Bản án số 143/2024/DS-ST ngày 21/11/2024 của TAND Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 143/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 143/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 143/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 143/2024/DS-ST ngày 21/11/2024 của TAND Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Liên Chiểu (TAND TP. Đà Nẵng) |
Số hiệu: | 143/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lê Quý G yêu cầu chấm dứt hợp đồng đặt cọc với Trần Thúy Vân N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN LIÊN CHIỂU - TP. ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 143/2024/DS-ST
Ngày: 21 - 11 - 2024
V/v “Chấm dứt hợp đồng đặt cọc
và trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Dương Thị Thái
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Thanh Bình
Ông Nguyễn Văn Bình
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Tuyến - Thư ký Tòa án nhân dân quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu tham gia phiên tòa: Bà
Dương Thị Phương Dung - Kiểm sát viên.
Trong ngày 21 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
53/2024/TLST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2024 về "Tranh chấp chấm dứt hợp đồng
đặt cọc và trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2024/QĐXXST-
DS ngày 14 tháng 9 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 155/2024/QĐST-DS
ngày 28 tháng 9 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 156/2024/QĐST-DS ngày
24 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Quý G, sinh năm 1986 và bà Lê Thị Thanh L, sinh
năm 1993; cùng địa chỉ: xóm T, thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Ông G có
mặt, bà L vắng mặt
- Bị đơn: Bà Trần Thúy Vân N, sinh năm 1986; địa chỉ: K đường N, tổ B,
phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1988 và bà Nguyễn Thị Mỹ H1, sinh năm
1993; cùng địa chỉ: thôn H, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
2
2. Ông Nguyễn Huy P, sinh năm 1948; địa chỉ: K đường T, phường H, quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông Lê
Quý G và bà Lê Thị Thanh L trình bày:
Ngày 12 tháng 5 năm 2022, ông Lê Quý G và vợ là bà Lê Thị Thanh L lập
Giấy thỏa thuận mua bán nhà đất và đặt cọc với bà Trần Thúy Vân N, theo đó vợ
chồng ông G thỏa thuận chuyển nhượng cho bà N một phần nhà đất tại thôn H, xã
H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (phần nhà đất này vợ chồng ông G đứng
tên chung với ông Nguyễn Xuân H và bà Nguyễn Thị Mỹ H1 trong giấy chứng nhận)
giá chuyển nhượng là 900.000.000 đồng; bà N đã đặt cọc cho vợ chồng ông G số
tiền 100.000.000 đồng. Cũng theo hợp đồng, hai bên thỏa thuận: ngày 12/6/2022, vợ
chồng ông G không làm xong thủ tục tách thửa riêng phần diện tích của ông bà thì
sẽ giao hồ sơ cho bà N để bà N làm thủ tục, thời gian thực hiện đến tháng 9 năm
2022.
Do không thể thực hiện tách thửa được nên vợ chồng ông G đã nhờ ông
Nguyễn Xuân H giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022 cho bà N (về thời gian giao cụ thể là ngày
tháng nào thì nguyên đơn không nhớ). Tuy nhiên qua thời hạn cam kết thực hiện
việc tách thửa đất đã lâu nhưng bà N vẫn không thực hiện được thủ tục tách thửa,
không thanh toán số tiền còn lại cho vợ chồng ông G và cũng không trả lại bản chính
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông G dù ông bà đã nhiều lần yêu
cầu.
Nay, ông Lê Quý G và bà Lê Thị Thanh L yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt
thỏa thuận đặt cọc ngày 12/5/2022 giữa vợ chồng ông với bà Trần Thúy Vân N, buộc
bà N trả lại cho ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản gắn liền với đất số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố
Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022, đồng thời vợ chồng ông G sẽ hoàn trả cho bà N số
tiền đã nhận cọc là 100.000.000 đồng.
Đối với các yêu cầu bồi thường khi chấm dứt hợp đồng đặt cọc của bà Trần
Thúy Vân N thì nguyên đơn chỉ đồng ý hoàn trả khoản tiền chi phí do ông Nguyễn
Huy P bỏ ra để sửa chữa nhà là 28.855.000 đồng, không đồng ý với các khoản yêu
cầu khác.
* Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án bị đơn là bà Trần Thúy Vân N
trình bày:
3
Bà Trần Thúy Vân N thừa nhận vào ngày 12/5/2022, bà N và ông Lê Quý
G, bà Lê Thị Thanh L đã lập Giấy thỏa thuận mua bán nhà đất và đặt cọc, theo đó
vợ chồng ông G sẽ chuyển nhượng cho bà N nhà và đất tại thôn H, xã H, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng với giá 900.000.000 đồng; bà N đã đặt cọc cho vợ
chồng ông G số tiền 100.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận giao tài sản gắn liền
trên đất (nhà ở) cho bà N toàn quyền sử dụng, sửa chữa trong thời gian chờ làm
thủ tục tách thửa để chuyển nhượng, do vậy bà N và ông Nguyễn Huy P (là người
góp vốn với bà N) đã đứng ra sửa chữa căn nhà này. Sau khi các bên đặt cọc, do
vợ chồng ông G tự ý đăng ký với cơ quan có thẩm quyền cập nhật thông tin phần
nhà ở nên khi bà N liên hệ với các cơ quan chức năng thì đều được trả lời miệng
là không đủ điều kiện tách thửa. Bà N cũng đã đề nghị vợ chồng ông G đến văn
phòng công chứng sang tên cho bà N nhà đất trên đây (bà N sẽ đứng tên chung với
vợ chồng ông H trong giấy chứng nhận) và bà N sẽ giao cho vợ chồng ông G 80%
giá trị chuyển nhượng như đã thỏa thuận tại Giấy thỏa thuận mua bán nhà đất và
đặt cọc ngày 12/4/2022 nhưng vợ chồng ông G yêu cầu phải giao đủ 100% giá trị
hợp đồng nên các bên không thực hiện được việc giao dịch. Nay vợ chồng ông G
khởi kiện thì bà N đồng ý chấm dứt hợp đồng và trả lại cho nguyên đơn bản chính
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất
số DG248018 với điều kiện nguyên đơn trả lại cho bà N số tiền như sau: Tiền cọc
100.000.000đồng; tiền đã đưa cho người môi giới là 100.000.000 đồng; tiền sửa
chữa đầu tư do cá nhân bà N bỏ ra gồm: tiền công và vật tư: 5.000.000đồng, 1
camera: 3.500.000đồng, 1 tủ lạnh: 7.500.000đồng, 1 bình hoa năng lượng:
500.000đồng, 1 bếp ga mini và 4 bình ga: 1.000.000đồng, 2 gối, 1 bọc gối, ga nệm:
1.000.000đồng, gạo, đồ gia vị: 500.000đồng, 1 loa kẹo kéo: 10.000.000đồng, tiền
do ông Nguyễn Huy P bỏ ra sửa chữa nhà: 28.800.000đồng, tiền dịch vụ:
20.000.000đồng
- Người liên quan là ông Nguyễn Huy P trình bày:
Ông là người đã góp vốn với bà Trần Thúy Vân N để nhận chuyển nhượng
nhà và đất tại thôn H, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng của vợ chồng ông
Lê Quý G. Tuy nhiên việc đặt cọc, thỏa thuận chuyển nhượng ông thống nhất để cho
bà Trần Thúy Vân N toàn quyền giao dịch. Sau khi bà Trần Thúy Vân N đặt cọc cho
vợ chồng ông G, bà L thì ông P có đứng ra sửa chữa một số hạng mục tại ngôi nhà
ở địa chỉ: thôn H, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng với tổng chi phí sửa
chữa là 28.855.000 đồng (làm tròn thành 28.000.000đồng). Nay, ông G và bà L khởi
kiện yêu cầu Tòa án tuyên chấm dứt thỏa thuận mua bán nhà đất và đặt cọc ngày
12/5/2022 đồng thời buộc bà N trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường
4
thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022 thì ông đề nghị ông G và bà Liên hoàn T
cho ông số tiền ông đã bỏ ra để sửa chữa nhà là 28.000.000 đồng. Còn việc góp vốn
giữa ông và bà N để nhận chuyển nhượng nhà đất của vợ chồng ông G, ông đã khởi
kiện và được giải quyết bằng một vụ án khác.
- Người liên quan là ông Nguyễn Xuân H và bà Nguyễn Thị Mỹ H1 trình
bày:
Vào khoảng tháng 8 năm 2017, ông Nguyễn Xuân H và vợ là bà Nguyễn Thị
Mỹ H1 có chung tiền với ông Lê Quý G và vợ là bà Lê Thị Thanh L để mua một
mảnh đất tại tổ G, thôn H, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, sau đó các
bên đã xây dựng hai ngôi nhà trên mảnh đất này. Vào khoảng tháng 10 năm 2019
thì tiến hành xin tách thửa riêng nhưng do thiếu diện tích nên không được. Đến ngày
22/7/2022, thửa đất chung này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DG248018 trên cơ sở cập nhật
thêm thông tin phần diện tích nhà ở mà hai gia đình đã xây dựng.
Việc vợ chồng ông G chuyển nhượng phần diện tích thuộc quyền sở hữu cho
bà Trần Thúy Vân N ông bà không liên quan. Vào khoảng tháng 9 năm 2022, theo
yêu cầu của ông G thì ông H đã giao cho bà Trần Thúy Vân N bản gốc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DG248018
do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022. Nay vợ
chồng ông G khởi kiện đối với bà N thì ông bà đề nghị giải quyết theo quy định của
pháp luật.
* Tại văn bản số 3578/CNHV-TTLT ngày 23/8/2024, Chi nhánh văn phòng
đất đai cung cấp nội dung: Qua kiểm tra thông tin trên phần mềm Vilis 2.0 Enterprise
phục vụ cho việc đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và phần mềm quản lý hồ sơ quét và file quản
lý tiếp nhận thì thửa đất số 1481, tờ bản đồ số 24 Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CH 622093 đã được cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG
248018, thửa đất số 139, tờ bản đồ số 138 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022 đứng tên ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L, ông
Nguyễn Xuân H, bà Nguyễn Thị Mỹ H1. Hiện nay thửa đất nêu trên chưa lập thủ
tục tách thửa tại Chi nhánh Hòa Vang.
* Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo
pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình
giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện
đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án chưa chấp hành đầy đủ các quy định của
5
pháp luật tố tụng. Về nội dung giải quyết của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ Điều 117, 122, 124, 131, 328, 385, 401, 407, 408, 422, 423, 425, 427 của Bộ luật
dân sự để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu của người
liên quan là ông Nguyễn Huy P. Đối với ý kiến của bị đơn thuộc yêu cầu phản tố
nhưng bị đơn không thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng nên không
có đủ căn cứ để xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố “Chấm dứt hợp đồng đặt cọc và trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” quy
định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại phường
H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu theo khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39
Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Xuân H, bà
Nguyễn Thị Mỹ H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai
nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn là bà Lê Thị Thanh L vắng mặt và
có đơn xin giải quyết vắng mặt nên căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà
án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
* Về nội dung:
[1] Xét yêu cầu của ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L về việc tuyên bố chấm
dứt hợp đồng đặt cọc thì thấy:
Cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận vào ngày 12 tháng 5 năm 2022, ông
Lê Quý G và vợ là bà Lê Thị Thanh L đã lập Giấy thỏa thuận mua bán nhà đất và
đặt cọc để chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất tại thửa đất số 139, tờ bản
đồ số 138, địa chỉ thôn H, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và tài sản gắn
liền với đất là nhà cấp 4 cho bà Trần Thúy Vân N với giá chuyển nhượng là
900.000.000 đồng, bà N đã đặt cọc cho vợ chồng ông G số tiền 100.000.000 đồng.
Do phần diện tích chuyển nhượng nằm trong thửa đất chung với vợ chồng ông
Nguyễn Xuân H nên vợ chồng ông G và bà N thống nhất làm thủ tục tách thửa xong
mới chuyển nhượng. Các bên cũng thỏa thuận đến ngày 12/6/2022, vợ chồng ông G
không làm xong thủ tục tách thửa thì sẽ giao hồ sơ cho bà N để bà N làm thủ tục,
6
trường hợp không thể tách thì bà N sẽ giao cho vợ chồng ông G 80% số tiền chuyển
nhượng. Do không làm thủ tục tách thửa được nên sau đó vợ chồng ông G đã giao
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 22/7/2022 cho bà N thực hiện như cam kết.
Tuy nhiên, tại phiên tòa cả nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận hiện tại phần
diện tích chuyển nhượng không đủ điều kiện tách thửa, bị đơn không đồng ý giao đủ
cho nguyên đơn 80% giá trị hợp đồng như các bên đã thỏa thuận tại Giấy thỏa thuận
mua bán nhà đất và đặt cọc lập ngày 12 tháng 5 năm 2022. Do vậy yêu cầu chấm
dứt hợp đồng đặt cọc và giao dịch chuyển nhượng của nguyên đơn là có căn cứ, phù
hợp các quy định tại khoản 4 Điểu 422, Điều 424 Bộ luật dân sự cần được chấp nhận.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bà Trần Thúy Vân N trả lại cho
nguyên đơn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 22/7/2022 thì thấy:
Căn cứ các tài liệu và lời khai của các bên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở
để xác định hiện bị đơn đang giữ của nguyên đơn bản chính Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DG248018 do Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 22/7/2022 nên khi tuyên bố
chấm dứt hợp đồng cọc và thỏa thuận mua bán thì cần buộc bị đơn trả lại giấy chứng
nhận cho nguyên đơn.
Yêu cầu chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng giữa các bên thuộc trường hợp hợp đồng
không có khả năng thực hiện (diện tích chyển nhượng không đủ điều kiện tách thửa)
nên việc nguyên đơn tự nguyện hoàn trả cho bị đơn số tiền đã nhận cọc 100.000.000
đồng hoàn toàn phù hợp điều 425, 427 Bộ luật dân sự cần chấp nhận.
[3] Đối với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Huy P về việc yêu cầu nguyên đơn
bồi thường số tiền sửa chữa nhà là 28.000.000đồng:
Xét thấy quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn và ông
P đều thống nhất xác định sau khi bà Trần Thúy Vân N được giao quản lý sử dụng
nhà đất tại thửa đất số 139, tờ bản đồ số 138, địa chỉ thôn H, xã H, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng thì ông P đã bỏ ra số tiền 28.000.000 đồng (đã làm tròn) để sửa
chữa nhà và nguyên đơn cũng tự nguyện hoàn trả số tiền này cho ông Nguyễn Huy
P nên cần ghi nhận.
[4] Đối với yêu cầu bồi thường của bị đơn Trần Thúy Vân N khi tuyên bố chấm
dứt hợp đồng đặt cọc giữa vợ chồng ông G và bà N: trong quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án đã hướng dẫn bà N làm thủ tục phản tố nhưng bà N không thực hiện nên

7
Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét yêu cầu của bà N trong vụ án này, nếu
có căn cứ bà N có thể khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.
[5] Xét ý kiến đề nghị tại phiên tòa của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận
Liên Chiểu cơ bản phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm đối với số tiền phải trả cho bà Trần Thúy Vân N và ông Nguyễn Huy P, số tiền
án phí cụ thể phải chịu được xác định như sau: (100.000.000đồng + 28.000.000đồng)
x 5% = 6.400.000đồng
Bà Trần Thúy Vân N phải chịu án đối với yêu cầu tuyên chấm dứt hợp đồng
đặt cọc với mức án phí 300.000đồng
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 227, 235, 244, 266, 271 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 328, khoản 4 Điều 422, khoản 1 Điều 424, Điều 425, 427, 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L đối với
bà Trần Thúy Vân N.
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng đặt cọc theo Giấy thỏa thuận mua bán nhà đất và
đặt cọc lập ngày 12 tháng 5 năm 2022 giữa ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L và bà
Trần Thúy Vân N.
Buộc bà Trần Thúy Vân N trả lại cho ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L một
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất
số DG248018 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày
22/7/2022 đứng tên ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L, ông Nguyễn Xuân H, bà
Nguyễn Thị Mỹ H1.
Ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Trần Thúy Vân
N số tiền đã nhận cọc là 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng).
2. Ông Lê Quý G, bà Lê Thị Thanh L có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn
Huy P số tiền sửa chữa nhà là 28.000.000đồng (Hai mươi tám triệu đồng).
8
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Quý G và bà Trần Thị Thanh L1 phải chịu
án phí 6.400.000đồng (Sáu triệu, bốn trăm ngàn đồng). Bà Trần Thúy Vân N phải
chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng).
4. Ông Lê Quý G, bà Trần Thúy Vân N, ông Nguyễn Huy P có mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bà
Lê Thị Thanh L, ông Nguyễn Xuân H, bà Nguyễn Thị Mỹ H1 vắng mặt tại phiên tòa
có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ
ngày bản án được niêm yết.
5. Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ thi hành án, người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành thì phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng
phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất
thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Người tham gia tố tụng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND quận Liên Chiểu;
- Chi cục THADS quận Liên Chiểu;
- Lưu Hồ sơ vụ án.
DƯƠNG THỊ THÁI
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm