Bản án số 12/2024/HNGĐ-ST ngày 08/05/2024 của TAND huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/HNGĐ-ST ngày 08/05/2024 của TAND huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tiên Lữ (TAND tỉnh Hưng Yên) |
Số hiệu: | 12/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/05/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn(H-T) |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN T
TỈNH HƯNG YÊN
Bản án số: 12/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 08/05/2024
"V/v Tranh chấp hôn nhân và gia đình"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH HƯNG YÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Minh N.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Lương Văn K
2. Bà Đào Thị Thanh T.
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị P - Thư ký Toà án nhân dân huyện T.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Tiến L - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh
Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2024/TLST – HNGĐ
ngày 22 tháng 02 năm 2024 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 11/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm
2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐST – HNGĐ ngày 26 tháng 4
năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981 - Có đơn xin vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 - Vắng mặt lần thứ 02 không
có lý do.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Cháu Nguyễn Thị T1, sinh ngày
31/5/2007.
Đều có địa chỉ: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo pháp luật cho cháu T: Anh Nguyễn Văn T và chị
Nguyễn Thị H là bố mẹ đẻ của cháu.
Người làm chứng:
- Bà Trần Thị T, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.
2
- Cháu Nguyễn Tiến D, sinh năm 2001;
- Cháu Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 2004.
Đều có địa: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên.
Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, nguyên đơn chị
Nguyễn Thị H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T tự
nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên vào ngày
17/12/1999 theo quy định của pháp luật. Anh chị sống hạnh phúc đến năm 2007
thì phát sinh mâu thuẫn. Anh chị không hòa hợp về tính cách, quan điểm sống
nên từ trong sinh hoạt gia đình và mọi việc anh chị đều không có sự chia sẻ,
không thấu hiểu và thông cảm cho nhau nên vợ chồng thường xuyên xảy xô sát,
cãi nhau. Anh T nhiều lần dùng vũ lực đối với chị H rồi đuổi chị H ra khỏi nhà.
Vì các con và sự động viên của hai bên gia đình nên chị H bỏ qua và cố gắng
dung hòa mối quan hệ với anh T để duy trì hạnh phúc gia đình, nuôi dạy các con
nhưng mọi sự cố gắng đều không có kết quả. Anh T không tin tưởng chị H nên
tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Đến năm 2018, do không chịu đựng được
bạo lực cũng như việc anh T không tin tưởng và nghi ngờ về tình cảm của chị
nên chị đã về sống với bố mẹ đẻ ở thôn Đ, xã T, thành phố H. Trong thời gian
chị H sống với bố mẹ đẻ nhiều lần chị về thăm con và cũng mong cho anh T cơ
hội để vợ chồng tập trung nuôi dạy các con nhưng lần nào cũng vậy anh T đều
đánh, chửi bới, lăng mạ chị và đuổi chị đi khiến cho chị có nhà mà không thể về,
có con mà không thể trực tiếp chăm sóc, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm
trọng. Chị và anh T sống ly thân từ năm 2018 cho tới nay, không ai quan tâm
đến ai, không phụ thuộc nhau về kinh tế.
Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T, chị không thể duy trì một
hôn nhân mà lúc nào cũng lo sợ sự an toàn của bản thân, hôn nhân khi mà cả hai
đều không thể mang lại hạnh phúc cho nhau. Chị kiên quyết đề nghị Tòa án
nhân dân huyện T giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.
- Về con chung: Chị xác định, vợ chồng có 03 con chung là các cháu
Nguyễn Tiến D, sinh năm 2001; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 2004 và cháu
Nguyễn Thị T1, sinh năm ngày 31/5/2007. Các cháu đang sống với anh T. Hiện
nay hai cháu D và T đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do chị chưa có chỗ ở riêng nên chị đề nghị giao cháu T1 cho anh T tiếp tục nuôi
dưỡng cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi. Chị tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung
với anh T là 1.000.000đồng/tháng. Chị được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc
con chung theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Chị H tự nguyện không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần gửi
giấy triệu tập anh Nguyễn Văn T đến Tòa án để tiến hành lấy lời khai nhưng anh
T đều vắng mặt. Đến ngày 21/3/2024 trong biên bản lấy lời khai của Tòa án đối
với anh Nguyễn Văn T. Anh T trình bày: Anh T thống nhất với chị H về thời
điểm kết hôn. Anh T xác định trong cuộc sống anh chị không đồng quan điểm,
vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn kéo dài, hôn nhân không có
hạnh phúc. Anh T cũng xác định do bất đồng quan điểm nên anh đã đánh và
đuổi chị H ra khỏi nhà và chị không cũng không về sống với anh nữa. Anh
không còn tình cảm với chị H, anh chị đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay.
Vì gia đình nên anh chưa đồng ý ly hôn. Chị H kiên quyết ly hôn thì tùy chị H.
Về con chung: Anh T xác định, anh chị có 03 con chung là các cháu
Nguyễn Tiến D, sinh năm 2001; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 2004 và cháu
Nguyễn Thị T1, sinh năm ngày 31/5/2007. Hiện cháu D và cháu T đã trưởng
thành. Các cháu đều đang sống với anh. Anh không đồng ý ly hôn nên anh
không đề cập tới vấn đề nuôi dưỡng các cháu.
Về tài sản chung, nợ chung, ruộng: Anh không đồng ý ly hôn nên tùy chị
H quyết định.
Người làm chứng bà Trần Thị T là mẹ đẻ của chị H; Các cháu Nguyễn
Tiến D và Nguyễn Thị Thu T là con của chị H, anh T đều trình bày: Hôn nhân
giữa chị H và anh T không có hạnh phúc. Các cháu D và T đã chứng kiến việc
bố mẹ đánh, cãi nhau. Có lần cháu D cũng phải chạy đi cùng chị H để tránh việc
anh T dùng vũ lực đối với cháu và chị H. Chị H và anh T đã sống ly thân từ lâu,
không ai quan tâm đến ai, kinh tế hoàn toàn độc lập.
Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh T, quan điểm của bà T: Anh T và chị H
không thể mang lại hạnh phúc cho nhau nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho
chị H được ly hôn với anh T; Quan điểm của hai cháu D và T: Các cháu đã
trưởng thành nên các cháu không có yêu cầu gì. Cháu D và cháu T đều xác định
không có liên quan gì về tài sản, nợ với chị H, anh T còn về tình cảm chị H và
anh T có duy trì được hôn nhân hay không là tùy anh chị.
Tại Biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Thị T1 là con của chị H và
anh T thể hiện: Chị H và anh T không sống chung với nhau, không quan tâm và
không nói chuyện với nhau kể cả việc gặp mặt từ rất lâu. Cháu T1 có nguyện
vọng được sống cùng anh T.
Xác minh tại UBND xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên được biết: Chị H, anh T
có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên theo giấy
chứng nhận kết hôn số 48 ngày 17/12/1999. Theo Ủy ban nhân dân xã cung cấp:
Chị H, anh T sống hạnh phúc đến khoảng năm 2007 thì xảy ra mâu thuẫn,
thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018
cho tới nay, không ai quan tâm đến ai, anh T có hộ khẩu thường trú và có mặt tại
địa phương. Nay chị Nguyễn Thị H có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Văn T,
quan điểm của UBND xã A là đề nghị Toà án căn cứ quy định pháp luật để giải
quyết vụ án.
4
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải ngày 25/3/2024: Anh T vắng mặt không có lý do. Chị H có đơn đề nghị
không tiến hành hòa giải.
Tòa án đã tiền hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
gửi kết quả cho T. Anh T không có ý kiến thắc mắc gì.
Ngày 26/4/2024, Tòa án nhân dân huyện T tiến hành đưa ra xét xử vụ án
nhưng nguyên đơn có đơn xin vắng mặt phiên tòa xét xử, bị đơn vắng mặt
không có lý do nên Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa.
Tại phiên toà: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt; Bị đơn anh Nguyễn Văn T được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng
mặt không có lý do.
Chủ tọa phiên tòa công bố các lời khai của đương sự và các tài liệu khác
có trong hồ sơ vụ án.
* Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T:
Đề nghị HĐXX:
Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu khởi kiện của chị
Nguyễn Thị H. Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
Về con chung: Anh chị có 03 con chung là các cháu Nguyễn Tiến D, sinh
năm 2001; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 2004 và cháu Nguyễn Thị T1, sinh năm
ngày 31/5/2007. Hiện cháu D và cháu T đã đủ 18 tuổi hơn nữa các cháu cũng
không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử
giao cháu Nguyễn Thị T1 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến
khi cháu đủ 18 tuổi. Buộc chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung với anh T số
tiền 1.000.000đồng/tháng. Chị H được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc con
chung không ai được cản trở.
Về tài sản chung, ruộng canh tác: Các đương sự không yêu cầu nên không
xem xét giải quyết.
Về án phí: Chị H phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H yêu cầu giải quyết ly hôn với anh
Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên nên vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại khoản 1
Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điển a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân
sự
5
Nguyên đơn chị H có đơn xin vắng mặt tại phiên xét xử. Anh T mặc dù đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng vắng mặt không có lý do tại
phiên tòa ngày 26/4/2024 nên Tòa án nhân dân huyện T đã ra Quyết định hoãn
phiên tòa số 04/2024/QĐST - HNGĐ ngày 26/4/2024 và ấn định thời gian mở
lại phiên tòa vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 08/5/2024. Anh T đã được Toà án tiến
hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Toà án
xét xử vắng mặt chị H, anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản
1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T có
đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện T, tỉnh Hưng Yên theo giấy chứng nhận
kết hôn số 48 ngày 17/12/1999 trên cơ sở tự nguyện. Do vậy hôn nhân của anh
chị là hợp pháp.
Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm năm 2007 thì
phát sinh mâu thuẫn. Anh chị không hòa hợp về tính cách, quan điểm sống nên
không có sự chia sẻ, không thấu hiểu và thông cảm cho nhau, vợ chồng thường
xuyên xảy xô sát, cãi nhau. Anh T không tin tưởng chị H và nghe kích động bên
ngoài nên nhiều lần dùng vũ lực đối với chị H rồi đuổi chị H ra khỏi nhà. Chị H
đã bỏ qua mong vợ chồng có thể để duy trì hạnh phúc gia đình, nuôi dạy các con
nhưng mọi sự cố gắng đều không có kết quả. Việc anh T dùng bạo lực, chửi bới,
lăng mạ và xúc phạm chị vẫn xảy ra dưới sự chứng kiến của các con. Mâu thuẫn
vợ chồng càng trầm trọng. Chị và anh T sống ly thân từ năm 2018 cho tới nay,
không ai quan tâm đến ai. Đến nay chị H vẫn kiên quyết xin được ly hôn với anh
T.
Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhiều lần triệu tập anh T lên để lấy lời khai và
hoà giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do. Tòa án nhân dân huyện T đã
tiến hành xác minh lấy lời khai của anh T tại địa phương, anh T cũng xác định
anh chị không còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã sống
ly thân nhưng anh chưa đồng ý ly hôn. Tòa án tiến hành hòa giải để cho anh T
có cơ hội đoàn tụ gia đình với chị H, anh T không tham gia hòa giải và đều vắng
mặt không có lý do. Anh T cũng không đưa ra được giải pháp để khắc phục mâu
thuẫn vợ chồng. Cùng với sự trình bày của người làm chứng là bà Trần Thị T,
cháu Nguyễn Tiến D và cháu Nguyễn Thị Thu T đều thể hiện chị H và anh T có
xảy ra nhiều mâu thuẫn, có sự việc anh T đánh, chửi và lăng mạ chị H. Quá trình
điều tra T thập chứng cứ cũng như tại phiên tòa, anh T đều không đến làm việc
theo giấy triệu tập của Tòa án. Điều này thể hiện anh T không có thiện chí đoàn
tụ và xây dựng hạnh phúc gia đình với chị H. Chị H vẫn giữ quan điểm kiên
quyết xin ly hôn với anh T.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và
anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung
không thể kéo dài, anh chị đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay nên chấp nhận
yêu cầu xin ly hôn của chị H cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện T tại phiên toà.
6
[3]. Về con chung: Anh chị có 03 con chung là các cháu Nguyễn Tiến D,
sinh năm 2001; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 2004 và cháu Nguyễn Thị T1, sinh
năm ngày 31/5/2007.
- Xét yêu cầu của chị H cũng như quan điểm của các cháu Nguyễn Tiến D
và Nguyễn Thị Thu T, nguyện vọng của cháu Nguyễn Thị T1. HĐXX thấy: Các
cháu D và Trang đã đủ 18 tuổi hơn nữa các cháu cũng không có yêu cầu gì nên
Tòa án không xem xét giải quyết; Đối với cháu T1: Do chị H chưa có chỗ ở ổn
định nên chị đề nghị Tòa án giao cháu T1 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng và
nguyện vọng của cháu T1 nếu anh chị ly hôn cháu xin được ở với anh T. Do
vậy, HĐXX sẽ giao cháu Nguyễn Thị T1 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo
dục là phù hợp với thực tế và pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia
đình quy định người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
nên HĐXX sẽ buộc chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung với anh T theo quy
định.
[4]. Về tài sản chung, công sức; nợ nần: Nguyên đơn, bị đơn không yêu
cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn và án
phí cấp dưỡng nuôi con theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Quốc Hội.
[6].Quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại
phiên toà về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án là có căn cứ nên được chấp
nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 51; 56, 57, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân
và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố
tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc
hội quy định về án, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh
Nguyễn Văn T.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T có 03 con
chung là các cháu Nguyễn Tiến D, sinh năm 2001; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm
2004 và cháu Nguyễn Thị T1, sinh năm ngày 31/5/2007;
Đối với các cháu D và T: Chị H, anh T và các cháu D, T đều không có yêu
cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết;

7
Giao cháu Nguyễn Thị T1 cho anh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục đến khi cháu T đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung
với anh T số tiền 1.000.000đồng/tháng kể từ tháng 6/2024 đến khi cháu T1 đủ
18 tuổi.
Chị H được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc con chung. Anh T và các
thành viên trong gia đình không ai được cản trở chị H thăm nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chung.
Kể từ ngày anh T có đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ về khoản tiền cấp
dưỡng nuôi con, nếu chị H không thi hành thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi
suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và
số tiền chưa thi hành.
- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên hội đồng xét xử
không xem xét, giải quyết.
- Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đồng án phí
sơ thẩm ly hôn và 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Tổng số tiền án phí
chị H phải nộp là 600.000đồng nhưng được trừ vào 300.000đồng chị H đã nộp
tạm ứng án phí theo biên lai ký hiệu BLTU/23 số 0000538 ngày 22/02/2024 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Chị H còn phải nộp 300.000đồng án phí.
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm
yết theo quy định pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh;
- VKSND huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- UBND xã A (CNKH số 48/1999);
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán - chủ toạ phiên toà
Nguyễn Minh N
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT ngày 04/09/2025 của TAND tỉnh Sơn La về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 31/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Sơn La về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Bản án số 24/2025/HNGĐ-PT ngày 27/08/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Bản án số 22/2025/HNGĐ-PT ngày 19/08/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm