phải tranh chấp ra Tòa án. Nay bà T không đồng ý tiếp tục thực hiện
thỏa thuận lối đi vì đây không phải lối đi duy nhất của bà B, còn bà B cho rằng thỏa
thuận lối đi là đi vĩnh viễn và đã tồn tại nhiều năm nên không đồng ý đi lối khác.
[3.2] Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét, thẩm định tại chỗ và cho đo vẽ lại
toàn bộ đất của bà T, bà B và thực trạng các lối đi. Theo Sơ đồ vị trí thửa đất do
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V ký ngày 08-3-2024 thì lối đi bà
B đang sử dụng cắt đôi thửa đất 127 của bà T, được ký hiệu là Lô B rộng 1,5m và
dài hết bề ngang (4,51m; 4,48m) đất của bà T; đất của bà T nằm trong các Lô A-B-
D-F; lối đi khác bên cạnh nhà bà B ký hiệu là Lô G; đất và nhà bà B đang sử dụng
nằm trong Lô C; phần nhà của bà B có một phần tường nhà tắm và một phần tường
bếp giáp với lối đi Lô G. Lối đi Lô G phần giáp nhà bà B rộng khoảng 1,5m, kéo
dài khoảng 8m thì đến hẻm rộng 3,11m nối với đường lớn 28/4. Hội đồng xét xử
thấy lối đi Lô G này về hình dáng, kích thước cũng tương tự như lối đi bà B đang đi
ngang qua thửa 127 của bà T (BL 291 tập 27).
[3.3] Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L (Văn bản số
1004/UBND-ĐC ngày 31-7-2024) thì lối đi Lô G là lối đi chung do Nhà nước quản
lý và có chủ sử dụng đất thửa 124, 126, tờ 39 mở rộng thêm một phần lối đi. Lối đi
10
Lô G chỉ có nhà bà Nguyễn Thị T4 sử dụng còn bà B thì trước nay không đi lối
này. Theo trình bày của bà B thì lối đi Lô G tồn tại ít nhất từ trước năm 2014, nghĩa
là trước khi có “Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-2017 (BL 291
tập 27; 306 tập 28).
[3.4] Theo quy định tại Điều 254 Bộ luật dân sự thì bà B chỉ có quyền yêu
cầu mở lối đi qua đất của bà T nếu nhà bà B bị vây bọc bởi các bất động sản của
chủ sở hữu khác, đồng thời việc yêu cầu mở lối đi qua đất của bà T là hợp lý nhất,
gây thiệt hại ít nhất trong số các thửa đất xung quanh. Tuy nhiên qua xem xét thẩm
định như trên thì thấy rằng nhà đất bà B không bị vây bọc mà có lối đi công cộng là
Lô G nêu trên, nhưng chỉ là do từ trước đến nay đã quen đi ngang đất thửa 127 từ
khi đất còn thuộc quyền sử dụng của anh trai là ông N, nên bà B đã tự xây nhà bịt
lại không sử dụng lối đi công cộng. Do vậy việc bà B đi qua đất của bà T không
thuộc vào trường hợp bắt buộc nêu trên.
[3.5] Diện tích đất thửa 127 của bà T rộng khoảng 5m, dài khoảng 37m và
chỉ có một mặt tiền phía trước nhà giáp đường B. Như vậy lối đi đang tranh chấp là
lối đi cắt ngang qua đất của bà T, chia đất của bà T thành 02 phần là không hợp lý,
gây bất tiện, làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất bình thường của bà T nên bà
không đồng ý việc bà B tiếp tục đi qua đất của bà là hợp lý, có cơ sở.
[3.6] Mặt khác, từ năm 2019 đến nay hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, không
thỏa thuận được với nhau về việc sử dụng lối đi này, tranh chấp kéo dài làm ảnh
hưởng đến tinh thần của cả hai bên, nên cần chấm dứt việc sử dụng lối đi đang
tranh chấp, tránh gây hậu quả xấu về lâu dài cho các đương sự.
[4] Xét việc bà T yêu cầu buộc bà B tháo dỡ, di dời đường ống nước của bà
B đi ngầm bên dưới lòng đất thửa 127, thấy rằng: Do Hội đồng xét xử quyết định
bà B không được tiếp tục sử dụng đất của bà T làm lối đi chung nên việc đường
ống cấp nước sinh hoạt của nhà bà B cũng tương tự, không bắt buộc phải đi qua đất
của bà T. Cho nên đường ống nước sinh hoạt của bà B đã lắp đặt dưới lòng đất
thuộc diện tích đất lối đi Lô B cũng phải di dời khỏi đất của bà T, vì không phù hợp
với Điều 252 Bộ luật dân sự về quyền cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề.
[5] Xét việc bà T yêu cầu tháo dỡ đường dây tải điện của nhà ông N và nhà
bà B phía trên lối đi thuộc thửa đất 127. Thấy rằng đường dây điện chưa làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng đất của bà T. Do đó Hội đồng xét xử giữ nguyên phần này
của Bản án sơ thẩm. Tuy nhiên sau này việc sử dụng đường dây tải điện không còn
phù hợp với Điều 255 Bộ luật dân sự thì các đương sự có quyền yêu cầu xem xét.
[6] Xét về yêu cầu khởi kiện của bà T liên quan đến tháo dỡ phần ô văng của
ông N trên diện tích thửa đất 127, Bản án sơ thẩm đã giải quyết buộc bà Đặng Thị
Đ, anh Lê Thành T2, chị Lê Thị Thúy H1 phải tháo dỡ một phần ô văng lấn chiếm
11
không gian của thửa đất 127. Phần này không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội
đồng xét xử giữ nguyên như Bản án sơ thẩm.
[7] Bà T không nhận bất cứ khoản tiền nào trước đây để cho bà B đi qua đất
Lô B nêu trên. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, bà T tự nguyện hỗ trợ bà B một
số tiền để bà B mở lối đi ra đường công cộng, bà B yêu cầu bà T hỗ trợ
100.000.000đ nhưng bà T trình bày chỉ có khả năng hỗ trợ 30.000.000đ và đề nghị
Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận bà T tự nguyện hỗ trợ
bà B 30.000.000đ, các đương sự không phải chịu án phí đối với số tiền này.
[8] Với các phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà T,
sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của bà T, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà B, thống nhất vô hiệu “Biên bản
trao đổi thỏa thuận đường đi” ngày 05-01-2017, diện tích đất Lô B không phải lối
đi chung, bà T được tiếp tục sử dụng diện tích đất này theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BC 243276 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp ngày 11-6-2010.
Do sửa Bản án sơ thẩm nên án phí sơ thẩm của nguyên đơn và bị đơn được điều
chỉnh lại theo quy định pháp luật.
[9] Chi phí tố tụng gồm định giá, thu thập tài liệu chứng cứ, xem xét, thẩm
định tại chỗ, đo vẽ đất tại Tòa án cấp sơ thẩm là 20.000.000đ và chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, đo vẽ đất tại Tòa án cấp phúc thẩm là 3.600.000đ, tổng cộng là
23.600.000đ, bà T và bà B đều phải chịu. Tuy nhiên bà T đã tạm ứng đủ và tại
phiên tòa phúc thẩm, bà T tự nguyện chịu toàn bộ nên bà B không phải trả lại cho
bà T.
[10] Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sửa một phần Bản án sơ thẩm
theo nội dung đã phân tích như trên. Bà T không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật T tụng dân s;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 26, 147, 148, 157, 293, 296, 313 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Điều 117, 122, 131, 252, 254, 255, 256 Bộ Luật Dân sự; Nghị quyết số
326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận 01 phần nội dung kháng cáo của bà Võ Mộng T, sửa Bản án dân
sự sơ thẩm số 52/2023/DS-ST ngày 24-5-2023 của Tòa án nhân dân thành phố V
như sau:
1. Đình chỉ các yêu cầu sau đây của nguyên đơn là bà Võ Mộng T:
12
- Buộc bà Lê Thị B phải dỡ bỏ phần mái che bằng tôn và dỡ bỏ các tấm đan
cửa sổ trên một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L,
thành phố V.
- Buộc ông Lê Minh N phải dỡ bỏ các tấm đan cửa sổ, tháo dỡ chuồng gà, di
dời các cây trồng trên một phần diện tích đất thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L,
thành phố V.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ Mộng T,
không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là bà Lê Thị B:
2.1. Tuyên bố vô hiệu Biên bản trao đổi thỏa thuận đường đi ngày 05-01-
2017 ký giữa bà Võ Mộng T và ông Lê Minh N, bà Lê Thị B. Không công nhận
diện tích đất thuộc thửa số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V, có ký hiệu là
Lô B theo các điểm tọa độ 4-5-24-23-4 tại Sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai thành phố V lập ngày 08-3-2024 là lối đi chung của bà Lê
Thị B và bà Võ Mộng T.
Bà T được tiếp tục sử dụng diện tích đất thuộc một phần Lô B, thửa đất số
127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BC 243276 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp ngày 11-6-2010 cho anh Lê
Minh T1, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V chỉnh lý sang
tên bà Võ Mộng T tại trang 4 ngày 12-01-2018.
2.2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn là bà Võ Mộng T: Bà Võ Mộng
T có trách nhiệm hỗ trợ cho bà Lê Thị B số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi
hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả thêm cho bên
được thi hành án số tiền lãi 10%/năm của khoản tiền chậm thi hành án, tương ứng
với thời gian chưa thi hành án.
2.3. Buộc bà Đặng Thị Đ, anh Lê Thành T2, chị Lê Thị Thúy H1 phải tháo
dỡ một phần ô văng lấn chiếm không gian của thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã
L, thành phố V, theo các điểm tọa độ 28-29-30-31-28 tại Sơ đồ vị trí do Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V lập ngày 06-01-2022.
2.4. Buộc bà Lê Thị B, anh Lê Văn S, anh Lê Văn T3, chị Nguyễn Thị Ngọc
C, chị Nguyễn Thị Kiều D phải tháo dỡ, di dời đường ống nước phía dưới lòng đất
thửa đất số 127, tờ bản đồ số 39, xã L, thành phố V, tại vị trí đất ký hiệu là Lô B
theo các điểm tọa độ 4-5-24-23-4 tại Sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thành phố V lập ngày 08-3-2024.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ
Mộng T về việc buộc bà Lê Thị B và ông Lê Minh N, nay người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của ông N là bà Đặng Thị Đ, anh Lê Thành T2, chị Lê Thị Thúy
13
H1 phải tháo dỡ đường dây tải điện phía trên không gian thửa đất số 127, tờ bản đồ
số 39, xã L, thành phố V.
(Kèm theo Bản án là Sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố V lập ngày 06-01-2022 và ngày 08-3-2024).
4. Chi phí tố tụng là 23.600.000đ (Hai mươi ba triệu, sáu trăm ngàn đồng).
Bà Võ Mộng T tự nguyện chịu và đã nộp xong.
5. Án phí Dân sự sơ thẩm:
- Bà Võ Mộng T phải chịu 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) nhưng được trừ
vào tiền tạm ứng án phí là 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số
0007464 ngày 09-12-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu. Bà T không phải chịu và được trả lại 300.000đ (Ba trăm ngàn
đồng) theo Biên lai thu số 0000043 ngày 26-02-2020 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Bà Lê Thị B phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ vào
tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0001953 ngày 23-3-2022 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà B đã nộp xong.
- Bà Đặng Thị Đ, anh Lê Minh T1, anh Lê Minh N1, anh Lê Thành T2, chị
Lê Thị Thúy H1 phải liên đới chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Mộng T không phải chịu, được trả lại
tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0000662
ngày 12-6-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (05-9-2024).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh BR-VT; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP V;
- Chi cục THADS TP V;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ. (Đã ký)
Đào Thị Huệ
Tải về
Bản án số 190/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 190/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm