Bản án số 12/2024/DS-ST ngày 12/07/2024 của TAND huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/DS-ST ngày 12/07/2024 của TAND huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Nam Trực (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 12/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Năm 2012 vợ chồng bà H, ông Th và vợ chồng anh L, chị T đều nhận chuyển nhượng của người khác, đều đã làm thủ tục 5 đăng ký quyền sử dụng đất và đã được cấp GCNQSDĐ theo quy định. Sau khi được cấp giấy GCNQSDĐ vào tháng 8/2012 ông Th, bà H làm móng để râu sắt chờ đổ cột chạy dài hết thửa đất, trước khi làm móng bà H có cho thợ khảo lại đất hai nhà đều đủ kích thước dài rộng, anh L biết không có ý kiến gì. Năm 2014 gia đình chị T, anh L làm nhà 3 tầng trên tổng diện tích 96m2, khi nhà anh L, chị T hạ móng và phun cát vào nền nhà bà H đều biết và không có ý kiến gì, quá trình xây dựng gia đình bà H còn tạo điều kiện cho thợ nhà anh L, chị T đi lại trên nền đất trống thửa 100-12 để đánh vữa và vận chuyển vật liệu, các đương sự sử dụng ổn định đến năm 2020 không ai có tranh chấp gì. Nay bà H khởi kiện đề nghị Tòa án làm rõ ranh giới móng giữa nhà bà với nhà anh L chị T. Nếu nhà anh L, chị T vả vữa chân tường sang móng nhà bà, bà yêu cầu vợ chồng anh L vạc đi để lộ ranh giới móng cho nhà bà chạy dài hết thửa đất tránh tranh chấp về sau. Chị T không nhất trí yêu cầu khởi kiện của bà H vì kết cầu xây dựng móng nhà chị làm bê tông đúc cấy cột thẳng đứng 3 tầng, nên không thể xây tường đè lên móng nhà bà H. Người làm chứng ông Thể trình bày “Theo kỹ Tật xây dựng râu cột trờ sát bên ngoài cách 03cm để khi đổ cột 22cm mới khớp và móng hiện tại đổ cột thắng nên không thể xây đè lên móng nhà khác được” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN N
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 12/2024/DS-ST
ngày 12 - 7 - 2024
V/v: “Tranh chấp ranh giới QSDĐ”
giữa bà H và anh L, chị T
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH
Th phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Ánh
Các hội thẩm nhân dân: Ông Lê Trung Th;
Bà Phạm Thị Xuyến
Thư ký phiên toà: Bà Trịnh Thị H - Thư ký Tòa án nhân dân huyện N
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên tòa: Ông Lê Duy
Khôi - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam
Định mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 58/2023/TLST-DS ngày
13 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 6 năm
2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1952;
- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1980 và chị Đoàn Thị T, sinh năm
1983.
+ Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Ngọc L là: Chị Đoàn Thị T,
sinh năm 1983;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Văn Th, sinh năm
1954;
+ Người đại diện theo ủy quyền của ông Th: Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1952;
Tất cả các đương sự trên đều có địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Nam
Định.
- Người làm chứng: Ông Đoàn Văn Thể,
Tại phiên tòa có mặt bà H và chị T; vắng mặt anh L, ông Th và ông Thể.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 10/11/2023, bản tự khai ngày 18/01/2024 và quá trình
tố tụng tại tòa án nguyên đơn và là người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án bà Đoàn Thị H trình bày:
2
Về nguồn gốc thửa đất 100
-12
, tờ bản đồ số 12, diện tích 96m
2
vợ chồng bà
đang sử dụng là do năm 2012 vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của vợ chồng anh
Nguyễn Văn Tuân và chị Trần Thị Út Trang người cùng thôn, hai bên đã làm tục
sang tên quyền sử dụng đất theo đúng quy định. Ngày 04/7/2012 ông bà đã được
UBND huyện N, tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là
GCNQSDĐ) mang tên ông Đặng Văn Th và bà (Đoàn Thị H). Khi nhận chuyển
nhượng địa chính xã có về đo cắm mốc giới, hiện mốc không còn vì gia đình bà đã
đào xây móng nhà.
Quá trình sử dụng: Sau khi được cấp GCNQSDĐ tháng 8/2012 vợ chồng bà
đã làm móng nhà, kết cấu móng thẳng, để râu cột sắt chờ chạy dài hết thửa đất
(20m) tổng 07 cột, mặt móng 30cm. Khi đào móng anh L và ông Nhừ là bố đẻ chị T
có biết ra ngắm không ai có ý kiến gì. Đến khoảng năm 2014 vợ chồng anh L, chị T
làm nhà, anh L sang nhờ bà cho gia đình anh đánh vữa và đi nhờ chuyển vật liệu khi
xây trên nền đất trống của thửa 100
-12
bà
đồng ý. Do vợ chồng bà đi làm ăn trên Hà
Nội thường xuyên vắng nhà, nên không biết vợ chồng chị T xây nhà như thế nào,
nhưng khi nhà anh L làm móng và phun cát lên nền bà có biết bà không có ý kiến
tranh chấp gì.
Đến khoảng năm 2020 vợ chồng bà không đi làm xa nữa, về quê sinh sống,
khi bà dọn cỏ trên nền đất thửa 100
-12
mới phát hiện vữa chân tường nhà anh L đè
lên móng nhà bà cụ thể: Bề mặt móng nhà bà đổ rộng 35cm, hiện lớp vữa trát chân
tường phía Tây nhà anh L, chị T đè lên mặt móng nhà bà từ phía Nam tại cột râu sắt
số 1 và số 2 mặt móng hiện là 33cm; cột số 3 bề mặt móng là 30cm; cột số 4 bề mặt
móng là 27cm; cột số 5, số 6 bề mặt móng là 30cm và cột phía Bắc số 7 bề mặt
móng còn là 30,1cm (có ảnh chụp cột 3,4,5 bà cung cấp cho Tòa án).
Bà xác định vị trí móng nhà bà và nhà anh L xây là đúng, nên bà đề nghị Tòa
án làm rõ ranh giới khe móng giữa 2 nhà. Nếu nhà anh L, chị T vả vữa chân tường
dầy sang móng nhà bà, bà yêu cầu chị T, anh L vạc đi để lộ ranh giới móng cho nhà
bà chạy dài hết thửa đất tránh tranh chấp về sau, trên tường có nghiêng sang bà cũng
không có ý kiến gì.
Tại bản tự khai ngày ngày 18/01/2024, biên bản lấy lời khai ngày 17/4/2024
và quá trình tố tụng tại Tòa án bị đơn và là người đại diện theo ủy quyền của anh
Nguyễn Ngọc L, chị Đoàn Thị T trình bày:
Về Nguồn gốc thửa đất 100
-11
, tờ bản đồ số 12, diện tích 96m
2
vợ chồng chị
đang sử dụng là do năm 2012 vợ chồng chị nhận chuyển nhượng của vợ chồng bà
Phạm Thị Nhuần và ông Phạm Thanh Phương người cùng xã, hai bên đã làm tục
sang tên quyền sử dụng đất theo đúng quy định. Ngày 14/12/2012 anh chị đã được
cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ mang tên anh Nguyễn Ngọc L và chị (Đoàn
Thị T). Khi nhận chuyển nhượng nguyên thửa đất trên cơ quan có thẩm quyền
không tiến hành khảo sát lại.
Quá trình sử dụng: Năm 2014 vợ chồng chị xây nhà, khi làm do các hộ giáp
ranh về phía Tây là nhà bà H, ông Th đã đổ móng để râu chờ và phía Đông giáp nhà
bà Suốt, ông Th đã xây nhà kiên cố 03 tầng, 1 tum. Nên khi bố chị là ông Đoàn
Thanh Nhừ và thợ có khảo sát chị nghe nói có thiếu 01 chút không đáng kể nhưng
hai bên đã xây rồi nên cứ vậy xây lên, vợ chồng chị không có ở nhà nên không ý
kiến gì, quá trình xây nhà bà Hắng biết cũng không có ý kiến tranh chấp gì.
3
Nay bà H khởi kiện cho rằng công trình nhà chị trát vữa chân tường đè lên
móng chờ nhà bà H là không đúng, vì theo kết cầu xây dựng móng nhà chị làm bê
tông đúc cấy cột thẳng đứng 3 tầng nên không thể xây tường đè lên móng nhà bà H
được, theo kết quả đo đạc hiện trạng đất nhà chị có chiều rộng 4,8m chiều dài 20m
đúng như diện tích đất được cấp nên chị không nhất trí yêu cầu khởi kiện của bà H.
Thực tế phần vữa trát chân tường nhà chị có đè lên móng nhà bà H hay không, diện
tích cụ thể như thế nào chị không biết, vì đều do thợ làm, hiện đất nhà chị đủ nên đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 17/4/2024 người làm chứng
ông Đoàn Văn Thể trình bày: Ông là chủ thầu công trình chuyên nhận xây dựng nhà
ở dân dụng. Năm 2014 ông có nhận công trình xây dựng nhà ở cho nhà anh Nguyễn
Ngọc L, không có bản thiết kế theo quy định mà chỉ làm theo ý chủ nhà phác thảo
nhà 03 tầng mái bằng.
Quá trình xây dựng: Diện tích nhà anh L nằm ở giữa phía Đông thửa đất là
nhà ông Th bà Suốt đã xây nhà kiên cố 04 tầng, nhà phía Tây thửa đất nhà bà H, ông
Th đã đổ móng sẵn để râu chờ cột. Trước khi xây đại diện gia đình anh L, có ông
Đoàn Thanh Nhừ (bố đẻ của chị T) cùng thợ các ông có khảo sát đủ kích thước rộng
4,8m, dài 20m nên tiến hành thi công lót cót 2 bên để chống dính bám giữa 2 nhà,
móng bê tông đúc cấy cột thẳng đứng 3 tầng.
Theo kỹ Tật xây dựng râu cột trờ sát biên ngoài cách 03cm để khi đổ cột
22cm mới khớp. Ông có xây nhà cho vợ chồng bà H Th vào cuối tháng 9/2010 đối
với nhà ông bà H đang ở hiện nay, còn diện tích móng nhà bà H giáp nhà anh L ông
không làm nên ông không biết kết cấu móng như thế nào.
Thực tế kết cấu xây dựng: Ông đi làm cho nhiều công trình, nếu công trình hộ
liền kề có lấn sang đất của hộ bên cạnh (chưa xây), thì cũng chỉ là lớp vữa chát chứ
không thể xây đè lên móng, vì móng đổ cột thắng nên không thể xây khác được.
Ngoài ra ông Thể không cung cấp gì thêm và cam đoan lời trình bày trên là đúng,
nếu sai ông hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tại phiên tòa:
Bà H trình bày: Bà giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà không tranh chấp về
diện tích đất thừa hay đất thiếu, bà khảng định móng 2 nhà xây là đúng và móng nhà
anh L đổ cao hơn móng nhà bà. Khi nhà anh L ép bê tông và trát phần dưới chân
móng dầy nên đè lên móng nhà bà cụ thể từng vị trí theo tài liệu bà cung cấp từ
02cm - 07cm. Bà đề nghị Tòa án buộc vợ chồng anh L phải nạo bỏ phần vữa dầy trát
đề lên móng nhà bà để trả lại đúng diện tích mặt móng cho gia đình bà tránh tranh
chấp về sau. Bà nhất trí với kết quả đo đạc hiện trạng diện tích đất nhà bà và nhà anh
L, chị T đang sử dụng.
Chị T trình bày: Giữ nguyên lời trình bày trên, theo kết quả đo đạc hiện trạng
của Công ty TNHH Ân Khánh diện tích đất nhà chị đủ không thừa, vữa tường nhà
chị không đè lên móng nhà bà H nên chị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
H, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã chấp
4
hành đúng pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.
- Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Căn cứ các Điều 159, 174 và 175 Bộ luật Dân sự; các Điều 166, 170 và 203
Luật Đất đai:
Đề nghị xử: Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp ranh
giới quyền sử dụng đất” của bà Đoàn Thị H. Xác định ranh giới thửa đất 100
-12
GCNQSDĐ tên bà Đoàn Thị H và ông Đặng Văn Th với thửa đất 100
-11
GCNQSDĐ
tên anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn Thị T là mép ngoài cùng bức tường phía Tây
nhà 03 tầng của anh L, chị T xây dựng nằm trên thửa đất 100
-11
có vị trí: Phía Bắc
giáp mương do UB quản lý dài 4,8m; phía Nam giáp đất lưu không đường Vàng dài
4,8m; phía Đông giáp tường nhà ông Th, bà Suốt dài 20m và phía Tây giáp đất nhà
bà H dài 20m, tờ bản đồ số 12, tại đường Vàng, thôn Tây Cổ Gia, xã N, huyện N,
tỉnh Nam Định.
Buộc anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn Thị T phải có trách nhiệm cắt bỏ phần
vữa bê tông chân tường đổ dầy hơn mặt phẳng tường nhà ở phía Tây tính mặt móng
nhà bà H, ông Th lên trên tường nhà anh L, chị T là 18cm, cách mép ngoài cùng
tường nhà phía Bắc nhà anh L, chị T đến điểm đầu tiên phải cắt bỏ là 10,9m đến
điểm cuối phải cắt bỏ là 12,4m. Phần bê tông trát lồi sang đất nhà bà H, ông Th vợ
chồng anh L, chị T phải cắt bỏ chỗ dầy nhất là 2,5cm, cắt bằng phẳng so với mặt
phẳng mép ngoài cùng của bức tường.
2. Về chi phí tố tụng khác: anh L và chị T phải chịu 1/2, bà H phải chịu 1/2 số
tiền chi phí cho việc xem xét, thẩm định và định giá tài sản.
3. Án phí DSST: căn cứ điểm đ Điều 12, Điều 26 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án: do yêu cầu của bà H được chấp nhận 1 phần nên bà
H phải chịu ½ án phí không có giá ngạch, anh L, chị T phải chịu ½ án phí không có
giá ngạch. Xét thấy bà Đoàn Thị H là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên
miễn án phí cho bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện N nhận
định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm
chứng vắng mặt. Nhưng anh L đã có văn bản ủy quyền cho chị T và ông Th đã có
văn bản ủy quyền cho bà H tham tố tụng cho đến khi kết thúc, ông Thể có ý kiến xin
vắng mặt. Tại phiên tòa bà H và chị T đều có mặt là phù hợp với quy định tại khoản
2 Điều 228; khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án vẫn tiến hành xét
xử vụ án.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn bà Đoàn Thị H khởi kiện đề nghị Tòa
án xác định ranh giới đất ở giữa nhà bà với nhà anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn Thị
T. Vì vậy, xác định đây là vụ án “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất” theo quy
định tại Điều 175 Bộ luật dân sự.
5
[3] Về nguồn gốc đất các hộ đang sử dụng thửa 100 tại xã N:
- Sao lục bản đồ địa chính 299 xã N lập năm 1986 đất do UB quản lý;
- Trích lục bản đồ địa chính khu đất T hồi GPMB năm 2007;
- Mặt bằng quy hoạch chi tiết khu dân cư;
- Quyết định phê duyệt kết quả đấu giá ngày 23/5/2028 và quyết định giao đất
ngày 25/6/2028 cho hộ bà Phạm Thị Nhuần và hộ anh Nguyễn Văn Tuân làm nhà ở.
- Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nhuần, ông Phương cho
anh L, chị T và anh Tuân, chị Trang cho ông Th, bà H.
- Đơn đăng ký quyền sử dụng đất năm 2012 của ông Th, bà H và của anh L,
chị T;
[4] Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 28/3/2024 cho thấy:
4.1. Thửa đất số 100
-12
hiện bà H, ông Th đang sử dụng có tổng diện tích là
94,9m
2
; đất có vị trí: Phía Bắc giáp mương do UB quản lý dài 4,72m; phía Nam giáp
đất lưu không đường Vàng dài 4,77m; phía Đông giáp tường nhà anh L, chị T dài
20m và phía Tây giáp nhà bà (bà H, ông Th) dài 20m. So với diện tích được cấp
96m
2
thì hiện trạng đất bà H thiếu 1,1m
2
;
4.2. Thửa đất số 100
-11
hiện anh L và chị T đang sử dụng có tổng diện tích là
96m
2
; đất có vị trí: Phía Bắc giáp mương do UB quản lý dài 4,8m; phía Nam giáp
đất lưu không đường Vàng dài 4,8m; phía Đông giáp tường nhà ông Th, bà Suốt dài
20m và phía Tây giáp móng nhà bà H, ông Th dài 20m. So với diện tích được cấp
96m
2
là phù hợp;
4.3. Theo biên bản xem xét thẩm định bổ sung ngày 31/5/2024 về việc đo mặt
móng nhà bà H, ông Th thể hiện: Móng nhà bà H, ông Th về phía Đông giáp nhà
anh L, chị T để 05 cột để râu sắt chờ (không tính cột đầu phía Nam và cột cuối phía
Bắc) tình từ Nam đến Bắc ta có các cột 1,2,3,4,5; phía Tây giáp nhà bà H, ông Th
(tính từ Bắc đến Nam ta có các cột 6,7,8,9,10). Diện tích mặt móng vị trí từ cột 1
đến cột 2 rộng 34cm; từ cột 3-4 rộng 31cm; vị trí cột 5 rộng 32cm; vị trí cột 6 rộng
34cm và cột 10 rộng 40cm. Đặt dây kéo thẳng mép trong cùng mặt giằng bê tông
móng nhà bà H từ cột 2 đến cột 4 thể hiện ở vị trí cột số 3 (là cột 4 theo bà H cung
cấp) có khoảng trống chưa đổ bê tông tính từ mép giằng đến dây là 3,5cm. Vị trí
giữa cột 2 và cột 3 (là cột 4 và 5 theo bà H cung cấp) tính từ mặt móng nhà bà H lên
tường nhà anh L là 18cm có điểm gồ do vữa trát bê tông lồi ra phía đất bà H chỗ dầy
nhất là 2,5cm, dài 1,5m.
[5] Theo biên bản định giá tài sản ngày 11/4/2024 kết luận: Giá trị quyền sử
dụng đất ở tại đường Vàng đang tranh chấp tại thời điểm định giá theo giá thị trường
tại địa phương là 30.000.000đồng/1m
2
. Giá trị bức tường nhà 03 tầng xây gạch đỏ,
khung cốt bê tông cốt thép của nhà anh L chị T đang sử dụng xây liền kề thửa đất
nhà bà H, ông Th có tổng giá trị là 76.800.000 đồng. Giá trị móng nhà xây gạch đỏ
đổ giằng bê tông cốt thép trên diện tích đất của bà Đoàn Thị H và ông Đặng Văn Th
có trị giá 12.900.000 đồng
[6] Quá trình các đương sự sử dụng đất: Năm 2012 vợ chồng bà H, ông Th và
vợ chồng anh L, chị T đều nhận chuyển nhượng của người khác, đều đã làm thủ tục
6
đăng ký quyền sử dụng đất và đã được cấp GCNQSDĐ theo quy định. Sau khi được
cấp giấy GCNQSDĐ vào tháng 8/2012 ông Th, bà H làm móng để râu sắt chờ đổ cột
chạy dài hết thửa đất, trước khi làm móng bà H có cho thợ khảo lại đất hai nhà đều
đủ kích thước dài rộng, anh L biết không có ý kiến gì. Năm 2014 gia đình chị T, anh
L làm nhà 3 tầng trên tổng diện tích 96m
2
, khi nhà anh L, chị T hạ móng và phun cát
vào nền nhà bà H đều biết và không có ý kiến gì, quá trình xây dựng gia đình bà H
còn tạo điều kiện cho thợ nhà anh L, chị T đi lại trên nền đất trống thửa 100
-12
để
đánh vữa và vận chuyển vật liệu, các đương sự sử dụng ổn định đến năm 2020
không ai có tranh chấp gì.
Nay bà H khởi kiện đề nghị Tòa án làm rõ ranh giới móng giữa nhà bà với
nhà anh L chị T. Nếu nhà anh L, chị T vả vữa chân tường sang móng nhà bà, bà yêu
cầu vợ chồng anh L vạc đi để lộ ranh giới móng cho nhà bà chạy dài hết thửa đất
tránh tranh chấp về sau. Chị T không nhất trí yêu cầu khởi kiện của bà H vì kết cầu
xây dựng móng nhà chị làm bê tông đúc cấy cột thẳng đứng 3 tầng, nên không thể
xây tường đè lên móng nhà bà H. Người làm chứng ông Thể trình bày “Theo kỹ Tật
xây dựng râu cột trờ sát bên ngoài cách 03cm để khi đổ cột 22cm mới khớp và móng
hiện tại đổ cột thắng nên không thể xây đè lên móng nhà khác được”
[7] Căn cứ vào các tài liệu các đương sự cung cấp và Tòa án T thập thể hiện:
Theo kết quả đo đạc hiện trạng diện tích đất nhà anh L và chị T đang sử dụng đủ,
đúng so với diện tích đất được cấp có tổng diện tích 96m
2
với chiều rộng 4,8m và
chiều dài 20m; nhà bà H đang sử dụng có diện tích 94,9m
2
với chiều rộng phía Bắc
giáp mương là 4,72m; phía Nam giáp đất lưu không đường Vàng là 4,77m và chiều
dài 20m, so với diện tích đất được cấp thiếu 1,1m
2
, các đương sự đều nhất trí với kết
quả đo đạc hiện trang trên.
Đối với tài liệu bà H cung cấp về mặt móng nhà bà đối chiếu với kết quả xác
minh cho thấy: Chiều ngang bề mặt móng nhà bà H không đều nhau do giằng bê
tông phía lòng đất nhà bà H không thẳng có khoảng trống thể hiện từ cột 2 đến cột 4
(tức cột 3 đến cột 5 theo bà H cung cấp) khi dây kéo thẳng tại vị trí cột số 3 (tức cột
4 theo bà H cung cấp) từ mép bê tông ra đến dây kéo không đổ bê tông rộng 3,5cm.
Do vậy, tài liệu bà H cung cấp cột dâu chờ số 4 đo từ chân tường nhà anh L ra mặt
móng nhà bà còn 27cm là đúng, từ cột 5 đến cột bề mặt móng nhà bà là 30cm phù
hợp với lời khai của bà H tại biên bản lấy lời khai ngày 17/4/2024 “Nhà bà đổ móng
thẳng để cột sắt chờ chạy dài hết thửa đât gồn 07 cột mặt móng 30cm”. Do vậy,
không có căn cứ xác định chiều ngang mặt móng nhà bà H rộng 35cm và bả vữa trát
chân tường nhà anh L chị T đè lên móng nhà bà H từ 02cm đến 08cm như tài liệu bà
H cung cấp.
Tuy nhiên theo biên bản xác minh đo đạc hiện trạng bổ sung thể hiện bức
tường phía Tây nhà anh L, chị T giáp móng nhà bà H, ông Th từ cột râu sắt trờ số 2
đến cột 3 (Tức từ cột 3 đến cột 4 theo bà H cung cấp) khi dây kéo thẳng tính từ mặt
móng nhà bà H sát chân tường nhà anh L đo lên tường nhà anh L cao 18cm có phần
vữa trát bê tông tường lồi sang phía đất bà H, ông Th điểm dầy nhất là 2,5cm. Vị trí
phần vữa gồ cách mép ngoài cùng tường nhà phía Bắc nhà anh L, chị T đến điểm
đầu tiên là 10,9m đến điểm gồ cuối là 12,4m, ngoài ra bức tường phía Tây nhà chị T
anh L là một mặt phẳng
7
[8] Từ phân tích trên HĐXX thấy: Có căn cứ chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi
kiện của bà Đoàn Thị H. Xác định ranh giới thửa đất 100
-12
GCNQSDĐ tên bà Đoàn
Thị H và ông Đặng Văn Th với thửa đất 100
-11
GCNQSDĐ tên anh Nguyễn Ngọc L
và chị Đoàn Thị T là mép ngoài cùng bức tường phía tây của nhà ở 03 tầng do anh
L, chị T xây dựng nằm trên thửa đất 100
-11
có vị trí: Phía Bắc giáp mương do UB
quản lý dài 4,8m; phía Nam giáp đất lưu không đường Vàng dài 4,8m; phía Đông
giáp tường nhà ông Th, bà Suốt dài 20m và phía Tây giáp đất nhà bà H dài 20m, tờ
bản đồ số 12, tại đường Vàng, thôn Tây Cổ Gia, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.
Buộc anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn Thị T phải có trách nhiệm cắt bỏ phần
vữa bê tông đổ dầy hơn mặt phẳng tường nhà ở phía Tây tính mặt móng nhà bà H,
ông Th lên trên tường nhà anh L, chị T là 18cm, cách mép ngoài cùng tường nhà
phía Bắc nhà anh L, chị T đến điểm đầu tiên phải cắt bỏ là 10,9m đến điểm cuối phải
cắt bỏ là 12,4m. Phần bê tông đổ lồi sang đất nhà bà H, ông Th vợ chồng anh L, chị
T phải cắt bỏ chỗ dầy nhất là 2,5cm. Như vậy, đoạn bê tông anh L, chị T phải cắt bỏ
có chiều dài 1,5m, cao 18cm cắt bằng theo phương thẳng đứng vuông góc với mặt
phẳng mép ngoài cùng của bức tường phía Tây nhà chị H, anh L để trả lại mặt móng
cho bà H và ông Th.
[9] Về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng khác: Tổng số tiền chi phí cho việc xem
xét, thẩm định và định giá tài sản là 5.935.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của bà H
được chấp nhận 1 phần nên theo quy định tại Điều 157; Điều 165 Bộ luật Tố tụng
dân sự, số tiền chi phí này buộc bà H và vợ chồng anh L, chị T có nghĩa vụ liên đới
nộp cụ thể mỗi bên phải chịu 1/2. Bà Đoàn Thị H là người có đơn yêu cầu nên đã
nộp toàn bộ số tiền 5.935.000 đồng theo quy định. Vì vậy, buộc anh L, chị T phải có
nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Đoàn Thị H số tiền (5.935.000đ:2=2.967.500đ) làm tròn
là: 2.968.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi tám nghìn đồng).
[10] Về án phí: Do yêu cầu của bà H được chấp nhận 1 phần, nên bà H phải
nộp án phí dân sự sơ thẩm với số tiền 150.000 đồng. Tuy nhiên bà H là người cao
tuổi, có đơn xin miễn án phí, nên miễn án phí cho bà Đoàn Thị H. Anh Nguyễn
Ngọc L và chị Đoàn Thị T liên đới nộp 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo
quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ Điều 12; Điều 26 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án.
[11] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 159, 174, 175 Bộ luật dân sự; Điều 166, 170, 203 Luật đất đai
2013; Điều 147; các Điều 157; 165; khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm
đ Điều 12; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp ranh giới
quyền sử dụng đất” của bà Đoàn Thị H.
8
Xác định ranh giới thửa đất 100
-12
GCNQSDĐ tên bà Đoàn Thị H và ông
Đặng Văn Th với thửa đất 100
-11
GCNQSDĐ tên anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn
Thị T là mép ngoài cùng bức tường phía Tây nhà 03 tầng của anh L, chị T xây dựng
nằm trên thửa đất 100
-11
có vị trí: Phía Bắc giáp mương do UB quản lý dài 4,8m;
phía Nam giáp đất lưu không đường Vàng dài 4,8m; phía Đông giáp tường nhà ông
Th, bà Suốt dài 20m và phía Tây giáp đất nhà bà H dài 20m, tờ bản đồ số 12 tại
đường Vàng, thôn Tây Cổ Gia, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. (Có sơ đồ kèm theo)
Buộc anh Nguyễn Ngọc L và chị Đoàn Thị T phải có trách nhiệm cắt bỏ phần
vữa bê tông chân tường đổ dầy hơn mặt phẳng bức tường phía Tây nhà anh L, chị T
(điểm dày nhất là 25cm) dài 1,5m, cao 18cm cụ thể như sau: Do từ mép ngoài cùng
bức tường phía Bắc nhà anh L, chị T đến điểm đầu tiên phải cắt bỏ là 10,9m kéo dài
đến điểm cuối phải cắt bỏ là 12,4m (đoạn phải cắt bỏ dài 1,5m), tính từ mặt móng
nhà bà H, ông Th sát lên trên tường nhà anh L, chị T là 18cm (cao 18cm). Cắt bằng
theo phương thẳng đứng vuông góc với mặt phẳng mép ngoài cùng của bức tường
phía Tây nhà anh L, chị T để trả lại mặt móng cho bà H và ông Th.
3. Về chi phí tố tụng khác: Anh L và chị T liên đới có nghĩa vụ hoàn trả cho
bà Đoàn Thị H số tiền chi phí cho việc xem xét, thẩm định và định giá tài sản là
2.968.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi tám nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động thi hành án) hoặc kể từ ngày người được thi hành án có
đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả khoản tiền, H tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
4. Án phí DSST: Miễn án phí cho bà Đoàn Thị H. Hoàn trả lại cho bà H
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai T tiền số 0004928 ngày
13/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Nam Định.
Anh L và chị T liên đới phải nộp 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án.
Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tỉnh Nam Định;
- VKS nhân dân huyện N;
- Chi cục THA dân sự huyện N;
- Các đương sự;
- UBND xã N;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Ánh
Tải về
Bản án số 12/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 12/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm