Bản án số 134/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 134/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 134/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 134/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị S. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 45/2024/DSST ngáy01/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 134/2025/DS-PT
Ngày 08-4-2025
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bằng.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng và bà Nguyễn Thị Nhung
- Thư phiên tòa: Lê Nguyệt Ánh, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Thị Bích Thủy -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 147/2025/TLPT-DS ngày
26/02/202 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án số
45/2024/DS-ST, ngày 01/112024 của Tòa án nhân dân huyện Krông k, tỉnh
Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
187/2025/QĐ-PT ngày 24/3/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị S, ông Nguyễn T; Địa chỉ: Buôn C, E,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
2. Bị đơn: Thị S1; Địa chỉ: Thôn K, C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
(Có mặt)
3. Người quyền lợi, nghĩa vliên quan: Nguyễn Thị K; Địa chỉ:
Thôn K, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)
Nhân chứng: Nguyễn Thị Mỹ H; Địa chỉ: Thôn K, C, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk. (Vắng mặt)
* Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thị S1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị S trình bày:
Quá trình quen biết nên ngày 05/11/2020 bà Lê Thị S1, con gái bà S1 chị
Nguyễn Thị MHuyền Nguyễn ThK họ hàng với S1 vay của vợ
chồng tôi số tiền 116.000.000 đồng, lãi suất hai bên thoả thuận theo lãi suất
1,5%/tháng, thời hạn vay đến ngày 25/11/2020 trả đủ cả gốc lãi. Hai bên
lập Hợp đồng vay tiền tại nvợ chồng tôi. Tuy nhiên đến ngày 11/12/2020 họ
mới chỉ trả cho vợ chồng tôi được 30.000.000 đồng; số tiền còn lại là 86.000.000
đồng đến nay vẫn không trả cho vợ chồng tôi, mặc vợ chồng tôi đã nhiều lần
2
hỏi. Nay vợ chồng tôi làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc Thị
S1, chị Nguyễn Thị M H và bà Nguyễn Thị K liên đới trả cho vợ chồng tôi tổng
số tiền 141.470.000 đồng; trong đó: Nợ gốc là 86.000.000 đồng, nợ lãi là
86.000.000 đồng x 1,5%/tháng x 43 tháng (tính từ ngày 05/11/2020 đến ngày
05/6/2024) = 55.470.000 đồng và tiếp tục tính lãi cho đến khi trả nợ xong.
* Bị đơn bà Lê Thị S1 trình bày:
Trước đây tôi không quan hệ quen biết với S; do cần tiền để cho con
tôi đi N làm việc nên tôi nhờ chị Nguyễn Thị K là chị dâu của tôi đi vay tiền
giúp tôi. Chị K quen Nguyễn Thị S và ông Nguyễn T nên hỏi vay tiền
của S, ông T cho tôi. Tôi vay 02 khoản, một khoản vào tháng 3/2020
15.000.000 đồng một khoản vào tháng 4/2020 100.000.000 đồng, ngày thì
tôi không nhớ. Tại nhà chị K, khi đó tôi, chị K S thì S đưa tiền
cho tôi 100.000.000 đồng; khi đó chúng tôi không giấy t gì. S lấy
3000đồng/ngày/1triệu. Cứ đến tháng tôi trả cho S 9.000.000 đồng tiền lãi
một phần tiền gốc, tôi không nhớ trả bao nhiêu tiền gốc. Tôi trả trực tiếp cho
S ông T. Giấy Hợp đồng vay tiền S cung cấp cho Tán thì tôi
không nhớ tôi ký khi nào, tôi công nhận là chữ Thị S1 của tôi, khi tôi
cả chị K và con tôi cháu H đó nên S nói vào để làm chứng. Khi
tôi thì tôi chỉ biết nội dung bên trên giấy ghi hai bên thoả thuận đã vay
115.000.000 đồng, trả nhiều lần còn lại 85.700.000 đồng tiền gốc chưa trả được.
Cuối năm 2020 bà S ra nhà tôi đòi nợ thì tôi có trả cho bà S 43.000.000 đồng, tôi
người trực tiếp đưa cho S. Tôi xin S bớt lại 700.000 đồng; số nợ còn
lại là 42.000.000 đồng tôi xin khất lại và xin tính lãi suất theo ngân hàng. Sau đó,
do tôi không tiền trả nên bà S nói “tao đưa tiền cho đứa nào thì tao đòi đứa
đó”, nên S đòi chị K không vào nha tôi nữa. Cho đến nay tôi mới được
thông báo Sáu kiện tôi thì tôi hỏi chị K, chị K nói chị K đã trả nợ xong
cho S rồi. vậy, nay S kiện thì tôi không đồng ý tôi chị K đã trả
xong nợ cho bà S rồi.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K trình bày:
Tôi chị dâu của S1. Tôi làm chứng vào hợp đồng vay tiền ngày
05/11/2020 của S, ông T S1. Sau đó, S1 đã trả được một phần số nợ
cho ông T, S; còn nợ lại số tiền 42.000.000 đồng, S ra đòi nợ chửi bới;
cuối cùng S1 không khả năng trả nợ cho S, ông T. Nên tôi đứng ra trả
nợ cho S1 số tiền 42.000.000 đồng. Sau đó, tôi có vào tính nợ với ông T, bà S
thì ông tính thành 54.000.000 đồng cả gốc lãi nên tôi đã trả đủ số tiền
54.000.000 đồng cho S. vậy, S1 không còn nợ bất kỳ khoản tiền nào
của S, ông T. Khi tôi trả 54.000.000 đồng cho S thì chúng tôi không
giấy tờ trả với nhau mà chỉ đưa tay trực tiếp
Nhân chứng chị Nguyễn Thị Mỹ H đã được tòa án triệu tập hợp lệ tham gia
tố tụng tại Tòa án nhưng không tham gia nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai
được.
Tại Bản án dân sự thẩm số 45/2024/DSST ngày 01/11/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
3
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 144, Điều 147, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Điều 288, khoản 2 Điều 357, Điều 463, khoản 1, khoản 5 Điều 466,
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn T,
Nguyễn Thị S.
Buộc bị đơn Thị S1 phải trả cho ông Nguyễn T, Nguyễn Thị S
tổng số 120.580.000 đồng; Trong đó: N gốc 86.000.000 đồng, nợ lãi
34.580.000 đồng (lãi suất 10%/năm, tính đến ngày 01/11/2024).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng cáo
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, Bị đơn Lê Thị S1 đơn kháng cáo với nội
dung, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn Thị S1 giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ
vụ án và tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát cho rằng kháng cáo của
bị đơn ThS1 không căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự Không chấp nhận đơn kháng cáo của
Thị S1; Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 45/2024/DSST ngày
01/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu
chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật định và đã nộp
tạm ứng án phí phúc thẩm nên xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Thị S1; Hội đồng
xét xử nhận thấy:
Trong hợp đồng vay tiền đề ngày 05/11/2020 bà Thị S1 vay của ông
T, S số tiền 116.000.000 đồng, thời hạn thanh toán đến ngày 25/11/2020, sẽ
thánh toán đầy đủ cho khoản tiền vay trên.Lê Thị S1 thừa nhận có vay khoản
4
tiền trên và bà Lê Thị S1 khẳng định chữ ký trong Hợp đồng vay tiền là do bà S1
nhận (bl số 18). Như vậy, đây hợp đồng vay tài sản kỳ hạn, lãi suất.
Về nghĩa vụ trã nợ nguyên đơn ông T, sáu thừa nhận ngày 11/12/2020, S1 trả
gốc 30.000.000 đồng gốc còn lại 86 triệu về phía bị đơn bà S1 cũng thừa nhận số
tiền 30.000.000 đồng gốc đã trã cho nguyên đơn ông T, bà S (bl số 18).
[2.1] Bị đơn Thị S1, kháng cáo cho rằng số tiền còn lại 86.000.000
đồng bị đơn S1 đã thanh toán cho cho nguyên đơn ông T, bà S 02 lần:
- Lần 1 vào cuối năm 2020 bà S1 có trả cho bà S 43.000.000 đồng và có xin
S bớt lại 700.000 đồng, số ncòn lại 42.000.000 đồng khất lại xin tính
lãi suất theo ngân hàng; tuy nhiên ông T, S không thừa nhận việc bà S1 trả số
tiền này và bà S1 cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc đã trả số
tiền 43.000.000 đồng.
- Lần 2 Nguyễn Thị K chị dâu của bị đơn bà S1 đã trã cho nguyên
đơn ông T, S số tiền 54.000.000 đồng gồm 42.000.0000 đồng tiền gốc lãi.
Theo K khi trả tiền hai bên không ký giấy tờ trả với nhau chỉ đưa tay trực
tiếp. Tuy nhiên ông T, S không thừa nhận việc đã nhận số tiền 54.000.000
đồng từ K K, S cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh
việc đã đưa số tiền còn lại 54.000.000 đồng cho ông T, S để trả nợ thay cho
S1. Tòa án cấp thẩm không chấp nhận việc bị đơn Thị S1 đã trã số
tiền còn lại 86.000.000 đồng cho nguyên đơn ông T, bà S là có căn cứ.
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Thị S1, không chấp nhận về
khoản nợ lãi thấy:
Nguyên đơn, bà S2, ông T xác cho rằng bị đơn, bà S1 chưa trả bất kỳ khoản
lãi nào, còn bị đơn S1 cho rằng cứ đến tháng bị đơn đã trả cho nguyên đơn
9.000.000 đồng tiền lãi và một phần tiền gốc, không nhớ là trả bao nhiêu tiền gốc
thấy. Trong quá trình giải quyết vụ án được thể hiện tại mục [2.1] phần trên
thấy rằng, bị đơn bà S1 chỉ lời trình bày để thể hiện bị đơn đã thanh toán cho
nguyên đơn cả tiền gốc tiền lãi, tuy nhiên bị đơn S1 không xuất trình được
chứng cứ đchứng minh, nguyên đơn cũng không thừa nhận nên không căn
cứ xác định bị đơn đã trả cho nguyên đơn khoản tiền lãi nào. Toà án cấp sơ thẩm
tuyên buộc bị đơn phải trả lãi cho nguyên đơn kể từ ngày vay đến ngày xét xử sơ
thẩm 01/11/2024 là đúng quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS. Nên không
căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bị đơn Lê Thị S1.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, Tòa cấp sơ thẩm, tính ngày mà bị đơn
S1 tlãi không phù hợp với thực tế, nên Tòa án cấp phúc thẩm tính lại cho
cho phù hợp, cụ thể được tính như sau:
Lấy 116.000.000 đồng tiền gốc x 10%/năm x 01 tháng 07 ngày (tính t
ngày 05/11/2020 đến ngày 11/12/2020) = 1.176.000 đồng (làm tròn)
Lấy 86.000.000 Đồng x 10%/năm x 03 năm 10 tháng 19 ngày (yinhs từ
ngày 12/12/2020 đến ngày 01/11/2024) = 33.415.000 đồng
Tổng số nợ lãi là: 1.176.000 đồng + 33.415.000 đồng = 34.591.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền nợ gốc và lãi cn buc S1 phải trả cho ông T, S
tính đến ngày xét xử 01/11/2024 là: 86.000.000 đồng + 34.591.000 đồng =
5
120.591.000 đồng. Tuy phải sửa về khoản tiền lãi xuất lại làm bất lợi cho bị
đơn là người kháng cáo nên cần phải giữ nguyên bản án dân s thẩm số
45/2024/DSST ngày 01/11/2024 của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Từ những nhận định nêu trên không căn cứ đchấp nhận yêu cầu kháng
cáo của bị đơn Thị S1. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số
45/2024/DSST ngày 01/11/2024 của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm:
Tòa cấp sơ thẩm tuyên bà S1 phải chịu số tiền 6.029.000 đồng án phí dân sự
thẩm. Tuy nhiên sau khi tính lại thì tổng số tiền bị đơn phải trả cho nguyên
đơn là 120.591.000 đồng, như vậy bị đơn phải chịu 6.029.550 đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
Về án phí phúc thẩm: Bị đơn Thi S3 phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng Thị S1 đã nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai 0012336, ngày 20/11/2024 tại Cục
thi hành án dân sự huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Thị S1. Giữ nguyên bán án
dân sự thẩm số 45/2024/DSST ngày 01/11/2024 của TAND huyện Krông
Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Điều 288, khoản 2 Điều 357, Điều 463, khoản 1, khoản 5 Điều 466, khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015. Điều 12, Khoản 2 Điều 26, Điều 29 Nghị quyết
số 326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Toà án.
[2] Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn T và bà Nguyễn Thị S.
Buộc bị đơn bà Lê Thị S1 phải trả cho ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị S với
tổng số 120.591.000 đồng; Trong đó: N gốc 86.000.000 đồng, nợ lãi
34.591.000 đồng.
“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự”.
3. Về án phí dân sư sơ thẩm và phúc thẩm:
Bị đơn bà Thị S1 phải chịu 6.029.550 đồng án phí dân sự thẩm
300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng
Thị S1 đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai 0012336, ngày
20/11/2024 tại Cục thi hành án dân sự huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
6
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6, Điều 7
Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND h.Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk;
- Chi cục THADS h. Krông Búk,
tỉnh Đắk Lắk;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Văn Bằng
Tải về
Bản án số 134/2025/DS-PT Bản án số 134/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 134/2025/DS-PT Bản án số 134/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất