Bản án số 17/2021/HS-ST ngày 13/07/2021 của TAND huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2021/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 17/2021/HS-ST ngày 13/07/2021 của TAND huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vĩnh Thạnh (TAND TP. Cần Thơ)
Số hiệu: 17/2021/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/07/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Cao C, sinh ngày 14/12/1986 tại An Giang Nơi cư trú: 654, đường tỉnh lộ 943, tổ 5, khóm Tây H, phường Mỹ B, thành phố L, tỉnh A; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Hòa hảo; con ông Trần Văn H, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962; Anh, chị em ruột: có 03 người lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1991; bị cáo có vợ là Phan Thị Huỳnh N, sinh năm 1997;

Tiền sự: Có 03 tiền sự: Ngày 06/8/2020, bị Công an xã Vĩnh Trinh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 0030004/QĐ-XPHC, chấp hành nộp phạt ngày 13/8/2020; Ngày 23/12/2020, bị Công an xã Vĩnh Trinh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 0030035/QĐ-XPHC, chấp hành nộp phạt ngày 18/3/2021; Ngày 22/3/2021 bị Công an huyện Vĩnh Thạnh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi tang trữ trái phép chất ma túy tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 0010674/QĐ-XPHC, chấp hành nộp phạt ngày 22/3/2021 Tiền án: Không; Bị tạm giam từ ngày 04 tháng 6 năm 2021.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Văn H – 1962; Nơi cư trú: 19/2B khóm Tây Hu, phường Mỹ B, thành phố L, tỉnh A. (Bị cáo có mặt, ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Cao C là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2007, đã từng bị Công an huyện Vĩnh Thạnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong năm 2021.

Để có ma túy sử dụng, ngày 19/5/2021 C điều khiển xe mô tô biển số 67B- 516.78 đi từ nhà thuộc khóm Tây H, phường Mỹ B, thành phố L, tỉnh A đến khu vực bến đò số 02 để mua ma túy, C dừng xe và đi vào quán cà phê tại Kênh 16 gặp một bé gái khoảng 13 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) nhờ mua 50.000 đồng ma túy. Sau khi mua được ma túy C bỏ vào gói thuốc lá hiệu JET rồi cất vào túi quần bên trái để tìm nơi sử dụng, khi C ghé vào quán nước đứng chờ mua nước thì bị lực lượng Công an kiểm tra và phát hiện.

Tại Kết luận giám định số 187/KLGĐ-PC09 ngày 27/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy bạc gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,0624 gram, loại Heroin.

Tại Bản Cáo trạng số: 17/CT-VKSVT-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Trần Cao C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Cao C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Đề nghị áp dụng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Trần Cao C mức án từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài ra đại diện viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như Cáo trạng đã mô tả, bị cáo ân hận về hành vi của mình và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra, việc vắng mặt người tham gia tố tụng này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án; căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người này trong vụ án.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận, để có ma túy sử dụng bị cáo đã đến khu vực bến đò số 02 để mua ma túy, bị cáo dừng xe và đi vào quán cà phê tại Kênh 16 gặp một bé gái khoảng 13 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) nhờ mua 50.000 đồng ma túy nhưng bị cáo chưa sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra và phát hiện thu giữ gói giấy bạc bên trong là ma túy. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết luận giám định, kết luận Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy bạc gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng 0,0624 gram. Mặc dù ma túy của bị cáo tàng trữ có khối lượng dưới 01 gam, nhưng bản thân bị cáo đã 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính cùng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tính đến thời điểm xét xử, bị cáo đã chấp hành nộp phạt nhưng chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Từ những tình tiết nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điều 249, khoản 1, điểm a quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”…

Như vậy, Cáo trạng số 17/CT- VKSVT-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021, truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất, tinh thần của người sử dụng, là nguyên nhân của các tội phạm khác như trộm cắp, cướp, cướp giật, thậm chí giết người. Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, nhằm tạo môi trường sống, học tập, lao động lành mạnh cho công dân và xã hội. Bị cáo mặc dù biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Do đó, cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân chấp hành nghiêm pháp luật và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tặng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần áp dụng cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận có nghề nghiệp và có thu nhập ổn định, thu nhập hàng tháng 6.000.000 đồng sau khi chi tiêu cho sinh hoạt cá nhân thì còn dư lại khoảng 2.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo số tiền 5.000.000 đồng là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) gói mẫu vật còn lại sau giám định sau giám định được niêm phong số; 187/KL-PC09 ngà 27/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ là vật cấm lưu hành. Do đó, cần áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) xe mô tô biển số 67B-516.78, nhãn hiệu Hon da, số loại WAVE 125I, màu sơn: Đỏ đen, số máy: JA21E0036914, số khung: 2118K5536914 đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được là tài sản hợp pháp của ông Trần Văn H, bị cáo sử dụng để làm phương tiện đi mua ma túy nhưng ông H hoàn toàn không biết, không liên quan đến tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh tiến hành trả lại cho ông Trần Văn H là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý. [7] Các vấn đề khác:

Quá trình điều tra, bị cáo cho rằng đã nhờ bé gái khoảng 13 tuổi mua ma túy, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không tiếp xúc làm việc được. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi có căn cứ sẽ xử lý theo qui định pháp định pháp luật là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý hành vi này.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Xét lời đề nghị của Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như đề xuất mức hình phạt là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Cao C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Cao Cường 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04 tháng 6 năm 2021.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Cao C số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) gói mẫu vật còn lại sau giám định sau giám định được niêm phong số:187/KL-PC09 ngày 27/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ.

(Vật chứng được lưu giữ tại kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh theo Quyết định chuyển vật chứng số: 11/QĐ-VKSVT-HS ngày 24/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh)

3. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Cao C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết

Tải về
Bản án số 17/2021/HS-ST Bản án số 17/2021/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất