Bản án số 310/2025/DS-PT ngày 23/06/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 310/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 310/2025/DS-PT ngày 23/06/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 310/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
——————————
Bản án số: 310/2025/DS-PT
Ngày 23/6/2025
"V/v tranh chấp đòi lại tài sản, yêu
cầu hủy hợp đồng ủy quyền.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Bảo Anh
Các Thẩm phán:Ông Trần Tuấn Quốc
Bà Hồ Thị Tuyết Phương
- Thư phiên tòa: Phạm Thị Hồng Chúc Thư Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cn Thơ
tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Phi - Kiểm sát viên.
Trong ngày 23 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần
Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 592/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng
12 năm 2024 về “tranh chấp đòi lại tài sản, yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền”.
Do Bản án dân sự thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 592/2024/QĐ-PT ngày 25
tháng 3 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 592
/2
/2025/QĐ-PT ngày
21/5/2025 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 592
/3
/2025/QĐ-PT ngày
13/6/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Chung Thế Hoàng L, sinh năm 1983; địa chỉ: B, Chung
cư H, phường H, quận C, Thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Ông Lâm Sơn H, sinh năm 1990; địa
chỉ: ấp T, thị trấn T, huyện T, thành phố Cần Thơ (theo văn bản ủy quyền ngày
20/6/2023) ông Trần Văn B, sinh năm 1988; địa chỉ: số B, khu V, phường T, quận
C, thành phố Cần Thơ (theo văn bản ủy quyền ngày 23/5/2023). Có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Huỳnh Lăm G, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Số A, M, phường A, quận N, Thành phố Cần Thơ.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông G: Ông Huỳnh Liêm E, sinh năm:
1990; địa chỉ: số A, M, phường A, quận N, TP . (văn bản ủy quyền ngày
25/12/2023).Có mặt.
2.2.Huỳnh Thị Ngọc D, sinh năm 1995 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
3. Người có quyền quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Huỳnh Huy C, sinh năm: 1978 (có mặt)
3.2. Bà Lê Thị Mai T, sinh năm: 1979 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số H N, phường T, quân N, TP ..
3.3. Ông Lê Quang T1, sinh năm: 1980 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
3.4. Văn phòng C3.
Địa chỉ: Số A, đường N, phường T, quận N, TP . (xin vắng mặt).
* Người kháng cáo: Nguyên đơn lả bà Chung Thế Hoàng L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn C1 Hoàng Thế L1 trình
bày:
Vào ngày 14/8/2019, Chung Thế Hoàng L chuyển khoản
200.000.000đồng (hai trăm triệu đồng) cho ông Huỳnh Lăm G để nhận lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BT 084600, vào sổ CH 07426 thửa đất 859, tờ bản
đồ 01, diện tích 235,7m2, đất tọa lạc tại khu vực B, phường L quận B, TP . do UBND
quận B cấp tên ông Huỳnh Huy C, bà Lê Thị Mai T.
Theo bà L, lý do vào tháng 5/2019, ông C bà T đã chuyển nhượng phần đất
thửa 859 nêu trên cho L nhưng chưa đăng sang tên. Ông C, T làm
Hợp đồng ủy quyền ngày 28/5/2019 giao cho toàn quyền định đoạt đối với thửa
đất.
Ngày 05/6/2019, bà L ký ủy quyền lại cho bà Huỳnh Thị Ngọc D toàn quyền
địnhy đoạt, nhằm đảm bảo cho việc bà L vay tiền của bà D. Nhưng sau đó, bà D đã
hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Huỳnh Lăm G, nhằm đảm bảo
việc bà D vay tiền của ông G.
Sau khi hay biết sự việc, bà L đến gặp bà D thỏa thuận lấy lại quyền sử dụng
đất bà L schuyển trả tiền cho D bằng cách, chuyển trả cho ông G số tiền
200.000.000đồng, chuyển trả thêm cho D 400.000.000đồng. D m văn bản
cam kết ngày 14/8/2019 thì bà D sẽ giao trả tất cả giấy tờ đã giữ của bà L, trong đó
có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 859.
Bà L cũng đã gặp ông G để thoả thuận việc ông G nhận tiền và huỷ hợp đồng
chuyển nhượng đất giữa ông G và bà D. Nhưng, khi bà L thực hiện nghĩa vụ chuyển
3
tiền xong, ông G không huỷ hợp đồng với bà D mà lại chuyển nhượng thửa đất 859
cho ông Lê Quang T1 mà không báo cho bà L biết.
Nhận thấy, ông Huỳnh Lăm G đã nhận số tiền 200.000.000đồng nhưng không
tôn trọng thoả thuận, không huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (xác
lập giữa ông G với bà D) mà ông G lại chuyển nhượng đất cho người khác làm ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích ca bà L nên bà khởi kiện yêu cầu giải quyết:
Buộc ông Huỳnh Lăm G trả lại cho nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng và
phải bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000.000đồng (hai tỷ đồng) đã nhận tiền của
L nhưng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác gây thiệt hại cho bà
L.
Yêu cầu Tòa án tuyên bố huỷ Hợp đồng uỷ quyền do Văn phòng C3 công
chứng vào ngày 05/6/2019, số 3629, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HNGĐ, do
Chung Thế Hoàng L ký uỷ quyền lại cho bà Huỳnh Thị Ngọc D.
- Người đại diện của ông Huỳnh Lăm G là ông Huỳnh Liêm E trình bày:
Thực tế ngày 06/6/2019, ông G cho D ông T3 vay mượn số tiền
800.000.000đồng, đồng thời để làm tin cho việc vay nợ, bà D và ông T3 có thế chấp
bằng hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 859 cho ông G.
Đến 14/8/2019, D cho biết nhờ người chị (là bà Chung Thế Hoàng L)
chuyển khoản dùm để trả trước số tiền 200.000.000đng. Sau đó, D nói đã tìm
được người sang nhượng thửa đất đang thế chấp, đồng thời yêu cầu ông G chuyển
nhượng cho ông Lê Quang T1, khi đó bà D mới có tiền để trả hết nợ cho ông G.
Ông G cho rằng, L ông không tồn tại một giao dịch nào, việc chuyển
tiền L chuyển hộ cho D ông T3. vậy, các yêu cầu đặt ra của nguyên
đơn là không có căn cứ, ông G không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L.
- Bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc D được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt,
do vậy không ghi nhận được ý kiến của đương sự.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Ông Huỳnh Huy C và bà Lê ThMai T cùng xác nhận, do tin tưởng theo lời
của L vấn để đổi mua mảnh đất khác giá trị hơn nên ông C và T đưa thêm
tiền và lập thêm giấy uỷ quyền cho bà Chung Thế Hoàng L được sang nhượng thửa
đất 859.
Đến năm 2023, Toà án thành ph Cần Thơ mời lên giải quyết thì ông C, bà T
mới biết việc mình bị L lừa để chiếm đất, lấy mất tiền. Ông bà mong Toà án xem
xét giải quyết buộc L hoàn trả lại tiền và đất. Tuy nhiên, đến hiện tại ông C, bà T
vẫn chưa đơn khởi kiện trong vụ án này. Vợ chồng ông C, T không biết
cũng không liên quan việc Linh kiện ông Huỳnh Lăm G Huỳnh Thị Ngọc
D.
4
+ Văn phòng công chứng Lê Cẩm L2 có đơn xin đề nghị vắng mặt trong quá
trình giải quyết vụ án.
+ Ông Lê Quang T1 được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên không
ghi nhận được ý kiến của ông.
Tại Bản án dân sự thẩm s214/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2024,
Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, đã quyết định:
1/ Bác yêu cầu khởi kiện của Chung Thế Hoàng L, về yêu cầu ông Huỳnh
Lăm G hoàn trả số tiền 200.000.000đồng (hai trăm triệu đồng) và bồi thường thiệt
hại 2.000.000.000đồng (hai tỉ đồng)
2/ Bác yêu cầu khởi kiện của Chung Thế Hoàng L, về yêu cầu huỷ hợp
đồng uỷ quyền lại ngày 05/6/2019, số công chứng 3629, quyển số 01/2019/TP/CC-
SCC/HNGĐ của Văn phòng C3, có nội dung ông Huỳnh Huy C, bà Nguyễn Thị Mai
T2 do bà Chung Thế Hoàng L đại diện ký uỷ quyền lại cho Huỳnh Thị Ngọc D.
* Về án phí dân sự sơ thẩm:
Chung Thế Hoàng L phải chịu 76.000.000đồng (bảy mươi sáu triệu đồng)
tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Khấu trừ vào
38.300.000đồng tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000154 ngày
28/9/2023, bà L phải nộp thêm 37.700.0000đồng (ba mươi bảy triệu, bảy trăm ngàn
đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương stheo quy
định.
Ngày 04/9/2024, nguyên đơn bà Chung Thế Hoàng L kháng cáo, đề nghị cấp
phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, buộc bị đơn ông Huỳnh Lăm G trả lại cho nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng
và bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000.000 đồng; Yêu cầu Tòa án tuyên Hủy hợp
đồng ủy quyền ngày 05/6/2019, số Công chứng 3629, Quyển số 01/2019/TP/CC-
SCC/HĐGD.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn (có người đại diện theo ủy quyền) vẫn
giữ nguyên kháng cáo; Nguyên đơn đề nghị giám định chữ nội dung tại “Tờ
cam kết” viết tay ngày 09/9/2019 của bà Huỳnh Thị Ngọc D.
Ông Huỳnh Liêm E đại diện theo y quyền của bđơn ông Huỳnh Lăm G
không đồng ý cho rằng, việc giám định chữ ký và ni dung tại “Tờ cam kết” viết tay
ngày 09/9/2019 không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Còn bị đơn
Huỳnh Thị Ngọc D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về tố tụng nội dung kháng cáo:
Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa, các đương sự chấp hành đúng quy định
Bộ luật tố tụng dân sự.
5
Về nội dung kháng cáo: Kiểm sát viên phân tích các tình tiết, tài liệu, chứng
cứ được thu thập xác định, cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Huỳnh Lăm G hoàn trả stiền 200.000.000
đồng và bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000.000 đồng là phù hợp.
D được bà L y quyền để thực hiện các giao dịch liên quan thửa đất 859.
Bà D thực hiện các công việc theo nội dung ủy quyền đã xong nên đại diện theo ủy
quyền chấm dứt. Do đó, việc bà L yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa
L với D, được Văn phòng C3 công chứng vào ngày 05/6/2019, số: 3629, Quyển
số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD cũng không có cơ sở.
Từ những vần đnêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của nguyên đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 B luật tố tụng dân sự, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn Chung Thế Hoàng L, Hội đồng xét
xử nhận thấy:
Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền cho ông Huỳnh Huy C và bà Lê
Thị Mai T (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 28/5/2019, do Văn phòng C4, quyển số
01/2019), ngày 05/6/2019, nguyên đơn Chung Thế Hoàng L hợp đồng ủy
quyền lại cho bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc D để D thực hiện các quyền về quản lý,
sử dụng, định đoạt đối với thửa đất số 859, diện tích 235,7m
2
(ODT 100m
2
135,7m
2
CLN), tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại khu vực B, phường L, quận B, thành phố
Cần Thơ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sn
khác gắn liền với đất số BT084600, số vào sổ cấp GCN CH07426 cấp ngày
10/4/2014, chỉnh lý biến động ngày 17/10/2018 cho bà Lê Thị Mai T đứng tên. Sau
đó, D hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 859, diện tích 235,7m
2
nêu trên
cho bị đơn ông Huỳnh Lăm G. Ông G (có người đại diện theo ủy quyền) trình bày,
vợ chồng D, ông T3 có vay tiền của ông G, việc bà L chuyển số tiền 200.000.000
đồng vào tài khoản của ông G nhằm thanh toán nợ thay cho bà D, vì bà L nợ tiền
D. Đồng thời, việc ông G hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 859 lại cho ông
Quang T1 là theo yêu cầu ca bà D.
Xét nội dung “Văn bản cam kết”, được công chứng tại Văn phòng C3 ngày
14/8/2019, giữa bà Chung Thế Hoàng L với bà Huỳnh Thị Ngọc D thì thấy rằng, bà
L vay của D số tiền 1.000.000.000 đồng, L trả trước 400.000.000 đồng,
phần còn lại sẽ thanh toán như sau:
Ngày 14/8/2019, bà L trả 200.000.000 đồng bằng cách chuyển vào tài khoản
tại Ngân hàng TMCP P của ông Huỳnh Lâm G1.
6
Ngày 15/8/2019, bà L sẽ trả số tiền 400.000.000 đồng bằng cách chuyển vào
tài khoản của Phạm Công C2 tại Ngân hàng TMCP N (V).
Sau khi bà L trả đủ số tiền nêu trên thì bà D trách nhiệm trả lại cho L tất
cả các giấy tờ tài sản mà bà L đã giao cho bà D giữ.
Thực tế tL chuyển khoản cho ông G1 số tiền 200.000.000đồng nhưng
số tiền chuyển khoản này là bà L trả nợ cho bà D theo nội dung thoả thuận giữa
L và bà D tại văn bản cam kết ngày 14/8/2019 nêu trên. Việc bà L yêu cầu ông G1
phải có nghĩa vụ trả lại cho bà số tiền 200.000.000 đồng là không có cơ sở để chấp
nhận.
Tại “Tờ cam kết” ngày 09/9/2019 (bản photo do nguyên đơn cung cấp) thể
hiện nội dung, ông Nguyễn Nhật T3 và Huỳnh Thị Ngọc D trả đủ số tiền vay
800.000.000 đồng cho ông G1ông G1 chuyển nhượng lại đất cho vợ chồng ông
T3, bà D và ông Lê Quang T1. Ông G1 không có ý kiến cam kết thực hiện nghĩa vụ
đối với L liên quan thửa đất 859. Việc ông G1 chuyển nhượng thửa đất 859
cho người khác trên cơ sD đã hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp cho ông
G1. Do đó, nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn ông G1 bồi thường thiệt hại số tiền
2.000.000.000đồng là không có căn cứ để chấp nhận.
[2] D được L hợp đồng ủy quyền lại vào ngày 05/6/2019 để định
đoạt thửa đất 859 (trên cơ sở văn bản ủy quyền được ký kết trước đó giữa vợ chồng
ông C, bà T là chủ tài sản với bà L vào ngày 28/5/2019). Theo thỏa thuận tại Điều 4
của Hợp đồng quyền lại được ký kết giữa bà L với bà D thì khi thực hiện công việc
ủy quyền, D phải báo lại kết quả cho L và giao lại tài sản đã nhận những
lợi ích thu được khi thực hiện ủy quyền theo thỏa thuận và hoặc quy định của pháp
luật. Quá trình tố tụng, bà D chỉ có đơn xin giải quyết vụ án vắng mặt, không trình
bày ý kiến của mình liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn, cũng như đã thực
hiện đầy đnghĩa vụ đối với L theo nội dung thoả thuận trong Hợp đồng ủy quyền
lại được ký kết ngày 05/6/2019 hay chưa?. Vì vậy, bà L có quyền khởi kiện bà D về
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên được ủy quyền bằng vụ án khác.
Nguyên đơn (có người đại diện theo ủy quyền) cho rằng, khi ký hợp đồng ủy
quyền cho L để định đoạt thửa đất 859 thì L trả cho ông C, T 900.000.000
đồng tiền chuyển nhượng đất. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông C T phủ
nhận việc nhận tiền như nguyên đơn trình bày. Bà L với tư cách là bên được ông C,
T ủy quyền thực hiện các giao dịch về tài sản nên cũng phải thực hiện nghĩa vụ
đối với bên ủy quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C4
7
công chứng ngày 28/5/2019 hoặc theo quy định pháp luật. Do đó, ông C, T
quyền khởi kiện bên được ủy quyền thực hiện nghĩa vụ dân sự thành vụ án khác.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi tuyên bố hủy Hợp đồng uquyền
lại, được Văn phòng C3 công chứng ngày 05/6/2019, số 3629, quyển số
01/2019/TP/CC-SCC/HNGĐ, giữa bên ủy quyền Chung Chế Hoàng L3 (làm
đại diện cho ông Huỳnh Huy C Thị Mai T) với bên được ủy quyền
Huỳnh Thị Ngọc D thì thấy rằng:
L3 được ông C T ủy quyền theo hợp đồng uỷ quyền được Văn phòng
C4 công chứng ngày 28/5/2019, sau đó L3 lập hợp đồng ủy quyền lại cho bên thứ
3 là bà Huỳnh Th Ngọc D phù hợp với phạm vi đại diện để bà D có quyền quản lý,
sử dụng định đoạt thửa đất 859. Bên được y quyền D đã hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất 859 cho ông G1. D đã thực hiện xong công việc trong
phạm vi ủy quyền nên thời hạn đại diện theo ủy quyền cũng chấm dứt theo quy định
tại điểm c khoản 3 Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015 nên không có cơ sở để tuyên
bố hủy Hợp đồng ủy quyền lại được ký kết giữa L4 với D như nguyên đơn yêu
cầu.
[4] Việc nguyên đơn yêu cầu giám định chữ nội dung “Tờ cam kết”
viết tay ngày 09/9/2019 được kết giữa ông Huỳnh Lăm G với Huỳnh Thị Ngọc
D, ông Nguyễn Nhật T3 là không cần thiết, vì không có giá trị chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5] Quan điểm đề nghcủa đại diện Viện kiểm sát phúc thẩm tại phiên tòa về
việc không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
không có căn cứ chấp nhận nên phải chu.
[7] Các phần khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị nên
hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của B luật tố tụng dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
1/. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Chung Thế Hoàng L.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 214/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
2/. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Chung Thế Hoàng L phải chịu s tiền 300.000 đồng, khấu trừ 300.000 đồng
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm L nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
8
án ngày 11/9/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ (bà L đã nộp đủ án phí).
3/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày được tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi
hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND.TPCT;
- TAND quận Ninh Kiều;
- THADS quận Ninh Kiều;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Võ Bảo Anh
Tải về
Bản án số 310/2025/DS-PT Bản án số 310/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 310/2025/DS-PT Bản án số 310/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất