Bản án số 119/2024/DS ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 119/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 119/2024/DS ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 119/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn H, bà Phan Thị P với bị đơn ông Nguyễn Ngọc T, bà Trương Thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 119/2024/DS PT
Ngày 13 9 2024;
V/v Tranh chấp về quyền sử dụng đất;
yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
ông Phạm Quốc Bảo;
Nguyễn Thị Liên.
- Thư phiên tòa: ông Nguyễn Thành Đạt - Thư Tòa án nhân n tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: ông
Lương Quốc Phòng - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 61/2024/TLPT - DS ngày 08 tháng 8 năm 2024
về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”;
Do Bản án dân sự thẩm số 132/2024/DS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s79/2024/QĐ - PT ngày 21
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Các nguyên đơn: ông Nguyễn H, sinh năm 1951 và bà Phan Thị P, sinh năm
1956; cùng địa chỉ: Tổ A, khối phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
- c bị đơn: ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1959 Trương Thị L, sinh
năm 1956; các bị đơn ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1986 (theo văn
bản ủy quyền ngày 24 tháng 7 năm 2023); cùng địa chỉ: Tổ A, khối phố A, phường
A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Sở Tài nguyên i trường tỉnh Q; địa chỉ: Số A đường H, thành phố
T, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Văn C, Phó Giám đốc
Văn phòng Đăng ký Đất đai tỉnh Q.
2. Ủy ban nhân dân phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại
diện theo pháp luật: ông Ngọc P1, Chủ tịch UBND. Người đại diện theo ủy
quyền: ông Trần Đăng H1, Công chức địa chính – Xây dựng UBND phường A (theo
văn bản ủy quyền ngày 21 tháng 5 năm 2024);
3. Văn phòng C2; địa chỉ: Số H T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Người đại
diện theo pháp luật:Đinh Thị H2, Trưởng Văn phòng.
4. Ông Ngô Tấn T1, sinh năm 1965; địa chỉ: thôn P, T, thành phố T, tỉnh
Quảng Nam;
2
5. Nguyễn Thị Thu H3, sinh năm 1987 ông Phan L1, sinh năm 1979
(đã chết); cùng địa chỉ: Số A C, khối phố M, phường T, thành phố T, tỉnh Quảng
Nam.
6. Ông Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1983;
7. Ông Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1986;
Cùng địa chỉ: Tổ A, khối phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
8. Nguyễn Thị N, sinh năm 1988; địa chỉ: K, thị trấn H, huyện T, tỉnh
Quảng Nam;
- Người kháng cáo: các nguyên đơn Nguyễn H, Phan Thị P.
Các ông, bà H, P, L, Q có mặt. Những người tham gia tố tụng khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phía nguyên đơn cho rằng: năm 1992, vợ chồng nguyên đơn khai phá diện
tích đất hoang 677m
2
đtrồng keo tràm sử dụng ổn định. Năm 2017, vợ chồng
nguyên đơn hiến một phần diện tích đất để xây Nhà Văn hóa khối phố A1 mở rộng,
năm 2018 hiến thêm một phần đất để mở đường tông 03m sát bên hông nhà văn
hóa, còn lại 119,4m
2
hai mặt tiền giáp đường bê tông, hướng còn lại giáp nhà ông
T3 nhà ông H thì gia đình nguyên đơn vẫn trồng cây, sử dụng. Năm 2019, các
nguyên đơn khai lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất này tông T3 đồng ý nhưng vợ chồng ông T cản trở, không ký tứ cận.
Các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sử dụng diện tích đất 71,5m
2
thuộc thửa 981, tờ bản đồ số 6, tại khối phA, phường A thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của các nguyên đơn; yêu cầu tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông T, L với ông Phan L1, Nguyễn Thị Thu H3 liên quan đến
thửa đất số 544, tờ bản đồ số 6, tại phường A, thành phố T lập và công chứng tại Văn
phòng C2 ngày 06 tháng 3 năm 2023; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q cấp cho ông T, L m 2016 đối với
thửa đất số 544, tờ bản đồ số 6. Tại phiên tòa, phía nguyên đơn rút lại yêu cầu tuyên
bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông T với vợ
chồng ông L1 và hủy Giấy chứng nhận liên quan đến thửa đất số 544, tờ bản đồ số 6.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng: gia
đình bị đơn được giao thửa đất số 380, tờ bản đồ số 29, diện tích 650m
2
tại phường
A, thành phố T, được Ủy ban nhân dân thị xã T cấp Giấy chứng nhận năm 1995,
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi Giấy chứng nhận đối với thửa 544,
tờ bản đồ số 6, diện tích 710,9m
2
. Việc sử dụng đất của các nguyên đơn trước đây
giáp với bờ đất của gia đình bị đơn sử dụng trồng cây khoảng đất trống không ai
sử dụng. Năm 2017, chính quyền lấy đất của ông H trồng cây để xây dựng Nhà văn
H4. Năm 2018, chính quyền lấy thêm đất của ông H để làm đường bê tông. Phần diện
tích đất còn lại ông H kê khai, đăng ký và kê khai luôn phần bờ đất mà phía bị đơn sử
dụng từ năm 1983, trên đất tranh chấp có cây bạc hà của bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:
- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q không có ý kiến.
- Ủy ban nhân dân phường A cho rằng diện tích đất tranh chấp thuộc thửa đất
số 563, tờ bản đồ s6, diện tích 2.454,5m
2
, loại đất DHS Nhà văn hóa khối phố A1,
do Ủy ban nhân dân phường quản lý, nhưng trên thực tế thì vị trí đất tranh chấp giữa
3
hai bên không nằm trong ranh giới đất Nhà n hóa khối phố A1 do quá trình đo
đạt đã đo bao luôn diện tích đất tranh chấp vào thửa 563.
- Văn phòng C2 không phản hồi ý kiến.
- Các ông, bà Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc Q, Nguyễn Thị N không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, thống nhất với quan điểm của các bị đơn.
- Bà Nguyễn Thị Thu H3 và ông Phan L1 (khi còn sống) không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của các nguyên đơn, đề nghị giải quyết vụ án theo pháp luật quy định.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 132/2024/DS - ST ngày
23 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ
các điều 26, 35, 39, 147, 157, 158, 165, 228, 229, 235, 271, 273, 244 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; các điều 12, 100, 166, 170 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn H, Phan Thị P về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất” với bị đơn ông Nguyễn Ngọc T, Trương Thị L;
diện tích đất tranh chấp nguyên đơn yêu cầu công nhận nhưng không được chấp
nhận 71,5m
2
thuộc thửa đất 981, tờ bản đồ số 6 (cơ sở dữ liệu năm 2017 thửa
đất số 573, tờ bản đồ số 6), tại khối phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định án phí, chi phí ttụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 06 tháng 6 năm 2024, các nguyên đơn Nguyễn
Học, Phan Thị P kháng cáo toàn bộ bản án thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, các
nguyên đơn xác định không kháng cáo phần bản án sơ thẩm đã đình chỉ xét xử do các
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện, kháng cáo phần còn lại của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
phát biểu ý kiến: a án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thụ lý, xét xử vụ án; đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không
chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn, giữ nguyên Bản án thẩm số
132/2024/DS - ST ngày 23 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh
Quảng Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng
[1.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
tại phiên a thẩm, xác định kháng o phần bản án thẩm về việc xem xét yêu
cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng 71,5m
2
đất của các nguyên đơn; các đương
sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.
[1.2]. Các nguyên đơn t lại phần kháng cáo liên quan đến nội dung đình ch
xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bản án thẩm do các nguyên đơn đã tự
nguyện rút tại phiên tòa thẩm; phía bị đơn đồng ý việc các nguyên đơn rút một
phần nội dung kháng cáo. Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ xét xử phúc thẩm phần nội dung kháng cáo này.
4
[1.3]. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo quy định tại các điều 294, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
[2]. Xét kháng cáo của các nguyên đơn
[2.1]. Về thủ tục tố tụng tại cấp phúc thẩm:
[2.1.1]. Việc thụ kháng cáo của các nguyên đơn trong thời hạn, đúng điều
kiện, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên
kháng cáo của ông Nguyễn H và bà Phan Thị P là hợp pháp.
[2.1.2]. Ông Phan L1 chết trước thời điểm xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm
không đưa những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Phan L1 tham gia tố
tụng trong vụ án theo quy định tại Điều 74 B luật Tố tụng dân snăm 2015. Tuy
nhiên, các nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện Tòa án cấp thẩm đã đình chỉ
giải quyết yêu cầu khởi kiện liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ông Phan L1; tại
phiên tòa phúc thẩm, các nguyên đơn khẳng định không kháng cáo phần bản án sơ
thẩm về đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Theo đó, căn cứ Điều
293 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về phạm vi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử
không đánh giá tính hợp pháp của bản án sơ thẩm về nội dung này.
[2.2]. Về nội dung kháng cáo
Nguyên đơn kháng cáo, yêu cầu công nhận quyền sử dụng 71,5m
2
, thuộc một
phần thửa đất số 981, tờ bản đồ số 6, tại khối phố A, phường A, thành phố T. Hội
đồng xét xử thấy:
Thứ nhất, các nguyên đơn khai sử dụng đất tranh chấp từ năm 1992 ổn định
đến năm 2019, khai, đăng ký, đề nghị cấp Giấy chứng nhận thì tranh chấp với bị
đơn. Tại biên bản hòa giải ngày 26 tháng 11 năm 2020, các thành viên Tổ hòa giải
gồm các ông Nguyễn Văn V, Nguyễn Ngọc A, Nguyễn H5 xác nhận ông H trồng cây
trên đất, riêng ông Nguyễn Ngọc A xác nhận ông H trồng cây trên đất 20 năm (BL
08, 09); trong quá trình tố tụng, ông Nguyễn Ngọc T Trương Thị L2 (L) thừa
nhận trước đây giáp với bờ đất của gia đình tôi sử dụng trồng cây khoảng đất
trống, không ai sử dụng. Gia đình ông Nguyễn H sử dụng diện tích đất này để trồng
cây. Năm 2017, Nhà văn hóa khối phố A1 xây dựng mở rộng, khối phố có lấy lại diện
tích đất ông H trồng cây…Đến năm 2018, nhà nước tiếp tục lấy thêm một phần
đất trồng cây của ông H để mở rộng đường tông…Chúng tôi không đồng ý với
phần diện tích đất chúng tôi đã sử dụng trồng cây với diện tích
52,56m
2
…Riêng đối với diện tích đất còn lại của thửa đất số 981 của ông H khai,
đăng thì chúng tôi không ý kiến gì” (BL 33, 43, 103, 133); ông Nguyễn Minh
C1 xác nhận: “tôi làm Phó thư Chi bộ, từ năm 2016 làm thư Chi bộ…tôi xác
nhận số cây sau Nhà văn hóa khu phố cây đ/c Học trồng, thời gian tôi không
rõ…”(BL 187); ông Ngô Tấn T1 xác nhận “năm 2001 tôi mua đất của ông
Nguyễn H, Phan Thị P…tại khối phố A, phường A, diện tích đất này tôi đã được
cấp Giấy chứng nhận…” (BL 93). Mặt khác, người sử dụng đất liền kề cửa thửa đất
981 ông Phan Văn T3 đã xác nhận ranh giới, mốc giới trong hồ sơ đề nghị cấp
Giấy chứng nhận của ông Nguyễn H (BL 17); kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ do
Tòa án thực hiện cho thấy trên đất tranh chấp 03 cây keo tràm đường kính từ
15cm đến 30cm 26 cây tràm đường kính từ 5cm đến 10cm, tài sản này phía bị
đơn thừa nhận của các nguyên đơn (BL 87). Theo đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để
5
xác định các nguyên đơn là người đang sử dụng đất tranh chấp, thời gian bắt đầu s
dụng từ khoảng trước năm 2000.
Thứ hai, hồ đăng 64/CP thể hiện ông Nguyễn H đăng sdụng
thửa đất số 380, tờ bản đồ số 29, diện tích 200m
2
, loại đất màu (BL 78, 72), nhưng
ngày 09 tháng 4 năm 2024, Ủy ban nhân dânA xác nhận lại là theo hồ 64/CP
thì vị trí đất tranh chấp thuộc tờ bản đồ số 29 không thể hiện số thửa…” (BL 184).
Các nguyên đơn khai trước đó không đăng sử dụng diện tích đất tranh chấp tại
quan có thẩm quyền, đến năm 2019 mới đăng ký. Theo đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở
xác định các nguyên đơn sử dụng 71,5m
2
đất tranh chấp ổn định nhưng không có một
trong các giấy tờ theo quy định tại Điều 137 Luật Đất đai năm 2024.
Thứ ba, Ủy ban nhân dân phường A xác định: “vị trí đất tranh chấp thuộc một
phần thửa đất s573, tờ bản đồ số 6, diện tích 2454,5m
2
, loại đất HSH nhà văn hóa
khối phố A1, do Ủy ban nhân dân phường Q1. Nhưng trên thực tế thì vị trí đất tranh
chấp giữa hai bên không nằm trong ranh giới đất nhà văn hóa do phường quản lý mà
do trong quá trình đo đạc hồ sở dữ liệu quản đất đai đã đo bao luôn vị trí
thửa đất tranh chấp” (BL 184). Mặt khác, phía bị đơn xác nhận đất tranh chấp không
thuộc thửa đất số 544, tờ bản đồ số 6, diện tích 710,9m
2
mà các bị đơn được cấp Giấy
chứng nhận (đã chuyển nhượng cho H3 ông L1 - BL 133); cán bộ địa chính
phường A cũng xác nhận diện tích đất tranh chấp không liên quan đến thửa đất số
544, tờ bản đồ số 6, diện tích 710,9m
2
(BL 116a, 116b, 159). Theo đó, Hội đồng xét
xử sở xác định: diện tích đất tranh chấp không thuộc quyền quản lý, sử dụng
hợp pháp của chủ thể khác, chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
tổ chức, cá nhân nào.
Thứ tư, phía bị đơn cho rằng sử dụng đất tranh chấp từ năm 1983, 01 cây
bạc trên đất tranh chấp của phía bị đơn nhưng không chứng cứ chứng minh
không đưa ra yêu cầu liên quan đến quyền sử dụng đất tài sản trên đất tranh
chấp.
Thứ năm, Điều 184 Bộ luật Dân snăm 2015 quy định “Trường hợp có tranh
chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán người có quyền
đó”; khoản 6 Điều 138 Luật Đất đai năm 2024 quy định “Hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc nhóm đất nông nghiệp, nay được Ủy ban
nhân n cấp nơi đất xác nhận không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất…”.
Đối chiếu c nhận định trên với c quy định của pháp luật đã viện dẫn, Hội
đồng xét xử xác định: quyền sử dụng 71,5m
2
đất tranh chấp do các nguyên đơn đang
chiếm hữu, không có chứng cứ chứng minh tài sản này thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của người khác nên các nguyên đơn được thừa nhận người đang sử dụng thửa đất
này; các nguyên đơn sử dụng đất thuộc nhóm đất nông nghiệp từ trước năm 2000 ổn
định đến nay, không các giấy ttheo quy định tại Điều 137 Luật Đất đai năm
2024, thuộc trường hợp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
tại khoản 6 Điều 138 Luật Đất đai năm 2024. Do vậy, Tòa án cấp thẩm không
công nhận quyền sử dụng đất của các nguyên đơn đối với 71,5m
2
đất tranh chấp
quyết định không phợp với sự thực khách quan của vụ án, ảnh hưởng đến quyền
lợi hợp pháp của các nguyên đơn. Theo đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng o
của các nguyên đơn, sửa một Bản án thẩm số 132/2024/DS - ST ngày 23 tháng 5
6
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo hướng chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
[2.3]. Về án phí và chi phí tố tụng
[2.3.1]. Về án phí dân sự sơ thẩm: các bị đơn phải chịu nhưng được miễn do là
người cao tuổi và có đơn xin miễn.
[2.3.2]. Chi phí tố tụng: chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản
6.613.000 đồng, các bị đơn phải chịu. Do các nguyên đơn đã nộp xong số tiền này
nên ông Nguyễn Ngọc T bà Trương Thị L phải trả cho ông Nguyễn H Phan
Thị P 6.613.000 đồng.
[2.3.3]. Án phí dân sự phúc thẩm: do bản án thẩm bsửa nên các nguyên
đơn không chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309, các điều 5, 26, 35, 39, 289, 294, 296
B lut T tng dân s năm 2015; các điều 175, 184 Bộ luật Dân sự năm 2015; các
điều 137, 138, 236 Luật Đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm nội dung kháng cáo của các nguyên đơn Nguyễn
H, Phan Thị P đối với phần quyết định của Bản án thẩm số 132/2024/DS ST
ngày 23 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam nội
dung đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc tuyên bốhiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hộ ông Nguyễn Ngọc T với vợ
chồng ông Phan L1, bà Nguyễn Thị Thu H3 được lập, công chứng tại Văn phòng C2
ngày 06 tháng 3 năm 2023, đối với thửa đất số 544, tờ bản đồ số 6, tại khối phố A,
phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Quyết định của bản án thẩm về nội
dung này có hiệu lực thi hành từ ngày đình chỉ xét xử phúc thẩm.
2. Chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn Nguyễn H, Phan Thị P, sửa Bản
án dân sthẩm số 132/2024/DS - ST ngày 23 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn; công nhận quyền sử dụng
đất của ông Nguyễn H Phan Thị P đối với 71,5m
2
đất thuộc một phần thửa đất
số 981, tờ bản đồ số 6, tại khối phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam (vị
trí, tọa độ diện tích đất thể hiện trên bản vẽ kèm theo bản án).
4. V án phí và chi phí t tng
4.1. Án phí dân s thẩm: min án phí cho ông Nguyn Ngc T
Trương Thị L.
4.2. Án phí dân s phúc thm: ông Nguyn H và bà Phan Th T4 không chu.
4.3. Chi pt tng: chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sn 6.613.000
đồng, các bị đơn phải chịu. Ông Nguyễn Ngọc T Trương Thị L phải trả cho
ông Nguyễn H và bà Phan Thị P 6.613.000 (sáu triệu, sáu trăm mười ba nghìn) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án đơn yêu cầu
thi hành án, bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng
phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
Dân sự năm 2015.
7
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 13 tháng 9
năm 2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND T.p T;
- THADS T.p T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
Tải về
Bản án số 119/2024/DS Bản án số 119/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 119/2024/DS Bản án số 119/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất