Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 24/03/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 153/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 153/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 153/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 24/03/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tây Ninh |
Số hiệu: | 153/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Xét kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng  theo yêu cầu khởi kiện ông Đoàn Văn C trả lại diện tích đất lấn chiếm là 16m2, yêu cầu chị Đoàn Thị T (Con ông C) trả lại diện tích đất lấn chiếm 54m2, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, ông  kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, thấy rằng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
Bản án số 153/2025/DS-PT
Ngày 24/3/2025
ng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Bà Nguyễn Thị Bích Thủy;
1. Ông Trần Quốc Vũ
2. Bà Phạm Ngọc Giàu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Bùi Quốc Việt - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 775/2024/TLPT-DS ngày 24 tháng 12
năm 2024, về việc .
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 295/2024/DS-ST ngày 13 tháng 11 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 60/2025/QĐ-PT ngày
05 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
Ông Nguyễn Hoàng Â, sinh năm 1971 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp R, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh;
Ông Đoàn Văn C, sinh năm 1957 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cho ông C: Ông Lê Thanh Đ -
Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T;
3.1. Chị Đỗ Phương H, sinh năm 1970; địa chỉ: ấp R, xã T, huyện G, tỉnh
Tây Ninh (Vắng mắt);
3.2. Chị Đoàn Thị T, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây
Ninh; có mặt.
3.3. Anh Đinh Văn C1, sinh năm 1977; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G, tỉnh
Tây Ninh; vắng mặt; có đơn đề nghị vắng mặt.
3.4. Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1957; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây
Ninh; vắng mặt; có đơn đề nghị vắng mặt.
3.5. Chị Huỳnh Thị M, sinh năm 1973; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G, tỉnh
Tây Ninh; vắng mặt; có đơn đề nghị vắng mặt.
- Ông Nguyễn Hoàng Â, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
anh Nguyn Hoàng  trình bày: Anh khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất
(sau đây viết tắt là QSDĐ) với ông C, chị T, chị M như sau:
Yêu cầu ông Đoàn Văn C trả lại phần diện tích đất lấn chiếm ngang 02m
x dài 28m.
Yêu cầu chị Đoàn Thị T trả lại phần diện tích đất lấn chiếm ngang 1.2m
x dài 35m;
Yêu cầu chị Huỳnh Thị M trả lại phần diện tích đất lấn chiếm ngang 02m
x dài 60m.
(Tất cả các phần đất tranh chấp trên thuộc thửa đất số 612, tờ bản đồ số
52, tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh do anh và vợ anh tên Đỗ
Phương H đứng tên Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 24/8/2016, số vào sổ cấp
GCN: CS02895 tổng diện tích thửa 612 là 1.012,4 m
2
).
Nguồn gốc thửa 612 nêu trên là của vợ chồng anh nhận chuyển nhượng
của mẹ anh là bà Huỳnh Thị C2. Khi nhận chuyển nhượng thì đất của mẹ anh có
trụ ranh sẵn, anh sử dụng đất đúng trụ ranh mẹ anh giao đất, không có hàng rào
của ai xây giáp ranh với đất của mẹ anh.
Hàng rào của ông C, chị T (02 hộ khác nhau) xây trên đất năm nào anh
không rõ, anh chỉ nhớ cách nay khoảng 07 năm. Sau khi họ xây hàng rào xong
anh cũng không biết họ có lấn đất của anh hay không vì anh không biết chính
xác ranh đất của anh.
Năm 2023, anh tự thuê Công ty TNHH B- Chi nhánh T1 thực hiện đo vẽ
thửa đất 612 nêu trên thì anh mới biết đất anh bị ông C, chị T sử dụng lấn chiếm.
Do anh không biết đất bị lấn ranh nên anh không có gặp ông C, chị T để
bàn bạc hướng giải quyết về việc họ lấn đất của anh và cũng không ngăn cản
việc họ trồng cây lâu năm, xây dựng tài sản trên đất. Hiện tại, anh đang giữ bản
chính giấy chứng nhận QSDĐ của thửa 612 nêu trên tại gia đình, không thế chấp
cho tổ chức, cá nhân nào.
Nay anh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với ông C, chị T là yêu
cầu ông C, chị T tự xử lý, di dời các tài sản trên đất để trả lại đất lấn chiếm cho
anh như nêu trên, anh không đồng ý bồi thường giá trị tài sản gắn liền với đất
cho ông C, chị T.
Riêng đối với việc anh tranh chấp QSDĐ với chị M, anh đã tự nguyện
rút yêu cầu khởi kiện xong nên anh không trình bày gì thêm.
C tr Ông thừa nhận vị trí đất ông
sử dụng có giáp thửa đất 612 của anh Â. Ông xác định ông sử dụng đất của ông
nay hơn 40 năm, không ai tranh chấp. Ông xây dựng hàng rào và sử dụng đất
tranh chấp từ trước đến nay anh  cũng không ngăn cản. Phần đất anh  tranh
chấp thì ông đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 04/6/1998, số vào sổ
cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số 02728 QSDĐ/450804. Ngày 29/01/2024, Ủy
ban nhân dân huyện G đã ban hành Quyết định số 300/QĐ-UBND về việc thu
hồi Giấy chứng nhận QSDĐ của ông. Hiện tại, ông chưa được cấp lại giấy
chứng nhận QSDĐ do anh  đang tranh chấp đất với ông.
Ông không đồng ý trả đất theo yêu cầu của anh Â. Nếu Tòa xử buộc ông
trả đất cho anh  thì ông yêu cầu anh  bồi thường lại giá trị tài sản gắn liền với
đất cho ông theo giá Hội đồng định giá đã định.
N
Bà là vợ ông C nay hơn 40 năm, vợ chồng bà vẫn sử dụng đất ổn định không ai
tranh chấp. Nay bà có cùng ý kiến với ông C.
T trình bày: Chị thừa nhận
đất anh  giáp ranh đất của chị, đất chị đang sử dụng gồm 02 thửa là do chị mua
của bà C2 là mẹ của anh  02 lần và vợ chồng chị được cấp 02 giấy chứng nhận
QSDĐ như sau:
Mua lần 1: thửa đất số 513 diện tích 180,0 m
2
tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại
ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh do chị và chồng chị tên Đinh Văn C1 đứng
tên Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 29/9/2011, số vào sổ cấp GCN: CH01094
9(CN).
Mua lần 2: thửa số 611, diện tích 395,8 m
2
tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại ấp
B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh do chị và chồng chị tên Đinh Văn C1 đứng tên
Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 24/8/2016, số vào sổ cấp GCN: CS02896.
Phần đất anh  tranh chấp với chị giáp thửa 611 chị đang sử dụng. Sau
khi mua đất của bà C2 thì chị xây hàng rào, trồng cây lâu năm từ năm 2016 đến
nay không ai ngăn cản. Vợ chồng anh  cũng sinh sống cùng xã (khác ấp)
nhưng cũng không ngăn cản việc chị trồng cây, xây hàng rào trên đất. Nay chị
không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu của anh Â. Chị đang giữ bản chính giấy
chứng nhận QSDĐ của thửa 611 nêu trên tại gia đình, không thế chấp cho tổ
chức, cá nhân nào.
Nếu Tòa xử buộc chị trả đất cho anh  thì chị yêu cầu anh  bồi thường
lại giá trị tài sản gắn liền với đất cho chị theo giá Hội đồng định giá đã định.
C1
án: Anh là chồng của chị T. Anh có ý kiến như sau: Anh không đồng ý trả đất
cho anh  vì anh mua đất của bà C2 chiều ngang mặt đường 16m, nay đo
ra cũng 16m x dài 35m, anh không lấn đất anh Â. Khi anh mua đất thì bà Huỳnh
Thị C2 chỉ ranh đất cho anh cắm trụ hàng rào, hiện tại anh xây hàng rào đúng
ranh bà C2 cắm trước đây. Nay anh có cùng ý kiến như chị T.
H trình bày: Chị là vợ anh Â,
chị xác định anh  trình bày là đúng. Chị có cùng ý kiến như anh Â.
M t
Chị không lấn đất của anh Â, chị không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu của anh
Â.
C trình bày: Phần đất
anh  tranh chấp với ông C đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ ngày
04/6/1998, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số 02728 QSDĐ/450804.
Ngày 29/01/2024, Ủy ban nhân dân huyện G đã ban hành Quyết định số
300/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ của ông. Hiện tại, ông
C chưa được cấp lại giấy chứng nhận QSDĐ do anh  đang tranh chấp đất với
ông C. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ông C đã sử dụng đất tranh chấp ổn định, liên
tục nay hơn 40 năm. Việc ông C xây dựng hàng rào trên đất anh  cũng không
ngăn cản. Đề nghị, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 175 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, Điều 203 của Luật đất đai năm 2013 không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh  đối với ông C.
- Bản án dân sự sơ thẩm số 295/2024/DS-ST ngày 13 tháng 11 năm
2024, của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn
Hoàng  tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông Đoàn Văn C về việc
yêu cầu ông ông Đoàn Văn C di dời tài sản trả lại diện tích đất lấn chiếm 16,0m
2
(loại đất trồng cây lâu năm) thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hoàng  tranh chấp
quyền sử dụng đất đối với chị Đoàn Thị T về việc yêu cầu chị T di dời tài sản trả
lại diện tích đất lấn chiếm 46,2 m
2
+ 7,9 m
2
= 54,1m
2
(loại đất trồng cây lâu năm)
thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52.
Các phần đất tranh chấp tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 096432, số vào sổ cấp GCN:
CS 02895, ngày 24/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp cho anh
 và chị H đứng tên.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng  về việc yêu
cầu chị Huỳnh Thị M trả lại phần diện tích đất lấn chiếm ngang 02 m x dài 60m
thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện G,
tỉnh Tây Ninh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng
cáo của các đương sự.
- Yêu cầu kháng cáo: Ngày 15/11/2025, ông Nguyễn Hoàng  có đơn
kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân Tỉnh Tây Ninh sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Nguyễn Hoàng  giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu kháng cáo,
yêu cầu gia đình ông C, và chị T trả lại diện tích đã lấn chiếm theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia
phiên tòa:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã
thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định; các đương sự chấp hành đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
ông Nguyễn Hoàng Â, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện
Gò Dầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng  hợp lệ theo quy định tại các Điều
271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên thụ lý vụ án và xét xử theo thủ
tục phúc thẩm
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng  theo yêu cầu khởi kiện ông
Đoàn Văn C trả lại diện tích đất lấn chiếm là 16m
2
, yêu cầu chị Đoàn Thị T
(Con ông C) trả lại diện tích đất lấn chiếm 54m
2
, Tòa án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện, ông  kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, thấy rằng: Ông  nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của mẹ ruột ông là bà Huỳnh Thị C2 vào năm 2016,
ông  xác nhận tại phiên tòa phúc thẩm khi nhận chuyển nhượng đất của mẹ
ông, trên đất có trụ ranh bằng xi măng, đối với phần đất chị T đang sử dụng sát
ranh đất của ông Â, nguồn gốc là do sang nhượng của mẹ ông  vào năm 2011,
với diện tích ngang 6m x dài 36m, năm 2016 chị T sang nhượng tiếp của bà C2
(mẹ ông Â) một phần đất ngang 10m x dài 36m và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Cũng trong năm 2016, ông  nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ mẹ ruột là bà C2 hết diện tích đất còn lại, và ông  nhận diện tích
đất đúng theo trụ ranh có sẵn trên đất, sau khi bà C2 sang nhượng đất cho chị T..
Đối với diện tích đất ông Đoàn Văn C đang sử dụng, nguồn gốc là ông C
nhận chuyển nhượng cùng thời điểm với bà C2 nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất (vợ ông C và bà C2 là chị em ruột, hai chị em cùng nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất). Giữa gia đình ông C và bà C2 sử dụng đất giáp ranh
nhau ổn định nhiều năm, không có tranh chấp, đến năm 2011, chị T nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của bà C2 thì gia đình ông C không còn giáp ranh đất
với bà C2 nữa, gia đình ông C, chị T đã xây dựng hàng rào kiên cố quanh đất.
Năm 2016, ông  nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà C2 theo ranh
đất đã được cắm khi sang nhượng cho chị T, ông  không đo đạc lại diện tích
đất nhận chuyển nhượng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông  không xác định được chính xác vị trí diện
tích đất tranh chấp với ông C, chị T, cũng không cung cấp được chứng cứ nào
mới để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, cũng như yêu cầu kháng cáo của
mình. Do đó, không căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng Â, giữ
nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, phù hợp với đề
nghị không chấp nhận kháng cáo của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Tây Ninh tham gia phiên tòa.
[3] Về án phí phúc thẩm:
- Yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng  không được Tòa án chấp
nhận, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban Thường vụ Q, Â phải chịu 300.000 đồng án
phí phúc thẩm dân sự, ông  phải chịu 300.000đ án phí phúc thẩm dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều
29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng Â
2. Giữ nguyên bản án Dân sự sơ thẩm số 295 /2024/DSST ngày
13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 228, Điều 244, Điều 157, 165 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 166, 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166, 167
của Luật đất đai năm 2013; khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hoàng  tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông Đoàn Văn C về việc
yêu cầu ông Đoàn Văn C di dời tài sản trả lại diện tích đất lấn chiếm 16,0m
2
(loại đất trồng cây lâu năm) thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng  tranh chấp
quyền sử dụng đất đối với chị Đoàn Thị T về việc yêu cầu chị T di dời tài sản trả
lại diện tích đất lấn chiếm 46,2 m
2
+ 7,9 m
2
= 54,1m
2
(loại đất trồng cây lâu năm)
thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52.
Các phần đất tranh chấp tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tây Ninh
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 096432, số vào sổ cấp GCN:
CS 02895, ngày 24/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp cho anh
 và chị H đứng tên.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng  về việc yêu
cầu bà Huỳnh Thị M trả lại phần diện tích đất lấn chiếm ngang 02 m x dài 60m
thuộc một phần thửa đất số 612, tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện G,
tỉnh Tây Ninh.
3. Án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Hoàng  phải chịu 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng án phí
dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.250.000 đồng ông
 đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0025888 ngày
12/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, ông  được hoàn trả
lại số tiền 650.000 (sáu trăm năm mươi nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hoàng  phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án
phí 300.000 đồng ông  đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0000846 ngày 15/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu,
ông  đã nộp đủ án phí phúc thẩm dân sự.
4. Chi phí tố tụng khác: Ông Nguyễn Hoàng  phải chịu 27.900.000 (hai
mươi bảy triệu, chín trăm nghìn) đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản tranh chấp; ông  đã nộp và thanh toán xong.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 của Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND TTN;
- TAND H. Gò Dầu;
- Chi cục THADS H. Gò Dầu ;
- Phòng KTNV&THA. TATTN;
- Các đương sự trong vụ án;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu tập án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Bích Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Bản án số 270/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm