Bản án số 120/2024/DS ngày 16/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 120/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 120/2024/DS ngày 16/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 120/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, yêu cầu hủy quyết định hành chính giữa nguyên đơn bà Võ Thị L với bị đơn bà Đặng Thị Mai N
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 120/2024/DS PT
Ngày 16 9 2024;
V/v Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô
hiệu.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
ông Phạm Quốc Bảo,
ông Nguyễn Hữu Thịnh.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mẫn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: ông
Nguyễn Quang Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2024/TLPT - DS ngày 12 tháng 01 năm 2024
về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất về yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu, yêu cầu hủy quyết định hành chính”;
Do Bản án dân sự thẩm số 47/2023/DS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 65/2024/QĐ - PT ngày 07
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị L, sinh năm 1947. Người đại diện theo ủy quyền:
ông Đặng Văn H, sinh năm 1970; cùng địa chỉ: khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh
Quảng Nam (văn bản ủy quyền ngày 31 tháng 7 năm 2023); địa chỉ liên hệ của ông
H: Số A Đ, H, C, thành phố Đà Nẵng. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn: luật Nguyễn Văn T, Đoàn luật sư thành phố Đ, Luật Đào Duy K,
Văn phòng L1, Đoàn luật sư tỉnh Q.
- Bị đơn: Đặng Thị Mai N, sinh năm 1973; địa chỉ: khối phố A, thị trấn T,
huyện H, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: Trần Thị D, sinh năm
1989; địa chỉ: Số A H, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng (văn bản ủy quyền
ngày 08 tháng 8 năm 2023).
- Người kháng cáo: nguyên đơn Võ Thị L.
Các ông bà H, K, T, D có mặt; người tham gia tố tụng khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn cho rằng: các thửa đất số 384, 386, 389, tờ bản đồ số 7, tổng diện
tích 2970m
2
, tại khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam của Thị L,
được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2013.
Ngày 12 tháng 9 năm 2019, L thỏa thuận hợp đồng chuyển nhượng các thửa
đất trên cho Đặng Thị Mai N với giá 4.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, với mục
đích trốn tránh nghĩa vụ thuế nên N yêu cầu L lập hợp đồng tặng cho quyền sử
2
dụng đất được chứng thực tại Ủy ban nhân thị trấn T ngày 12 tháng 8 năm 2019, sau
đó N lập thủ tục sang tên xong, nhưng không thanh toán số tiền 4.000.000.000
đồng cho L. Ngày 24 tháng 11 năm 2020, N lập giấy viết tay xác nhận việc
mua bán đất chưa thanh toán số tiền 4.000.000.000 đồng cho L, cam kết trả lãi
20.000.000 đồng/tháng, hẹn ngày 10/4/2021 hoàn trả gốc. Do N không thanh toán
tiền chuyển nhượng đất nên L kiện, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng các thửa đất số 384, 386, 389, tờ bản đồ số 7 vô hiệu do giả tạo, nhằm
che dấu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu N trả các thửa đất
lại cho bà L, hủy phần điều chỉnh sang tên cho bà N trong Giấy chứng nhận liên quan
đến các thửa đất này.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng: thủ
tục tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà L với N liên quan đến 3 thửa đất
nguyên đơn khởi kiện là tự nguyện, hợp pháp, không che dấu giao dịch nào.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS - ST ngày 22
tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ các
điều 26, 35, 40, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các điều 95, 167, 168, 188
Luật Đất đai năm 2013, các điều 500, 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều
12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử: không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn Võ Thị L về yêu cầu tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất giữa ThL Đặng Thị Mai N lập ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối
với 03 thửa đất 384, 386, 389 tờ bản đsố 7 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số B0213892, tại khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam; không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của Thị L về yêu cầu tuyên hủy phần điều chỉnh sang
tên cho Đặng Thị Mai N đối với 03 thửa đất 384, 386, 389 tờ bản đồ số 7 trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B0213892, tại khối phố A, thị trấn T, huyện
H, tỉnh Quảng Nam.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 01 tháng 12 năm 2023, người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm;
Tại phiên tòa phúc thẩm, những người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn cho rằng: giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất giữa hai bên lập nhằm
trốn thuế, che dấu giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất; quá trình tố tụng,
N thừa nhận việc nhận chuyển nhượng đất còn nợ bà L số tiền 04 tỷ đồng. Đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, xử theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
phát biểu ý kiến: a án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thụ lý, xét xử vụ án; đề nghị
Hội đồng xét xáp dụng khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, hủy toàn bộ Bản án thẩm
số 47/2023/DS - ST ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh
Quảng Nam, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nội
dung kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.
[2]. Xét kháng cáo
[2.1]. Về thủ tục tố tụng tại cấp phúc thẩm:
Việc thụ kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đúng
phạm vi ủy quyền (BL 86), trong thời hạn, đúng điều kiện, thủ tục thẩm quyền
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng cáo của ông Đặng
Văn H là hợp pháp.
[2.2]. Về nội dung kháng cáo
Thứ nhất, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất được Ủy ban nhân dân thị trấn T chứng thực ngày 12 tháng 8 năm 2019
hiệu, nhưng Tòa án cấp thẩm không đưa quan thực hiện việc chứng thực
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bỏ sót người
tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 6 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu tuyên bhợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất hiệu, nhưng không tiến hành phiên xem xét, thẩm định tại chỗ để xác
định có hay không có các thửa đất đất thuộc đối tượng tặng cho tài sản, xác định thực
tế diện tích, tứ cận các thửa đất tài sản trên đất, để tiến hành định giá quyền sử
dụng đất thuộc hợp đồng tặng cho, xác định các chủ thể liên quan đến các diện
tích đang tranh chấp. Mặt khác, chưa xác định được tài sản, giá trị tài sản thuộc
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nhưng Tòa án cấp thẩm khẳng định việc
tặng cho quyền sử dụng đất đúng pháp luật là thiếu căn cứ thực tiễn. Tòa án cấp phúc
thẩm đã tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ nhưng Tòa án nhân huyện H không thu
thập được các thông tin liên quan đến các thửa đất trên thực tế không tiến hành
định giá được. quan chuyên môn tham gia đo đạc khẳng định “do khi đo đạc
không có chủ đất sử dụng liền kề…Sau khi đo đạc ngoài thực địa về kiểm tra với các
thửa đất yêu cầu đo đạc sai lệch gần như hoàn toàn….không đủ sở để hoàn thiện
mảnh trích đo theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ”.
Theo đó, các thiếu sót trên của Tòa án cấp thẩm thuộc trường hợp thu thập
chứng cứ chưa được thực hiện đầy đủ tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực
hiện bổ sung được và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi
hợp pháp của đương sự, được quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy,
Hội đồng xét xchấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn quan điểm của
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, hủy Bản án thẩm số
47/2023/DS ST ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân huyện H, tỉnh Quảng
Nam, chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm.
[2.3]. Hội đồng xét xử đã nhận định hủy bản án thẩm do thu thập chứng cứ
không đầy đủ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên không nhận định phần
kháng cáo của nguyên đơn liên quan đến nội dung vụ án.
4
[2.4]. Khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án cần thực hiện đúng
trách nhiệm giải thích cho các bên đương sự về quyền yêu cầu giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự; xyêu cầu hủy thủ tục đăng biến động sang tên trong Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo giao dịch chuyển quyền sử dụng đất theo quy
định của Luật Đất đai năm 2013, Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 của Chính phủ hướng dẫn của Tòa án nhân tối cao tại mục 2,
phần II, Công văn số 64/TANDTC PC ngày 03 tháng 4 năm 2019, xác định đúng,
đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
[2.5]. V án phí n s phúc thm: do bản án thẩm bị hủy nên người
kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 B lut T tng dân s năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
Thị L, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS - ST ngày 22 tháng 11 năm
2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Võ Thị L không chịu.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 16 tháng 9
năm 2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND huyện H;
- THADS huyện H;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
Tải về
Bản án số 120/2024/DS Bản án số 120/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 120/2024/DS Bản án số 120/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất