Bản án số 107/2025/DS-PT ngày 25/09/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 107/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 107/2025/DS-PT ngày 25/09/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 107/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: T/C HĐ chuyển nhượng QSDĐ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HOÁ
Bản án số: 107/2025/DS-PT
Ngày 25 tháng 9 năm 2025
“V/v: T/c HĐCN quyền sử dụng đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Thị Hà
Các Thẩm phán: Ông Lê Văn Quân và bà Lê Thị Thủy
Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Vân Anh -Thư TAND tỉnh Thanh
Hóa.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa:
Bà Lữ Thị Phương Quý-Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 72/2025/TLPT-DS ngày
12/8/2025 về “Tranh chấp HĐCN quyền sử dụng đất”, do bản án dân sự sơ thẩm
số 40/2025/DS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2025 của Toà án nhân dân khu vực 5-
Thanh Hoá bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
172/2025/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đinh Công H, sinh năm 1981 (có mặt)
Vũ Thị T, sinh năm 1984 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn M, xã V, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại din theo u quyn: Ông Nguyễn Huy H1, sinh năm 1984 (có mặt)
Địa ch: S A ph X, phường Y, Hà Ni.
Người bo v quyn li ích hp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Văn D -
Luật sư thuộc công ty TNHH Q (vắng mặt).
Địa ch: Bit th E, KĐT N, phường Y, Hà Ni
B đơn: Ông Nguyn Hu T1, sinh năm 1969 (có mặt)
Vũ Thị N, sinh năm 1972 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn M, xã V, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông T1 N: Ông Hoàng T2, sinh
năm 1959 (có mặt)
Địa chỉ: Số A, L, phường H, tỉnh Thanh Hóa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Văn phòng C3 - Người đại din ông Nguyễn Văn C - Trưởng Văn phòng,
đã bị chấm dứt hoạt động (do đã chết).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ V: Văn phòng công chứng Nguyễn Trọng
H2, Người đại diện ông Nguyễn Trọng H2 - Trưởng Văn phòng (vắng mặt)
Địa chỉ: Khu T, xã H, tỉnh Thanh Hóa.
2. Ủy ban nhân dân xã M, huyện H.
Địa chỉ: xã M, huyện H, tỉnh Thanh Hóa
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Văn N1 - Chủ tịch UBND
Người tha kế quyền nghĩa vụ ca UNND M: UBND V, tỉnh
Thanh Hoá (vắng mặt)
3. Bà Mai Thị M, sinh năm: 1985 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, tỉnh Thanh Hóa.
4. Ông Đinh Văn C1, sinh năm 1954 (có mặt)
5. Bà Mai Thị S, sinh năm 1955 (vắng mặt)
Cùng Địa chỉ: Thôn M, xã V, tỉnh Thanh Hóa
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Đinh Công H
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày:
Khoảng từ cuối năm 2019 -2021, do nhu cầu vay tiền để đầu kinh
doanh nên v chng ông Đinh Công H v Thị T đã nhờ Mai Thị
M đến gặp và thương ng vi v chng ông Nguyn Hu T1 Thị N
nhờ vay tiền nhiều lần, số tiền của các lần vay 3.200.000.000đ. Để vay s tin
trên vợ chồng ông H đã thế chấp tài sản nhà đất và tài sn trang tri gồm:
Tài sn th nhất là: Nhà đất ti thửa đất s 728a; t bản đồ s 04, din tích
234m
2
đt và căn nhà 02 tng diện tích sử dụng 280m
2
tại M, H, Thanh Hóa,
mang tên ông H, T. Tài sản nhà đất giá ghi chuyển nhượng
2.000.000.00đã đưc ông H, bà T chuyển nhượng cho ông Đỗ Văn T3 vào
năm 2022, vi giá 2.000.000.000đ. Trong đó bà Thị N nhn t anh T3 chuyn
02 t đồng.
Tài sản đt trang tri và công trình xây dựng: Tại thửa đt s 892, t bản đồ
s 04, diện tích đất 2018m
2
đt nông nghip khác. Công trình trên đất gm: Nhà
trông coi, kết cấu xây tường gch, mái lợp ngói; diện tích sử dụng 46m
2
; Tri
chăn nuôi gà, kết cấu xây tường gch, cột tông vách lưới B40, mái lp
proximăng; diện tích s dng: 908m
2
; Nhà chứa cám, kết cấu xây tường gch,
i lợp ngói; diện tích sử dụng 23,5m
2
và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất.
Theo Hợp đồng chuyển nhượng được công chng s 7165, quyn s
03/2021TP/CC-SSC/HĐGD ngày 29/12/2021, ti Văn phòng C3, giá chuyn
nhượng đất trang trại là 1.200.000.000đ. Trong Văn bản cam kết lp ngày
27/12/2021, ý chí các bên thể hiện từ ngày 27/12/2021 đến ngày 01/03/2022, ông
T1, bà N không được np h sơ đến cơ quan đăng ký đất đai. Đến ngày 01/3/2022
ông H, T không bàn giao toàn b s tiền 3.200.000.000đ đ chuc li tài sn
thì ông T1, N quyền tiến hành sang tên QSD đất. Tuy nhiên, ông H, T
cho rằng việc hợp đng chuyn nhượng, n bn cam kết nhưng thực chất
để làm tin cho khon tiền đã vay trên, nhưng do không am hiểu quy đnh ca
pháp luật, đồng thời dưới s thúc ép ca v chng ông T1, N nên vợ chồng
anh H đã lập “Hp đồng chuyển nhượng trang trại được công chứng” Vì vậy, mới
khoảng thời gian để v chng ông H thu xếp trả lại tiền chuộc lại tài sản trang
trại và tiến hành hy Hợp đồng chuyển nhượng. Nên sau khi ký Hợp đồng chuyn
nhưng vào ngày 29/12/2021 thì gia đình ông H vẫn sử dụng, khai thác cho
ngưi khác thuê li trang trại 03 năm đ chăn nuôi. Sau ngày 03/5/2022, gia đình
ông H đưc biết thông tin v chng ông T1, N đã rao bán đất trang tri nên
ông H đã đến trao đổi và thương lượng để gii quyết. Tuy nhiên không nhận được
s hp tác ca v chng ông T1bà N.
Toàn b s tiền 3.200.000.000đ thực chất là tiền vay của vợ chồng N, thế
chấp bằng 02 tài sn ch không phi tin chuyển nhượng tài sn thật. việc
vay tiền phải kèm theo điu kin có tài sn thế chp mới được vay, nên trong thi
hn 03 tháng sau khi Hợp đồng, gia đình ông muốn chuộc lại thì phải tiền
mới đưc chuc li tài sn. Trong s tiền 2.000.000.000đ đ tr cho N
chuc lại nhà đất ti tha 728a là vào khoảng tháng 3 năm 2022, khi đó M có
gọi điện trước cho N để thương lượng tính toán tin gc tiền lãi. N nói
với bà M, số tiền nợ 02 tỉ thì tiền lãi là 450.000.00đ. Sau đó bà N nói với M, số
tiền lãi này phải tài sản khác thế chấp vào nhưng M trả lời hiện tại gia
đình anh không còn tài sản nào nữa nên số tiền lãi 450.000.000đ chuyển vào
khon tin n đối vi đất trang trại là 1.200.000.000đ, cộng với tiền lãi
1.650.000.000đ.
Sau đó M gọi cho ông H nói vợ chồng ông ra nhà N ký thêm một
số giấy tờ để cho N để tr li giy t nhà đt. Ti nhà N đã đưa cho vợ
chồng ông H mấy tờ giấy ch nhưng do vi nên vợ chồng ông không đọc lại
vào. Ông thừa nhận chữ dấu vân tay đim ch trong giy nhn tin
chuyển nhượng trang tri ngày 03/5/2022 bn cam kết cùng ngày vi s tin
chuyển nhượng 2.850.000.000đ của v chng ông là đúng.
Về nội dung diễn biến vay tiền của N: Tháng 9 năm 2019, Mai Thị
M cần tiền nên hỏi nhờ ông H n tm s đỏ để thế chp vay tin, ông H dẫn bà
M đến nhà ông Đinh Văn C1 Mai Th S để n s nhà đất. Sau khi được
s đồng ý thì bà M, ông H dn ông C1, S đến nhà N để làm hợp đồng công
chứng vay mượn, ký xong thì ông C1, bà S ra v còn số tiền vay 400.000.000đ thì
M nhận. Sau này ông H mua cám chăn nuôi của M còn nợ lại tiền, sau thời
gian thì M chuyển số tin n ca ông C1, S sang cho ông H sử dụng đến
nay cũng chưa trả đưc.
Ngày 04/7/2020, ông H, bà T vay ca N s tiền 1.300.000.000đ đ tr
khon n ti Ngân hàng D1, nhưng bà N bt v chng ông ký giấy nợ là
1.500.000.000đ, trong đó 200.000.000đ là tiền lãi dự tính.
Đến ngày 05/10/2020 ông H, T tiếp tc vay Ngân hàng V1 nhưng M
ch liên h vay đưc 1.000.000.000đ để tr vào s tiền 1.500.000.000đ vay ngày
04/7/2020 vay bà N. Do số tiền còn nN 500.000.000đ, nên bà N bt ông H
phải mượn s đỏ khác để thế chp, ông H đã mượn s đỏ đất kinh doanh 50 năm
đứng tên ca ông Mai Văn C2 và bà Nguyn Th N2 để thế chp cho bà N để đảm
bo khon vay còn lại trên.
T ngày 05/10/2020 đến ngày 27/01/2021, s tin n 500.000.000đ được bà
N tính gốc và lãi 686.000.000đ cộng khon tin lãi vay 400.000.000đ của s
đất nhà ông C1, bà S (vay tháng 9/2019) là 302.600.000đ. Tiền vay và tiền lãi của
hai khoản trên là 1.488.600.000đ.
Sau một năm khoản vay 01 t đồng ti Ngân hàng V1 đến hn, ông H nhờ
Nguyn Th O, tr s tiền 870.000.000đ, sau đó O cm s nhà đất ca v
chng ông H v ct giữ. Cũng trong thời gian này, ông Mai Văn C2 đòi sổ đất
kinh doanh 50 năm nên ông H lại nhờ N trả số tiền nợ cho O. Ngày
27/12/2021, ông H và N đến nhà O tr s tiền trên, sau đó N cm s nhà
đất ti tha 728a; t bản đồ s 04, din tích 234m
2
đất căn nhà 02 tng din
tích s dng 280m
2
tại M, huyện H. Sau đó hai bên thc hin công chng hp
đồng chuyển nhượng nhưng không thc hin th tc sang tên. Sau thi gian ông
H muốn chuộc lại tài sản nhà đất nên nh bà M giới thiệu vay của ông Đỗ Văn T3
s tin 2.000.000.000đ, sau này khi N tr li giấy CNQSD đt thì ông T3 mua
li tài sn trên với giá 2.300.000.000đ vào tháng 3 năm 2022.
Tính đến thời điểm ngày 27/12/2021 số tiền nợ gốc lãi 2.318.600.000đ
(1.488.600.000đ + 830.000.000đ).
V s đất nhà ông Mai Văn C2 Nguyn Th N2, sau khi ly s nhà đất
ti tha 728a t nhà O về thì bà N cho ông H rút s đất 50 năm đ v tr li
cho ông C2. V s đất nhà ông Đinh Văn C1 Mai Th S thì đến nay bà N
vẫn đang cầm gi t tháng 9/2019 đến nay.
V ni dung giy giao nhn tin chuyển nhượng đất trang tri vào ngày
27/12/2021 s tiền 1.200.000.000đ giấy giao nhn tin chuyển nhượng đất
trang tri vào ngày 03/5/2022, s tiền 2.850.000.000đ. Ông H cho biết, ông
không s tin ghi trong giy giao nhn tin chuyển nhượng trang tri
2.850.000.00, khi đó M gọi điện cho ông H bảo vợ chồng ông đến nhà bà
N để ký thêm giấy tờ, do thời gian vội nên vợ chồng ông không xem lại mà chỉ ký
vào mấy tờ giấy chữ. Nên s tin N nói đưa thêm cho v chng ông
1.650.000.00vào ngày 03/5/2022 v chng ông không được nhận. Đối vi s
tiền 1.200.000.000đ tin chuyển nhượng đất trang tri vào ngày 27/12/2021 trong
đó trả n cho M 500.000.000đ, ông H, T nhận 700.000.000đ trong đó cả
tin lãi 250.000.000đ.
Với diễn biến vụ việc nêu trên, vợ chồng ông H đề nghị: Tuyên bố “Hợp
đồng chuyển nhượng đất trang trại” theo Hợp đồng số công chứng 7165, quyển sổ
03/2021/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C3 hiệu, không yêu cầu Tòa án
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự hiệu. Đề nghị N phải hoàn trả giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đang giữ cho gia đình ông . Trong trường hợp bà
N không trả lại GCNQSD đất trang trại thì vợ chồng anh được quyền đề nghị
quan nhà nước thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất nêu
trên. Trường hợp bị đơn yêu cầu giải quyết hậu quả của Hợp đồng hiệu thì đ
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài tài liệu, chứng cứ ban
đầu kèm theo đơn khởi kiện, ông còn cung cấp nội dung file ghi âm giữa ông
N, thời điểm này bà Nguyễn ThịT4 người được ủy quyền cho ông H, bà
T cung cấp giao nộp cho Tòa án.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn b sung quan
điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015, tuyên bố
vô hiệu đối với HĐCN quyền sử dụng đất trên. Về hậu quả của Hợp đồng vô hiệu
không đề nghị xem xét giải quyết.
Tại bản tự khai quá trình giải quyết vụ án bị đơn Thị N người
đại diện theo ủy quyền trình bày:
Khoảng tháng 12/2021 ông H T đến nhà bà N nói vợ chồng ông H
cần tiền, muốn chuyển nhượng lại một ngôi nhà đang ở và khu trại, bà có nhu cầu
thì vợ chồng ông H để lại. Vợ chồng N thống nhất mua tài sản trên, hai bên
thỏa thuận khoảng 03 tháng ông H làm ăn được thì N cho chuộc lại. Tài sản
chuyển nhượng gồm:
Tài sản thứ nhất: 01 Ngôi nhà và đất ở tại thửa đất số 728a, tờ bản đồ số 04,
diện tích là 234m
2
tại thôn M, M, huyện H, tỉnhThanh Hóa, đứng tên ông H,
T. Sau ngày tài sản này thông qua anh T3 trả tiền xong 02 tỉ đồng cho gia đình
N và gia đình bà đã trả lại sổ đỏ và ký hủy hợp đồng công chứng với vợ chồng
ông H, sau đó gia đình ông H ônh T3 chuyển nhượng lại với nhau, nên tài
sản và số tiền này đã được các bên giải quyết xong.
Tài sản thứ hai: 01 khu trang trại tại thửa đất là 892, tờ bản đồ số 04, diện
tích 2018m
2
đất nông nghiệp khác toàn bộ tài sản gắn liền trên đất, tại thôn
M, xã M, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, theo giấy CNQSD đất số CB345367 do
UBND huyện H cấp ngày 25/9/2015. Giá chuyển nhượng ghi trong Văn bản cam
kết lập ngày 27/12/2021 là: 3.200.000.000đ, bao gồm hai tài sản được ghi
riêng trong giấy giao nhận tiền chuyn nhượng trang trại và văn bản cam kết
1.200.000.000đ. Toàn bộ số tiền trên vợ chồng N đã giao đủ cho ông H T
nhận. Sau khi thỏa thuận xong hợp đồng chuyển nhượng tài sản lập vào ngày
27/12/2021, đến ngày 29/12/2021 được công chứng tại Văn phòng C3. Tuy nhiên,
hai bên thỏa thuận “ngoài” trong thời gian ba tháng thì toàn bộ tài sản nhà
đất trên vẫn do ông H T sử dụng. Nhưng sau thời gian thời gian 03 tháng ông
H T không ý kiến nên vchồng bà N đã trao đổi với ông H, nếu
tiền thì đến sẽ cho chuộc lại tài sản, còn không thì bàn giao tài sản cho vợ chồng
đlàm thủ tục sang tên nhưng ông H xin khất. Đến ngày 03/5/2022, ông H
đưa người quen của ông H đến chuộc lại ngôi nhà đất tại thửa đất số 728a
với số tiền chuộc 02 tỷ đồng, còn khu đất trang trại thì xin hẹn 03 tháng sau sẽ
chuộc (03/5 đến 03/8/2022), vì vậy gia đình bà mới không làm thủ tục sang tên.
do ghi giá chuyển nhượng đất trang trại ông H đã yêu cầu N trả
thêm số tiền là: 1.650.000.000đ vào ngày 03/5/2022 số tiền gia đình đã
đưa trước đó là 1.200.000.000đ. Tổng hai lần đưa là: 2.850.000.000đ. THỏa thuận
khoảng tháng 8/2022 ông H tiền thì cho chuộc lại sẽ trả cho số tiền gốc
lãi khoảng 2.935.000.000đ. Đến nay, vợ chồng N đã nhiều lần yêu cầu ông
H bà T thực hiện việc giao tài sản (là khu trang trại) nhưng ông H bà T đã
nhiều lần đến nhà bà N xin lùi thời gian chuộc lại trang trại.
Đối với số tiền 400.000.000đ của ông Đinh Văn C1 Mai Th S, N
đã đưa trực tiếp số tiền này cho ông C1 thông qua Hợp đồng đặt cọc vào ngày
03/6/2020 tại nhà ông C1, có nhân viên Văn phòng công chứng lập hồ sơ đi cùng,
còn sau đó ông C1 đưa tiền cho ai thì bà không biết. Hợp đồng đặt cọc với số tiền
400.000.000đ này độc lập không liên quan đến việc chuyển nhượng trang trại
của ông H.
Về Hợp đồng vay tiền như ông H khai, theo N trình bày, vào ngày
09/7/2020, giữa bà N vợ chồng ông H ký hợp đồng vay tiền tại Văn phòng C3,
số tiền vay 1.500.000.000đ, thời hạn vay 01 tháng từ ngày 09/7/2020 đến
09/8/2020. Tuy nhiên số tiền vay này đã được các bên giải quyết xong tự hủy
với nhau. Đến nay số tiền này không còn liên quan đến việc chuyển nhượng đất
trang trại cũng không liên quan đến số tiền chuyển nhượng nhà đất của ông
H.
Đối với nội dung yêu cầu khởi kiện của ông H cho rằng đây là việc thế
chấp tài sản cho khoản tiền ông H và bà T vay của bà N là hoàn toàn không đúng.
Bà N đề nghị Tòa án xem xét giải quyết đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà, đồng
thời yêu cầu công nhận “Hợp đồng chuyển nhượng đất trang trại” theo Hợp đồng
số công chứng 7165, quyển số 03/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ti Văn phòng C3
hợp pháp. Buộc ông H, T phải bàn giao lại trang trại chấm dứt việc chăn
nuôi. Trường hợp Hợp đồng chuyển nhượng đất trang trại tài sản gắn liền với
đất bị hiệu thì buộc phải hoàn trả lại toàn bộ số tiền gốc lãi. Cụ thể lần 01
tiền gốc 1.200.000.000đ tiền lãi tạm tính 418.320.000đ. Lần 2 tiền gốc
1.650.000.000đ, tiền lãi tạm tính 506.715.000đ. Tổng cộng 3.775.035.000đ.
Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn xin rút yêu cầu tính lãi.
Biên bản lấy lời khai ngày 12/5/2025, bản tự khai ngày 27/5/2024, biên
bản đối chất ngày 09/8/2024, biên bản hòa giải, Người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, bà Mai Thị M trình bày:
Khoảng đầu năm 2019, M nhờ ông H ợn sổ đỏ của người thân
giúp để thế chấp vay tiền. Ông H dẫn M đến nông Đinh Văn C1 Mai
Th S để ợn sổ đỏ nhà đất, sau đó bà M và ông H vợ chồng ông C1 đến nhà
N để vay số tiền 400.000.000đ, còn ông C1, S xong giấy tờ công chứng
với N thì ra về, sau đó khoảng 01 tháng thì M định trả số tiền vay cho N
nhưng ông H nói cần tiền nên số tiền vay được chuyển sang cho ông H sdụng.
Sau này khi tính toán cộng các khoản tiền nợ của ông H thì N đã tính vào tiền
chuyển nhượng nhà đất cho ông T3.
Về số tiền trả vào Ngân hàng D1: Đầu năm 2017 ông H T thế chấp
quyền sử dụng đấttài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 728a, vay Ngân hàng
D1. Đến khoảng tháng 7/2020 do không tiền trả nên nhờ M tìm người hỏi
vay, M đã điện thoại hỏi N để vay tiền cho ông H. Ngày 14/7/2020, ông H
T vay của N số tiền 1.300.000.000đ đtrả vào Ngân hàng D1. Sau khi
trả rút sổ đỏ ra thì N cầm sổ đỏ yêu cầu vợ chồng ông H hợp đồng
công chứng chuyển nhượng nhà đất và ký hợp đồng vay tiền giữa ông H, bà T, số
tiền vay 1.300.000.000đ tiền gốc 200.000.000đ tiền lãi tính trước. Sau đó
gần 02 tháng M vợ chồng ông H, N lên Ngân hàng làm thủ tục, vay Ngân
hàng V1, N cầm số tiền 01 tỉ đồng ngay tại Ngân hàng. Do số tiền ông H còn
nợ 500.000.000đ, bà N nói với bà M là phải có sổ đỏ thế chấp cho số tiền trên. Bà
M nói ông H, ông H đến nhà ông Mai Văn C2 Nguyễn Thị N2 để ợn sổ
đất kinh doanh đưa cho N. Sau này khoản vay bị quá hạn, ông H lên nhà O
nhờ vay số tiền 830.000.000đ đtrả vào Ngân hàng. Sau khi rút sổ nhà đất ra thì
O giữ sổ nhà đất của ông H. Đến khoảng 02 tháng sau thì khoản vay mượn sổ
đất kinh doanh của nhà ông Mai Văn C2 quá hạn nên N báo cho ông H biết
khoản tiền 400.000.000đ của sổ đất nhà ông Đinh Văn C1 s tiền
500.000.000đ khi vay trả cho Ngân hàng D1, cộng 02 khoản tiền này
900.000.000đ, tiền lãi là 250.000.000đ, cộng 1.150.000.000đ. Cùng thời điểm này
do gia đình ông C2 đòi sổ nên ông H lại nhờ N lên nO để trả tiền lấy sổ
nhà đất về. Sau khi trả xong tiền cho bà O thì bà N cầm sổ đỏ về. Tại nhà bà N thì
các bên Hợp đồng chuyển nhượng, lúc này thì N cộng dồn các khoản tiền
trên là 1.980.000.000đ và phí công chứng lại thành gần 02 tỉ đồng.
Về tiền bà M cho ông H vay: Tháng 7/2022, ông H thế chấp đất trang trại
để vay Ngân hàng, khi đến hạn không tiền trả nên ông H vay M
500.000.000đ. Khoảng 75 ngày sau M cần tiền nên ông H nhờ bà M đàm phán
với bà N đvay tiền, N yêu cầu phải tài sản thế chấp, M nói nhà ông H
chỉ còn sổ đất trang trại. Sau đó vợ chồng ông H vợ chồng N Hợp đồng
chuyển nhượng đất trang trại ngay tại nhà bà N, giá ghi chuyển nhượng là
1.200.000.00, N chuyển khoản cho M 500.000.000đ, số tiền còn lại N
trừ vào khoản lãi 230.000.000đ của khoản vay nhà ông Đinh Văn C1
400.000.000đ đưa ông H 370.000.000đ. Cộng 1.000.000.000đ. Giá thực tế
chuyển nhượng 1.100.000.000đ, nhưng ghi trong hợp đồng 1.200.000.000đ.
Bà không chứng kiến ông H, bà T nhận số tiền còn lại.
Về việc chuyển nhượng nhà đất tại thửa 728a, do ông H nợ nhiều nên đã
nhờ M liên hệ vay tiền của ông T3 để chuộc lại nhà đất từ N. M đã
liên hệ với ông T3 vay tiền mua lại căn nhà đất tại thửa đất số 728a mang tên
ông H, T. N cầm sổ đỏ đến nhà ông H để bàn giao nhận tiền. Tại nhà
ông H, ông T3 chuyển khoản cho N 1.500.000.000đ đưa tiền mặt
500.000.000đ, số tiền bà M nhận thay 300.000.00 vì ông H không có tài khoản,
sau đó bà M rút tiền chuyển lại cho ông H. Trước đó M có trao đổi với bà N về
số tiền nhà n02 tỉ tính lãi tiền nhà lên 450.000.000đ, M nói với N
tiền lãi này thì quy sang sổ trang trại là 1.650.000.000đ.
Về số tiền 2.850.000.000 đồng vợ chồng ông H với bà N vào ngày
03/5/32022 thì M không biết, không chứng kiến, M chỉ biết số tiền nhận
chuyển nhượng trang trại ngày 27/12/2021 1.200.000.000đ, bà nhận
500.000.000đ, số tiền còn lại ông H nhận.
Văn phòng C4 (kế thừa văn phòng C3) trình bầy: Hồ công chứng đối
với Hợp đồng chuyển nhượng trang trại số 7165, quyển sổ số: 03/2021, TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 29/12/2021 Văn phòng công chứng đã thu thập đầy đủ tài liệu,
thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của luật công chứng. phiếu yêu cầu
công chứng ngày 23/12/2021 của bà N. Tuy nhiên đến ngày 29/12/2021 mới thực
hiện công chứng Hợp đồng chuyển nhượng trang trại. Nay nguyên đơn yêu
cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng trên hiệu, đề nghị Tòa án căn cứ theo
quy định của pháp luật để giải quyết.
Ông Đinh Văn C1 trình bày:
Ông H ông chú cháu ruột, thời điểm 2019, vợ chồng ông H ợn sổ
đỏ của gia đình ông để đảm bảo khoản vay lãi ngày giữa ông H gia đình N.
Sau đó ông H, M dẫn vợ chồng ông đến nhà N để ký một số giấy tờ, khi
đến bà N chỉ nói vợ chồng ông ký vào mấy tờ giấy trắng và tờ giấy có chữ, nhưng
khi ký vợ chồng ông không đọc nghĩ chỉ đảm bảo cho ông H vay tiền. Sau
khi xong thì vợ chồng ông đưa sổ nhà đất cho N ra về, còn số tiền vay
bao nhiêu thì không được biết, hiện sổ đỏ của vợ chồng ông vẫn do bà N giữ. Nay
gia đình ông C1 yêu cầu bà N trả lại sổ đỏ nhà đất cho gia đình ông.
Tại Bản án số 40/2025/DS-ST ngày 26/6/2025 của Tòa án nhân dân khu
vực 5-tỉnh Thanh Hóa: Căn cứ Điều 124; khoản 1, 2 Điều 131, Điều 288; Điều
357 khoản 1,2 Điều 407 của Bộ luật dân sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 24,
khoản 1, khoản 2 Điều 26, điểm b khoản 3 Điều 27 NQ số
326/2016/UBTVQH14.
Xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H và T. Tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trang trại giữa bà N, ông T1 và ông H
T, được công chứng ngày 29/12/2021, số công chứng 7165, quyển số:
03/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C3 là vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu của N ông T1 về công nhận Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trang trại trên với bên chuyển nhượng là ông H
và bà T.
3. Đình chỉ phần yêu cầu tính lãi suất của bị đơn đối với nguyên đơn.
4. Buộc ông H và T có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại cho bà N và ông
T1 số tiền 2.850.000.000đ.
5. Ông C1, bà N2, bà N có quyền khởi kiện để giải quyết bằng vụ án dân s
khác liên quan đến Hợp đồng đặt cọc vào ngày 03/6/2020 khi có yêu cầu.
6. Ông T1, N trách nhiệm giao lại giấy chứng nhận Quyền sử dụng
đất trang trại tài sản gắn liền trên đất, theo giấy CNQSD đất số CB345367, do
UBND huyện H cấp ngày 25/9/215 mang tên ông H và bà T.
7. Buộc N ông T1 phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Buộc
ông H và bà T phải nộp số tiền án phí có giá ngạch 89.000.000đ.
8. Buộc N ông T1 phải nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền chi phí thẩm
định, thẩm định giá và chi phí đo đạc cho ông H và bà T là 20.500.000đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền kháng cáo
theo quy định pháp luật.
Ngày 7/7/2025 nguyên đơn ông H kháng cáo Bản án số 40/2025/DS-ST ngày
26/6/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5- tỉnh Thanh Hóa; yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết: đề nghị sửa bản án trên về phần tuyên hậu quả của hợp
đồng vô hiệu vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trang trại giữa bà N,
ông T1 ông H, T, được công chứng ngày 29/12/2021, số công chứng 7165,
quyển số: 03/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C3 trên là giả mạo nhằm che
dấu giao dịch vay tài sản, không có việc giao nhận số tiền 2.850.000.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn ông H và T không rút đơn khởi
kiện, không rút đơn kháng cáo; các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải
quyết vụ án. Các bên đương svẫn ginguyên ý kiến như trên. Ngoài ra ông H
và bà T thừa nhận chỉ còn nợ ông T1 và bà N số tiền 1.650.000.000đ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình giải quyết
vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư ký đều tuân theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự thực hiện đầy đủ quyền nghĩa
vụ.
Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, bác toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông H, giữ
nguyên bản án thẩm số 40/2025/DS-ST ngày 26/6/2025 của Toà án nhân dân
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy
định của pháp luật.
Căn cứ các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng.
Nguyên đơn bị đơn địa chỉ tại V tỉnh Thanh Hóa. vậy, Tòa án
nhân dân khu vực 5-Thanh Hóa thụ giải quyết đúng thẩm quyền theo quy
định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của
BLTTDS.
Đơn kháng cáo của ông H làm theo đúng trình tự, thời hạn quy định tại các
Điều 272, 273 của BLTTDS, nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông H.
Tại đơn kháng cáo ông H đề nghị sửa bản án vphần tuyên hậu quả của
hợp đồng hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất trang trại giữa
N, ông T1 ông H, T giả mạo nhằm che dấu giao dịch vay tài sản,
không có việc giao nhận số tiền 2.850.000.000đ, thấy rằng:
Ngày 29/12/2021, giữa vợ chồng N vợ chồng ông H, hai bên đã
kết Hợp đồng chuyển nhượng trang trại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất tại thửa 892, diện tích 2.018m
2
thuộc tờ bản đồ số 04, giá chuyển nhượng
1.200.000.000đ, vào sổ công chứng số 7165, quyển số 03/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD.
Hồ công chứng được thu thập đã thể hiện thông tin người yêu cầu, giấy
tờ nhân thân, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của bên chuyển
nhượng tại thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, các bên thừa nhận, khi thực
hiện công chứng Hợp đồng tại Văn phòng công chứng thì không mặt bên
chuyển nhượng, việc tên, điểm chỉ vào Hợp đồng được nhân viên của Văn
phòng công chứng trực tiếp hướng dẫn để bên chuyển nhượng ký, điểm ch trước
tại nhà N. Như vậy, khi tiến hành kết hợp đồng chuyển nhượng, các bên đã
tuân thủ quy định pháp luật về điều kiện, hình thức của Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, nhưng một trong các bên không ký, điểm ch trước mặt công
chứng viên vẫn được Công chứng viên công chứng vi phạm khoản 1
Điều 44 khoản 1 Điều 48 Luật công chứng. Tài liệu chứng cứ do bị đơn giao
nộp cũng cho thấy, ngày 23/12/2021 trong đơn đăng ký thông tin biến động đất
đai và tài sản trên đất, tại mục TM. UBND xã M xác nhận đã tiến hành “ký” trong
khi các bên vẫn cam kết thực hiện trả tiền để chuộc lại tài sản. Như vậy, vi
phạm về trình tự, thủ tục xác nhận đăng biến động đất đai theo Điều 95 Luật
đất đai.
Tại Giấy giao nhận tiền chuyển nhượng đất trang trại văn bản cam kết
cùng ngày 27/12/2021 các bên đều thống nhất ghi số tiền chuyển nhượng
1.200.000.000đ. Căn clời khai của ông H, M thì sở xác định số tiền
này là xuất phát tsố tiền ông H vay đtrả cho M, lãi vay tiền ông H vay
tiêu dùng. Về số tiền ghi 2.850.000.000đ xác lập tại Giấy giao nhận tiền chuyển
nhượng đất trang trại vào ngày 03/5/2022 giữa vợ chồng N vợ chồng ông
H. Tài liệu, chứng cứ phát sinh này do ông T1, N giao nộp, trong đó thhiện
số tiền 2.850.000.000đ tăng thêm stiền ban đầu 1.650.000.000đ. Vợ chồng
ông H không thừa nhận số tiền tăng thêm, nhưng thừa nhận chữ ký và dấu vân tay
của vchồng ông. Mặt khác không tài liệu, chứng cứ xác thực chứng minh
để loại trừ trách nhiệm dân sự đối với số tiền ghi trong giấy giao nhận tiền và văn
bản cam kết ngày 03/5/2022. Như vậy, thể thấy giữa các lần kết, mục đích
là đ đảm bảo cho khoản vay trả nợ; vay tiêu dùng nên mới cam kết tạo điều kiện
về thời gian cho vợ chồng ông H trả tiền chuộc đất. Giấy giao nhận tiền ngày
03/5/2022 với stiền chuyển nhượng 2.850.000.000đ, nhưng vẫn cam kết từ
ngày 03/5/2022 đến ngày 03/8/2022 để vợ chồng ông H chuộc lại trang trại và trả
lãi suất 85.500.000đ trên số tiền 2.850.000.000đ.
Như vậy đ căn cứ xác định Hợp đồng chuyển nhượng trang trại hợp
đồng giả tạo nhằm đảm bảo việc thực hiện giao dịch vay tiền. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 124 của BLDS thì khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách
giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sgiả tạo
hiệu”. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đề nghị tuyên bố hủy hợp đồng chuyển
nhượng trang trại theo Hợp đồng số công chứng 7165, quyển sổ 03/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C3 vô hiệu có căn cứ.
Về yêu cầu giải quyết hậu quả ca hợp đồng vô hiu: Ti biên bn làm vic
ngày 10/10/2024 đơn yêu cầu ngày 02//6/2025 ti phiên a, ông T1
N đề ngh gii quyết hu qu trong trường hp tuyên b Hợp đồng hiu, yêu
cu này ca ông T1 và bà N đưc xem xét chp nhn mới đảm bo vic gii quyết
toàn din v án.
Theo quy đnh tại Điều 131 ca BLDS “Giao dịch dân sự dân sự vô hiệu thì
không làm phát sinh, thay đổi, chm dt quyền, nghĩa vụ dân s ca các bên k t
thời điểm giao dịch được xác lp. Khi giao dch dân s hiu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đu, hoàn tr li cho nhau nhng gì đã nhận”. Trong vụ án
này bên nhận chuyển nhượng bên chuyển nhượng biết rõ việc vay tiền nên
mới dẫn đến kết hợp đồng chuyn nhượng nhm che du cho giao dch khác
mà thc tế không nhm mục đích chuyển nhượng ngay tình. Căn cứ vào giy giao
nhn tin chuyển nhượng đất trang tri ngày 03/5/2022 căn cứ buộc ông H
bà T phải hoàn trả lại số tiền 2.850.000.000đ cho vợ chồng N.
Từ những phân tích nêu trên, không căn cchấp nhận kháng cáo của
ông H, cần căn cứ khoản 3 Điều 296; khoản 1 Điều 308 của BLTTDS, bác kháng
cáo của ông H như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở pháp luật.
[3] Về án phí: căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/UBTVQH14,
ông H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Bác toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Đinh Công H, giữ
nguyên bản án thẩm số 40/2025/DS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2025 của Toà án
nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa (nay Toà án nhân dân khu vực 5-
Thanh Hoá
Căn cứ Điều 124; khoản 1, 2 Điều 131, Điều 288; Điều 357 khoản 1,2
Điều 407 của BLDS. Điểm a, b khoản 1 Điều 24; khoản 1, 2 Điều 26; điểm b
khoản 3 Điều 27; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/UBTVQH14.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Đinh Công H Thị T. Tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trang trại giữa bên nhận chuyển
nhượng Thị N, ông Nguyễn Hữu T1 bên chuyển nhượng ông Đinh
Công H và bà Vũ Thị T, được công chứng ngày 29/12/2021, số công chứng 7165,
quyển số: 03/TP/CC - SCC/HĐGD tại Văn phòng C3, nời được chỉ định quyền
và nghĩa vụ tiếp nhận hồ sơ công chứng tại Văn phòng C4 là vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu của Vũ Thị N và ông Nguyễn Hữu T1 về việc
công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trang trại với bên chuyển
nhượng ông Đinh Công H và bà Thị T, được công chứng ngày 29/12/2021
số công chứng 7165, quyển số: 03/TP/CC - SCC/HĐGD tại Văn phòng C3, ni
được chỉ định quyền và nghĩa vụ tiếp nhận hồ sơ công chứng tại Văn phòng C4.
3. Đình chỉ phần yêu cầu tính lãi suất của bị đơn đối với nguyên đơn.
4. Buộc nguyên đơn ông Đinh Công H Thị T phải trách nhiệm
liên đới hoàn trả lại cho bị đơn Thị N ông Nguyễn Hữu T1 số tiền
2.850.000.00(hai tỉ tám trăm m mươi triệu đồng) theo giấy giao nhận tiền
chuyển nhượng đất trang trại ngày 03/5/2022.
5. Ông Đinh Văn C1, bà Mai Th N3, bà Vũ Thị N có quyền khởi kiện để giải
quyết bằng vụ án dân sự khác liên quan đến hợp đồng đặt cọc vào ngày 03/6/2020
được công chứng khi có yêu cầu.
6. Ông Nguyễn Hữu T1 Thị N trách nhiệm giao lại Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất trang trại tài sản gắn liền trên đất số CB 345367, số
vào sổ cấp giấy CH 002218 ngày 25/9/2025 của UBND huyện H mang tên ông H
và bà T cho ông Đinh Công HVũ Thị T. Trường hợp không tự nguyện giao
lại thì ông H T được quyền đề nghị quan hành chính thẩm quyền trong
việc thi hành nhiệm vụ công vụ cấp lại Giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo
quy định của pháp luật.
7. Án phí dân sự thẩm: Ông T1 N phải nộp 300.000đ án phí dân sự
thẩm. Ông H T phải nộp 89.000.000đ án phí giá ngạch, được đối trừ
vào 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0005388 ngày 29/10/2023 của
Chi cục THADS huyện H (ông H bà T còn phải nộp là 88.700.000đ).
8. Chi phí thẩm định, định giá: Ông T1 N nghĩa vụ hoàn trả lại cho
ông H T là 20.500.000đ, số tiền này được đối trừ vào tiền chuyển nhượng
trang trại mà ông H bà T phải hoàn trả cho ông T1 và bà N.
9. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đinh Công H phải chịu 300.000đ.
Bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sthì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị ỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9 Luật Thi hành án dân
sự. Thời hiệu thi hành án được thi hành theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Kể từ khi bản án hiệu lực pháp luật, người được yêu cầu thi hành án
đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng người phải thi hành án về khoản tiền phải trả còn phải chịu thêm khoản tiền
i của số tiền phải thi hành án theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- VKS, TA khu vực 5;
- Thi hành án DSTH;
- Đương sự;
- Tổ HC-TP;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
Ngô Thị Hà
Tải về
Bản án số 107/2025/DS-PT Bản án số 107/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 107/2025/DS-PT Bản án số 107/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất