Bản án số 123/2020/DS-PT ngày 25/05/2020 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 123/2020/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 123/2020/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 123/2020/DS-PT ngày 25/05/2020 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 123/2020/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về giấy ủy quyền cho tài sản là nhà, đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
______________________________
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc
___________________________________
Bản án số: 123/2020/DS-PT
Ngày: 25-5-2020
V/v: Tranh chấp về giấy ủy quyền cho tài
sản là nhà, đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm Phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Khoa
Các thẩm phán: Ông Đặng Văn Ý
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Đỗ Hồng Quân, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Vũ Thanh Sơn, Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số
38/2019/TLPT-DS ngày 16 tháng 01 năm 2019, về việc “Tranh chấp về giấy ủy
quyền cho tài sản là nhà, đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2017
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 458/2020/QĐPT-DS
ngày 23 tháng 4 năm 2020; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Thị N.X; Địa chỉ cư trú: 2/16, khu phố T.L, phường
D.A, thị xã D.A, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Thái Th.H; Địa chỉ
thường trú: tổ 2, khu phố 1, phường U.H, thị xã T.U, tỉnh Bình Dương; Địa chỉ
liên lạc: 069/A, tổ 3, khu phố 2, phường U.H, thị xã T.U, tỉnh Bình Dương (Văn
bản ủy quyền số 9686 quyển số 06/2017 -SCT/CK,CD ngày 27/10/2017 tại
UBND phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt).
- Bị đơn: Bà Võ Thị Th.T; Địa chỉ cư trú: 3/13 Cô Bắc, khu phố B.M,
phường D.A, thị xã D.A, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Th.A; Quốc tịch: Pháp; Địa chỉ cư trú: 11, Rue Chabanaise,
Thành phố Paris, Cộng hòa Pháp.
2
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Th.A: Bà Trần Thị K.Ph; Địa chỉ
cư trú: 30/21, khu phố Th.L, phường D.A, thị xã D.A, tỉnh Bình Dương (văn bản
ủy quyền ngày 10/7/2014, vắng mặt).
2/ Bà Võ Thị B.Y; Địa chỉ cư trú: 3164, Baton Rouge, LA 7801, USA
(vắng mặt).
3/ Ông Võ Th.L; Địa chỉ cư trú: 214/10, ấp Ph.L, xã T.P.Th, huyện C.T,
tỉnh Hậu Giang (vắng mặt).
4/ Bà Võ Thị B.Ph (vắng mặt).
5/ Ông Nguyễn V.T (có đơn xin vắng mặt).
6/ Ông Nguyễn A.Th (vắng mặt).
7/ Bà Phan B.N (có đơn xin vắng mặt).
8/ Cháu Nguyễn Phan B.N (vắng mặt).
9/ Cháu Nguyễn Phan H.M (vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: 18 Cô Bắc, khu phố B.M, phường D.A, thị xã D.A,
tỉnh Bình Dương.
10/ Bà Nguyễn Th.Tr; Quốc tịch: Việt Nam; Địa chỉ cư trú: Paris, Cộng
Hoà Pháp (vắng mặt).
11/ Ông Võ A.T; Địa chỉ cư trú: Paris, Cộng Hoà Pháp (vắng mặt).
12/ Bà Võ Th.T; Địa chỉ cư trú: Hoa Kỳ (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Tuấn và bà Tâm: Ông Võ Th.L; Địa chỉ
cư trú: 214/10, ấp Ph.L, xã T.P.Th, huyện C.T, tỉnh Hậu Giang (văn bản ủy
quyền ngày 06/10/2014, vắng mặt).
13/ Ông Võ V.Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Địa chỉ cư trú: 2164, Blank Road
Boton Rouge LA, 70805, USA (vắng mặt).
14/ Bà Võ Thị Thanh Th (đã chết)
Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Võ Thị Thanh Th:
14.1/ Ông Nguyễn N.C (chồng bà Th); Địa chỉ cư trú: 16B N.H, khu phố
Chợ, phường L.T, thị xã T.A, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
14.2/ Ông Nguyễn Võ Ph.D (con bà Th); Địa chỉ cư trú: 1443 MC
Micheal Dr Baton Rouge LA 70815, Hoa Kỳ (vắng mặt).
15/ Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; Địa chỉ
trụ sở: Khu trung tâm hành chính thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã Dĩ An: Ông Trương C.H; Chức vụ: phó Chi cục trưởng (văn bản ủy quyền
ngày 26/02/2016, có đơn xin vắng mặt).
16/ Bà Nguyễn Thị Ng.Th; Địa chỉ cư trú: 5C/23, khu phố B.M, phường
D.A, thị xã D.A, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).
3
Người đại diện hợp pháp của bà Th: Ông Ngô Nh; Địa chỉ cư trú: 14/9,
Đường số 14, khu phố 2, phường H.B.C, quận T.Đ, Thành phố Hồ Chí Minh
(văn bản ủy quyền ngày 14/3/2016, có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ng.Th là người có quyền lợii, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình
Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2014 và bản tự khai, biên bản hòa giải
trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Võ Thị N.X trình bày:
Về quan hệ nhân thân: Cha mẹ bà X là ông Võ V.L (sinh năm 1910, chết
năm 1990) và bà Nguyễn Th.H (sinh năm 1918, chết năm 2003). Ông L và bà H
có những người con sau: bà Võ Thị B.Y, ông Võ Th.L, bà Võ Thị B.Ph, ông Võ
V.Đ, bà Võ Thị N.X; bà Võ Thị Thanh Th (đã chết) người thừa kế quyền và
nghĩa vụ của bà Thiệt là chồng ông Nguyễn N.C và con là ông Nguyễn Võ
Ph.D. Ngoài ra bà H còn có một người con riêng là bà Nguyễn Th.A. Tổng cộng
có 08 người, trong đó: có 07 con chung và một người con riêng cng mẹ khác
cha.
Tài sản tranh chấp là đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại số 18 (số cũ
3/13) đường Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh
Bình Dương. Đo đạc thực tế diện tích đất: 204,3m
2
gắn liền diện tích xây dựng
nhà cấp 4: diện tích xây dựng 61m
2
do ông Loài và bà H xây dựng vào năm
1965. Nguồn gốc tài sản là do ông bà ngoại sử dụng trước năm 1965, khi đó trên
đất là nhà tranh, vách đất. Sau năm 1965, cha mẹ bà X là ông Võ V.L và bà
Nguyễn Th.H xây cất lại nhà để bà ngoại và các anh chị em trong gia đình sinh
sống. Tài sản về nhà đất đến nay chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà.
Năm 1983 bà Nguyễn Th.A đi Pháp để tìm cha ruột của mình, nhà và đất
do bà Nguyễn Thị H, bà Võ Thị Th.T và bà Võ Thị B.Ph quản lý sử dụng.
Năm 1980 bà Võ Thị Th.T có chồng và ở tại gia đình nhà chồng, chỉ còn
gia đình ông Võ Th.L và gia đình bà Võ Thị B.Ph ở ngôi nhà này để chăm sóc
cho mẹ bà Nguyễn Thị H.
Năm 2003, bà H chết không để lại di chúc, gia đình ông L đi làm ăn xa
nên chỉ có gia đình bà Ph ở trên đất quản lý, thờ cúng ông bà, kê khai nộp thuế
nhà đất.
Ngày 12/6/2013, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An mời anh chị em
bà X đến làm việc về việc thực hiện Quyết định số 51/QĐ-CCTHA của Chi cục
Thi hành án. Tại Biên bản kê biên, xử lý tài sản của Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã Dĩ An cho rằng tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13) đường
Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương là
tài sản của cá nhân bà Võ Thị Th.T và sẽ bị cưỡng chế thi hành cho cá nhân bà
4
Võ Thị Th.T theo Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2012/DS-ST ngày 02/7/2012 của
Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An và Bản án dân sự phúc thẩm số 295/2012/DS-PT
ngày 07/12/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Bà X cho rằng đất có nguồn gốc từ đất của ông bà cha mẹ chết để lại chứ
không phải là đất của cá nhân bà Nguyễn Th.A nên năm 1983 bà A đi Pháp có
làm giấy ủy quyền cho bà T là không đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, bà X
khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết các vấn đề sau:
Hủy giấy ủy quyền ngày 31/01/1983 của bà Nguyễn Th.A cho bà Võ Thị Th.T
và yêu cầu Tòa án trả diện tích đất: 204,3m
2
gắn liền diện tích xây dựng nhà
61m
2
do ông Loài và bà H xây dựng vào năm 1965 tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13)
đường Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương là tài sản chung chưa chia.
Bị đơn bà Võ Thị Th.T trình bày:
Trước năm 1965, nhà và đất tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13) đường Cô Bắc,
khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương do cha mẹ
là ông Võ V.L và bà Nguyễn Th.H xây cất để bà ngoại là bà Nguyễn Thị C ở
cng với chị bà T là bà Nguyễn Th.A và gia đình bà A. Năm 1971, bà Nguyễn
Thị C (bà ngoại) mất, đến năm 1983 bà A xuất cảnh sang Pháp có lập một giấy
ủy quyền cho bà T được trọn quyền sở hữu vĩnh viễn căn nhà 34/2 tọa lạc tại ấp
Bình Minh, xã An Bình, huyện Thuận An, Sông Bé với lý do bà A là chủ hộ
khẩu trong gia đình, nhưng đến năm 2012 bà A mới gởi giấy ủy quyền về cho bà
T hợp thức hóa sửa chửa lại nhà. Bà T cho rằng tài sản trên là tài sản chung của
tất cả anh chị em chứ không phải tài sản của riêng bà. Vì vậy, bà T chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hủy bỏ giấy ủy quyền ngày 31/01/1983 do bà
Nguyễn Th.A lập và tài sản nhà đất trên thuộc quyền quản lý sử dụng và sở hữu
của ông L và Bà H (chết) chưa phân chia cho các đồng thừa kế.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Các ông bà Bà Nguyễn Th.A có người đại diện theo ủy quyền là bà Trần
Thị K.Ph, bà Võ Thị B.Ph, ông Nguyễn V.T, bà Phan B.N, ông Nguyễn N.C,
ông Nguyễn A.Th, ông Võ A.T, bà Võ Th.T, ông Võ Th.L thống nhất trình bày:
Nhà và đất có nguồn gốc là đất của ông bà, cha mẹ để lại cho tất cả các
anh chị em. Tài sản không phải là tài sản riêng của bà Nguyễn Th.A nên bà A
không có quyền ủy quyền cho bà Võ Thị Th.T. Bà T không phải là chủ sở hữu
riêng của các tài sản này nên việc Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An kê
biên tài sản và cưỡng chế thi hành án cho cá nhân bà Võ Thị Th.T là không đúng
quy định của pháp luật. Cho nên những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nói trên thống nhất yêu cầu hủy giấy ủy quyền của bà Nguyễn Th.A lập ngày
31/01/1983 như nguyên đơn trình bày.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan, gồm các ông bà Võ Thị B.Y, Võ
V.Đ, Nguyễn Th.Tr và Nguyễn Võ Ph.D đã được Tòa án tiến hành ủy thác tư
pháp hợp lệ lần hai cho cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ nhưng từ thời điểm
đó cho đến ngày xét xử sơ thẩm các ông bà này không có ý kiến trả lời.
5
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chi cục Thi hành án dân sự thị
xã Dĩ An có đơn xin xét xử vắng mặt và có văn bản trình bày:
Căn cứ Quyết định Thi hành án số 981/QĐ-CCTHA ngày 11/01/2013 và
Quyết định số 1308/QĐ-CCTHA ngày 22/02/2013 của Chi cục trưởng Chi cục
Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì bà Võ Thị Th.T và ông
Nguyễn T.Tr có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Ng.Th số tiền 2.400.000.000
đồng tiền tranh chấp hợp đồng đặt cọc và 80.000.000 tiền án phí theo quyết định
của Bản án số 43/2012/DS-ST ngày 02/7/2012 của TAND thị xã Dĩ An và Bản
án phúc thẩm số 295/2012/DS-PT ngày 07/12/2012 của TAND tỉnh Bình
Dương. Ông Tr, bà T không tự nguyện thi hành và tài sản đảm bảo không đủ để
trả nợ, qua xác minh được biết bà Võ Thị Th.T có nộp hồ sơ xin xác nhận Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13) đường Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường
Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Ủy ban nhân dân phường Dĩ An đã xác
nhận nguồn gốc đất là do bà Nguyễn Th.A là chị của bà T cho bà T vào năm
1983. Việc bà T đồng ý trả lại cho anh, chị, em toàn bộ khối tài sản đang tranh
chấp là nhằm trốn tranh nghĩa vụ thi hành án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập với nguyên
đơn, là bà Nguyễn Thị Ng.Th do ông Ngô Nh đại diện hợp pháp trình bày:
Đất và tài sản khác gắn liền với đất tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13) đường
Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương là
tài sản do bà Nguyễn Th.A lập giấy ủy quyền cho bà Võ Thị Th.T vào ngày
31/01/1983 nên tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Võ Thị Th.T. Theo Bản án số
43/2012/DS-ST ngày 02/7/2012 của TAND thị xã Dĩ An và Bản án phúc thẩm
số 295/2012/DS-PT ngày 07/12/2012 của TAND tỉnh Bình Dương thì ông
Nguyễn T.Tr và bà Võ Thị Th.T có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Ng.Th số
tiền 2.400.000.000 đồng (hai tỷ bốn trăm triệu đồng). Khi án có hiệu lực bà T,
ông Tr không tự nguyện thi hành án. Trong quá trình thi hành án thì Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã Dĩ An đã xác định bà Võ Thị Th.T đang làm thủ tục hợp
thức hóa căn nhà 3/13, đường Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị
xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An đã tiến
hành thủ tục kê biên tài sản để đảm bảo việc thi hành án. Gia đình bà T cố tình
kéo dài việc thi hành án bằng cách tạo tranh chấp và gửi đơn khởi kiện đến
TAND tỉnh Bình Dương.
Ông Ngô Nh yêu cầu Tòa án xử bác yêu cầu của bà Võ Thị N.X về việc
tranh chấp yêu cầu hủy bỏ giấy ủy quyền ngày 31/01/1983 do bà Nguyễn Th.A
lập cho bà Võ Thị Th.T nhà đất tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13) đường Cô Bắc, khu
phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2017
của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên xử như sau:
Căn cứ vào các Điều 215, 223, 425, 467, 468 và 637 Bộ luật Dân sự năm
2005;
6
Căn cứ vào các Điều 37, 104, 105, 152, 195, 196, 201, 220, 232, 235, 264,
266 và 267 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Căn cứ các khoản 2, 6 Điều 26 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị N.X
về việc “Tranh chấp về Giấy ủy quyền cho tài sản nhà, đất” đối với bị đơn bà Võ
Thị Th.T.
Hủy Giấy ủy quyền do bà Nguyễn Th.A lập ngày 31/01/1983 cho bà Võ
Thị Th.T được trọn quyền sở hữu căn nhà tọa lạc tại số 34/2 ấp Bình Minh, xã
An Bình, huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé; hiện nay số 18 (số cũ 3/13) đường Cô
Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2/ Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Ng.Th yêu cầu bác đơn khởi kiện của bà Võ Thị N.X.
3/ Tài sản chung diện tích đất 204,3m
2
gắn liền diện tích xây dựng nhà
61m
2
do ông L và bà H xây dựng vào năm 1965 tọa lạc tại số 18 (số cũ 3/13)
đường Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương chưa chia nếu có tranh chấp được giải quyết bằng một vụ án khác khi có
đơn khởi kiện của các đương sự.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về các chi phí tố tụng như ủy thác tư
pháp, định giá, về án phí, các quy định về thi hành án và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 01/8/2017, bà Nguyễn Thị Ng.Th là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Bà Th yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của
bà Võ Thị N.X, chấp nhận yêu cầu độc lập của bà. Lý do kháng cáo mà bà Th
đưa ra là: Bà Th là người có quyền yêu cầu thi hành án, bà Võ Thị Th.T và ông
Nguyễn T.Tr là người có nghĩa vụ thi hành án. Căn nhà và đất toạ lạc tại số 18
(số cũ 3/13) Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh
Bình Dương nguyên là căn nhà số 34/2 ấp Bình Minh, xã An Bình, huyện Thuận
An, tỉnh Sông Bé có nguồn gốc của ông Võ V.L, cho con gái là bà Nguyễn Th.A
từ năm 1966. Trước khi xuất cảnh định cư tại Pháp, bà Th.A đã tặng cho hợp
pháp căn nhà này cho bà Võ Thị Th.T. Việc bà X là em của bà T khởi kiện tranh
chấp căn nhà này chỉ nhằm mục đích giúp bà T trốn tránh nghĩa vụ thi hành án
đối với bà Th.
Ngày 04/8/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương
ban hành Quyết định kháng nghị số 24/QĐ/KNPT-P9, kháng nghị toàn bộ bản
án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà X, chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Th. Căn cứ
kháng nghị nêu ra là: Căn nhà và đất toạ lạc tại số 18 (số cũ 3/13) Cô Bắc, khu
7
phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương nguyên là căn
nhà số 34/2 ấp Bình Minh, xã An Bình, huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé có
nguồn gốc của cụ Võ V.L và cụ Nguyễn Th.H. Tại tờ khai nhà đất năm 1980, cụ
L xác định đã cho căn nhà này cho con gái là bà Nguyễn Th.A từ năm 1966.
Trước khi xuất cảnh định cư tại Pháp, bà Ẩn đã tặng cho căn nhà này cho bà Võ
Thị Th.T vào ngày 31/01/1983, có xác nhận của chính quyền các cấp. Do đó, bà
Th.A đã chấm dứt quyền sổ hữu của mình từ năm 1983 và bà T đã xác lập sở
hữu của mình đối với căn nhà này theo quy định tại các Điều 236, 239 Bộ luật
dân sự 2015.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu theo phía nguyên đơn vắng
mặt nên không thể hiện ý kiến.
Ông Ngô Nh là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập là bà Nguyễn Thị Ng.Th không thay đổi, bổ sung
đơn kháng cáo; giữ nguyên các căn cứ kháng cáo và yêu cầu kháng cáo ban đầu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa không thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, giữ nguyên
các căn cứ kháng nghị, yêu cầu kháng nghị mà Quyết định kháng nghị số
24/QĐ/KNPT-P9, ngày 04/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Dương đã nêu.
Trong phần tranh luận, ông Ngô Nh giữ nguyên các căn cứ kháng cáo,
yêu cầu kháng cáo như đơn kháng cáo của bà Th đã nêu và không trình bày gì
thêm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ng.Th và quyết định
kháng nghị số 24/QĐ/KNPT-P9, ngày 04/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương làm trong hạn luật định và hợp lệ nên đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận.
Về nội dung kháng cáo, kháng nghị: Căn nhà và đất toạ lạc tại số 18 (số
cũ 3/13) Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương nguyên là căn nhà số 34/2 ấp Bình Minh, xã An Bình, huyện Thuận An,
tỉnh Sông Bé có nguồn gốc của cụ Võ V.L và cụ Nguyễn Th.H. Tại tờ khai nhà
đất năm 1980, cụ L xác định đã cho căn nhà này cho con gái là bà Nguyễn Th.A
từ năm 1966. Trước khi xuất cảnh định cư tại Pháp, bà Th.A đã tặng cho căn nhà
này cho bà Võ Thị Th.T vào ngày 31/01/1983, có xác nhận của chính quyền các
cấp. Do đó, bà Ẩn đã chấm dứt quyền sổ hữu của mình từ năm 1983 và bà T đã
xác lập sở hữu của mình đối với căn nhà này. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà X, không chấp nhận yêu cầu của bà Th là không đúng pháp
luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Th. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
8
nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương và
kháng cáo của bà Th, sửa bản án sơ thẩm theo nhận định nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị: Đơn
kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ng.Th và Quyết định kháng nghị số
24/QĐ/KNPT-P9, ngày 04/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Dương làm trong hạn luật định và hợp lệ nên đủ điều kiện để thụ lý và xét
xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung kháng cáo, kháng nghị:
[2.1] Tất cả các đương sự đều thừa nhận, căn nhà và đất toạ lạc tại số 18
(số cũ 3/13) Cô Bắc, khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh
Bình Dương nguyên là căn nhà số 34/2 ấp Bình Minh, xã An Bình, huyện Thuận
An, tỉnh Sông Bé có nguồn gốc của cụ Võ V.L (sinh năm 1910, chết năm 1990)
và cụ Nguyễn Th.H (sinh năm 1918, chết năm 2003) tạo lập. Đây là tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
[2.2] Tại “Tờ khai nhà” lập ngày 10/7/1980, có xác nhận của chính quyền
địa phương (bút lục số 22), cụ L xác định đã tặng cho căn nhà số 34/2 cho vợ
chồng bà Nguyễn Th.A và 04 người con của bà Th.A từ năm 1966. Do đó, bà
Th.A đã là chủ sở hữu của căn nhà này kể từ ngày 10/7/1980.
[2.3] Tại “Giấy ủy quyền” của bà Nguyễn Th.A lập ngày 31/01/1983 (bút
lục số 07-08) thể hiện: Trước khi xuất cảnh định cư tại Pháp, ngày 31/01/1983,
bà Ẩn đã lập giấy ủy quyền cho bà Võ Thị Th.T “được trọn quyền làm sở hữu
vĩnh viễn, kể cả việc sang nhượng nếu cần”. Giấy ủy quyền này được Tổ trưởng
tổ 13, Công an ấp Bình Minh, Trưởng Công an xã An Bình, Văn phòng UBND
và UBND huyện Thuận An ký chứng thực. Đặc biệt trong phần xác nhận của
UBND huyện Thuận An ghi rõ “…UBND huyện Thuận An chấp thuận cho
phép bà Nguyễn Th.A ngụ tại số 34/2 ấp Bình Minh, xã An Bình ủy quyền sở
hữu chủ nhà ở và tư liệu sinh hoạt cho em là Võ Thị Th.T ngụ cng chung hộ.
Đương sự phải đóng thuế trước bạ sang tên làm chủ theo luật lệ hiện hành”. Như
vậy, việc chuyển quyền sở hữu căn nhà 34/2 từ bà Ẩn sang bà T là hợp pháp, kể
từ ngày UBND huyện Thuận An cho phép. Đây là trường hợp ủy quyền sở hữu
vĩnh viễn, là trường hợp được tặng cho quyền sở hữu nhà ở, không thuộc trường
hợp ủy quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân, theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/72006 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hướng dẫn tại Công văn số 91/TANDTC-
KHXX ngày 28/6/2011 của Toà án nhân dân tối cao. Do đó, bà T đã xác lập sở
hữu của mình đối với căn nhà 34/2 kể từ ngày được bà Ẩn tặng cho hợp pháp.
[2.3] Việc bà Th.A đơn phương lập văn bản hủy bỏ giấy ủy quyền vào
ngày 01/8/2016 (được Đại sứ quán nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tại Cộng hoà Pháp công chứng số 452./LS/CC/16 ngày 01/8/2016) là không có
giá trị pháp lý.
9
Từ những phân tích nêu trên, xét thấy Toà án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào
lời khai của nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu theo nguyên đơn, mà không căn cứ vào các chứng cứ được phân tích
tại các mục [2.2], [2.3] và [2.4] nêu trên, để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
X, không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Th là không đúng quy định của pháp
luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà Th. Do đó, kháng cáo của bà
Th và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là
có căn cứ nên được chấp nhận. Cần sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên cần phải tính lại
án phí dân sự sơ thẩm. Cụ thể như sau:
Bà Võ Thị Ngọc X phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí dân sự
sơ thẩm. Được trừ vào 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí
đã nộp, theo biên lai thu số 4513 ngày 09/5/2014 của Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Bình Dương. Trả cho bà X 2.300.000 (hai triệu ba trăm ngàn) đồng tạm ứng
án phí chênh lệnh.
Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ng.Th 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 2816 ngày 03/6/2016 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
[4] Về chi phí ủy thác tư pháp và chi phí đo đạc, định giá: Các đương sự
tự nguyện nộp và đã nộp xong nên không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ng.Th
300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu
số 10735 ngày 10/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ng.Th và Quyết định kháng
nghị số 24/QĐ/KNPT-P9, ngày 04/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bình Dương.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2017
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Căn cứ vào các Điều 37, 104, 105, 152, 195, 196, 201, 220, 232, 235, 264,
266 và 267 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 236, 239 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án,
10
[1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - bà Võ Thị N.X.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà
Nguyễn Thị Ng.Th.
Bác đơn khởi kiện của bà Võ Thị N.X, về việc yêu cầu hủy “Giấy ủy
quyền”, do bà Nguyễn Thị Ẩn lập ngày 31/01/1983, có nội dung cho bà Võ Thị
Th.T được trọn quyền sở hữu căn nhà tọa lạc tại số 34/2 ấp Bình Minh, xã An
Bình, huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé; hiện nay mang số 18 (số cũ 3/13) Cô Bắc,
khu phố Bình Minh 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
[2] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Võ Thị Ngọc X phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí dân sự
sơ thẩm. Được trừ vào 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí
đã nộp, theo biên lai thu số 4513 ngày 09/5/2014 của Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Bình Dương. Trả lại cho bà X 2.300.000 (hai triệu ba trăm ngàn) đồng tạm
ứng án phí chênh lệnh.
Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ng.Th 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 2816 ngày 03/6/2016 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
[3] Về chi phí ủy thác tư pháp và chi phí đo đạc, định giá: Các đương sự
tự nguyện nộp và đã nộp xong nên không xem xét giải quyết.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ng.Th
300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu
số 10735 ngày 10/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm