Bản án số 106/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 106/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 106/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Số hiệu: 106/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông H và ông S
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số 106/2025/DS-PT
Ngày: 15-5-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Bích Hạnh.
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thọ.
Ông Nguyễn Hữu Bằng.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hồng Chúc Thư Tòa án, Tòa án
nhân dân tỉnh Hậu Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang: Bà Phùng Bích Tuyền -
Kiểm sát viên trung cấp tham gia phiên toà.
Ngày 15 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử
phúc thẩm công khai ván thụ lý số: 27/2025/TLPT-DS ngày 02 tháng 01 năm
2025 về việc “Tranh chp hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 75/2025/QĐPT-DS ngày
18 tháng 3 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2025/QĐ-PT ngày 02 tháng
4 năm 2025; Thông báo dời phiên tòa số 08/TB-TA, ngày 17 tháng 4 năm 2025;
Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 24/2025/QĐ-PT ngày 25 tháng 4 năm 2025;
Thông báo thời gian mở lại phiên tòa số 05/TB-TA ngày 07 tháng 5 năm 2025,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Trần Văn H
1.2. Bà Võ Thị Bích P.
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phan Long H1, sinh năm
1987.
Địa chỉ: Số A khu vực Y, phường L, quận C, thành phố Cần T.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1957.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Khả Đ.
2
Địa chỉ: Số B dãy B, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
3.2. Ông Trần Hoàng N.
3.3. Bà Võ Vĩnh T.
Cùng địa chỉ: Số B - B đường số B, khu dân E, phường P, quận C, thành
phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Hùng V.
Địa chỉ: Số A, đường C, khu V, phường T, thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
3.4. Ông Trần Quốc N1.
3.5. Bà Trần Võ Kim N2.
Cùng địa chỉ: Số B - B đường số B, khu dân E, phường P, quận C, thành
phố Cần Thơ.
3.6. Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Văn H, Thị ch P; Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn Q.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Trong đơn khởi kiện quá trình tố tụng tại Tòa án, đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn ông Phan Long H1 trình bày:
Ngày 01/10/2003, ông Trần Văn H Thị Bích P có làm hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Nguyễn Văn S phần đất 12,55 mét chiều dài
hết đất, tại Bản án s 27/2020 ngày 18/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành
A, tỉnh Hậu Giang đã công nhận cho nguyên đơn phần đất chiều ngang mặt lộ là
5,50 mét, chiều ngang phía sau 4,7 mét, chiều dài một bên 32,10 mét, chiều dài
cạnh còn lại 32,12 mét. Nay theo giấy tay nêu trên ông H, bà P yêu cầu ông Nguyễn
Văn S tiếp tục thực hiện hợp đồng đối với phần đất còn lại chiều ngang mặt l7,05
mét, chiều ngang phía sau 7,85 mét, chiều dài 32,12 mét.
Về nguồn gốc đất: của ông Triệu Văn H2 (là cha vợ ông Bùi Văn Q). m
1979, ông Triệu Văn H2 chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho Trần Thị H3
(mẹ ông Nguyễn Văn S) bằng giấy tay. Năm 2003, ông Nguyễn Văn S chuyển
nhượng lại cho ông Trần Văn H, bà Võ Thị Bích P.
Năm 1995, sau khi ông Triệu Văn H2 chết, ông Bùi Văn Q đăng cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, do ông Q không biết phần đất nêu trên ông Triệu
Văn H2 đã chuyển nhượng cho Trần Thị H3 nên đã kê khai cấp giấy chứng nhận
cho ông Bùi Văn Q. Ông Q hứa sẽ trả lại cho Trần Thị H3 ông Nguyễn
Văn S.
Năm 2003, ông Q chuyển nhượng phần đất trên cho ông Huỳnh Việt A có chừa
lại phần đất chiều ngang mặt l7,05 mét, ngang đầu phía sau 7,85 mét, chiều dài
đến kinh bờ đại của ông S không bán. Ông Q khẳng định ông không bán đất cho
ông Trần Hoàng N.
Nay ông đại diện theo ủy quyền của ông H, P khởi kiện ông Nguyễn Văn S
yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng diện tích còn lại như đo đạc
3
thực tế chiều ngang trước giáp đường 3 tháng 2 là 7,05 mét, chiều ngang phía sau
7,85 mét, chiều dài 32,12 mét (giáp thửa 321), chiều dài cạnh còn lại 32,23 mét.
Quá trình tố tụng bị đơn ông Nguyễn Văn S trình bày tại bản tự khai ngày
25/01/2024: Ngày 01/10/2003 được sự đồng ý của mẹ ông (Trần Thị H3), ông
chuyển nhượng cho ông Trần Văn H Thị Bích P phần đất chiều ngang
12,55m, chiều dài từ mương đến kinh bờ đai (lúc đó không đo chiều dài
trên đất rất nhiều cây mọc um tùm mương), với số tiền 65.000.000 đồng
(sáu mươi lăm triệu đồng). Ông Trần Văn H Võ Thị Bích P đã thanh toán trả đủ
tiền cho ông, đồng thời ông giao đất cho ông H và bà P sử dụng.
Diện tích đất ông chuyển nhượng cho ông H, P gồm hai phần: Một phần
diện tích chiều ngang khoảng 5,5m, chiều dài khoảng 32,1m nằm trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông đứng tên quyền sử dụng tại thửa 321 giấy
cấp ngày 24/11/1995. Phần còn lại nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông Bùi Văn Q (là con rễ của ông Triệu Văn H2) đứng tên quyền sử dụng.
Nguồn gốc đất này năm 1979 ông Triệu Văn H2 đã chuyển nhượng cho mông
(Trần Thị H3) chuyển nhượng chỉ lập giấy viết tay. Sau đó mẹ ông ông Triệu
Văn H2 qua đời, ông Bùi Văn Q khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 24/11/1995 tại các thửa 523, 323, 322, nên phần đất mà mẹ ông nhận
chuyển nhượng của ông Triệu Văn H2 nêu trên nằm trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông Bùi Văn Q.
Trong quá trình giải quyết trước đây ông Bùi Văn Q cũng đã thừa nhận: Năm
1995, sau khi cha vợ ông Q chết, ông Q xin đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, do lúc đó ông không biết nên đã khai cả phần đất cha vợ ông đã
chuyển nhượng cho mẹ ông (Trần Thị H3) nêu trên. Thời gian sau ông Q biết sự
việc, nên ông Q hứa với ông khi nào yêu cầu tông Q sẽ tách ra khỏi giấy
phần đất này cho ông. Đến năm 2003 ông Q chuyển nhượng đất cho ông Huỳnh
Việt A bằng giấy tay, ông Q có chừa lại phần đất mà cha vợ ông đã bán cho mẹ ông
nêu trên. Ông Bùi Văn Q khẳng định ông không hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông Trần Hoàng N, nhưng trong hồ vụ án này thể hiện
ông Q là người hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần
Hoàng N sự mạo danh chữ của ông Q, nên ông Q đã đơn yêu cầu
quan chức năng giám định chký. Kết quả giám định ông Q không trong hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Hoàng N là đúng.
Nay ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H Thị Bích
P. Đề nghị Tòa án công nhận cho ông H, bà P phần đất theo Mảnh trích đo địa chính
số 78 2022 do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện C duyệt ngày
18/8/2022: Chiều ngang mặt tiền đường C 7,30m; chiều ngang phía sau là 7,50m;
chiều dài cạnh giáp thửa s321 32,12m chiều dài cạnh bên 32,40m; diện
tích chung 238,6m
2
(có 16,4m
2
ODT nằm trong thửa số 1920; 222,2m
2
CLN
nằm trong thửa số 1921). Ông S yêu cầu vắng mặt trong các giai đoạn tố tụng
của Tòa án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn Q ông Khả Đ trình
bày: Năm 1995, sau khi cha vông Q là Triệu Văn H2 chết, ông Q đăng giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, lúc đó ông Q không biết nên đã khai phần đất
4
cha vợ ông Q chuyển nhượng cho bà Trần Thị H3, thời gian sau ông Q biết nên đã
hứa với ông S sẽ trả lại đất cho ông S.
Năm 2003, ông chuyển nhượng đất cho ông Huỳnh Việt A bằng giấy tay
chừa lại phần đất diện tích 238,6m
2
cho ông S. Ông Q khẳng định không hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trần Hoàng N. Nay ông yêu
cầu độc lập tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
20/6/2003 giữa ông Bùi Văn Q ông Trần Hoàng N hiệu. Đồng thời kiến nghị
Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 00764 cấp cho hộ ông Trần Hoàng N ngày 22/8/2003.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Quốc N1, Trần Kim N2 (Con
của ông N T) trình bày tại bản tự khai ngày 06/3/2024: Ông N1 N2
thống nhất với ý kiến và yêu cầu của cha mẹ và có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C,
tỉnh Hậu Giang trình bày tại Công văn số 161/UBND ngày 23/9/2024: Ngày
30/6/2003 ông Trần Việt M (Thời điểm đó ông M phó chủ tịch UBND T nay
thị trấn M) chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Bùi Văn Q và ông Trần Hoàng N. Đề nghị Tòa án huyện Châu Thành A1 giải
quyết theo quy định pháp luật.
Người làm chứngTrần Hồng V1 trình bày: Năm 2003, bà có kêu Huỳnh Hà
G, Nguyễn Văn Đ1 (là con gái và con rễ) và Trần Hoàng N, Vĩnh T (là cháu bà)
chuyển nhượng phần đất của ông Bùi Văn Q. Sau khi chuyển nhượng đã cắm ranh
chia cho 04 người gồm G, Đ1, N và T. Đối với vụ án giữa ông H, P ông S
bà không có ý kiến.
Tại phiên tòa, ông Phan Long H1 trình bày: Buộc ông Nguyễn Văn S tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày
19/8/2002, giao trả cho ông Trần Văn H Thị Bích P phần đất còn thiếu
chiều ngang mặt đường 3/2 7,05 mét, chiều dài 7,85 mét, chiều dài đến kinh bờ
đai (nằm trong thửa đất số 322 323, tờ bản đồ số 02 thuộc ấp A, xã T nay
thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang do ông Bùi Văn Q đứng tên).
Tại phiên tòa thẩm, ông Khả Đ trình bày: Người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Bùi Văn Q yêu cầu độc lập, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 20/6/2003 giữa ông Bùi Văn Q ông Trần Hoàng N.
bản thân ông Q không hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.
Ông Q không kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất do ông Trần Hoàng N đứng tên.
Tại phiên tòa thẩm, ông ng V người đại diện theo ủy quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng N, bà Võ Vĩnh T trình bày:
Ông N và bà T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không đồng ý yêu
cầu độc lập của ông Bùi Văn Q. Phần đất ông Trần Hoàng N nhận chuyển nhượng
từ ông Bùi Văn Q được công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật, ông N
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2003 đã nhận tiền bồi
thường khi giải phóng mặt bằng năm 2006, ông N sử dụng liên tục, ngay nh
không ai tranh chấp hay khiếu nại gì từ khi chuyển nhượng đến khi tranh chấp.
5
Tại bản án sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn H, bà
Võ Thị Bích P đối với bị đơn ông Nguyễn Văn S.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/10/2003
giữa ông Nguyễn Văn S Trần n H, Thị Bích P hiệu một phần đối
với phần đất ông H, bà P yêu cầu ông Nguyễn Văn S giao trả tại mặt đường 3
tháng 2 chiều ngang 7,05 mét, chiều ngang sau 7,85 mét, chiều dài một cạnh
32,12 mét giáp thửa 321 và chiều dài còn lại 32,23 mét nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do hộ ông Trần Hoàng N đứng tên.
2. Buộc ông Trần Văn H, Thị Bích P giao trả phần đất mặt đường 3
tháng 2 chiều ngang 7,05 mét, chiều ngang sau 7,85 mét, chiều dài một cạnh
32,12 mét giáp thửa 321 chiều dài còn lại 32,23 mét nằm trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do hộ ông Trần Hoàng N đứng tên, cho hộ ông Trần
Hoàng N. (Kèm theo mãnh trích đo địa chính).
3. Về hậu quả hợp đồng chuyển nhượng hiệu các bên không yêu cầu nên
tách ra chưa giải quyết, nếu sau này tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án khác.
4. Đối với việc ông H, bà P cho rằng đã san lắp mặt bằng, bơm cát phần đất
tranh chấp, tách ra chưa giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện
thành vụ án khác.
5. Đối với phần lối đi bằng tông, cây cối mái hiên che qua phần đất
tranh chấp, ông Trần Văn H, Thị Bích P tự nguyện di dời nên ghi nhận.
Nếu sau này ông H, P không tnguyện đốn cây, tháo dỡ di dời lối đi bằng
tông, mái hiên thì hộ ông Trần Hoàng N có quyền khởi kiện thành vụ án khác.
6. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Bùi Văn Q đối với ông Trần
Hoàng N về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
20/6/2003 giữa ông Bùi Văn Q và hộ Trần Hoàng N.
7. Đình chỉ yêu cầu của ông Bùi Văn Q về việc kiến nghị Ủy ban nhân dân
huyện C, tỉnh Hậu Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00764 cấp
ngày 22/8/2003 cho hộ ông Trần Hoàng N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng,
chi phí giám định, quyền yêu cầu thi hành án quyền kháng cáo của các đương
sự.
Ngày 02 tháng 10 năm 2024, nguyên đơn đơn kháng cáo đối với bản án
dân sự sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng hủy bản án dân sự
sơ thẩm.
Ngày 07 tháng 10 năm 2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi
Văn Q đơn kháng cáo đối với bản án dân sự thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm
giải quyết theo hướng hủy bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm hủy bản án dân sự thẩm, do cấp sơ thẩm chưa xem xét hết
quan hệ mua bán chuyển nhượng đất giữa ông Trần Văn H4 (cha vong Q)
Nguyễn Thị H5 mẹ của ông N, giữa ông Q ông N làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của nguyên đơn, mặc khác cấp thẩm tuyên vượt quá yêu cầu độc lập của người
6
quyền lợi nghĩa vụ liên quan việc mua bán đất cũng như quá trình sử dụng đất
của nguyên đơn từ năm 1993 đến nay.
Đại diện ủy quyền của ông Q yêu cầu hủy bản án dân sự sơ thẩm lý do cấp
thẩm tuyên vượt quá yêu cầu độc lập của ông N, chưa làm hợp đồng chuyển
nhượng của ông Q, căn cứ kết luận giám định chữ ông Q không hợp đồng
chuyển nhượng, đồng thời không nhận tiền, tại phiên tòa ông N thừa nhận không
giao dịch mua bán với ông Q giao dịch với ông Huỳnh Việt A, đồng thời giao
tiền và làm giấy tờ do ông Việt AV1 làm.
Đại diện ủy quyền của ông N cho rằng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn không có hiệu lực, không rõ diện tích, mặc dù
ông Q không tên chuyển nhượng, nhưng từ khi ông N được cấp giấy chứng
nhận ông Q không ý kiến phản đối hay tranh chấp gì, đề nghị Hội đồng xét xử
bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Q giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm từ giai
đoạn thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã tiến hành đúng các quy định của
pháp luật ttụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 308
của Bộ luật tố tụng dân sự, hủy bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn H, Thị Bích P;
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn Q đơn kháng cáo trong
thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Đối với kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn H, Thị Bích P;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn Q, Hội đồng xét xử xét thấy:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng,
người quyền lợi nghĩa vliên quan ông Bùi Văn Q yêu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất giữa ông giữa với ông Trần Hoàng N, bà Vĩnh T.
Xét thấy phần đất nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng,
hiện tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông N đứng tên, tuy nhiên quá trình
xét xử thẩm căn cứ kết luận giám định chữ ký, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Q1 ông N thì không phải chữ của ông Q trong hợp
đồng, tại phiên tòa phúc thẩm ông N cho rằng ông mua bán, chuyển nhượng phần
đất tranh chấp với ông Huỳnh Việt A Trần Hồng V1, giao dịch đưa tiền
làm thủ tục giấy tờ cho ông là ông Việt A và bà V1, do vậy cấp sơ thẩm không đưa
ông Việt A vào tham gia tố tụng vi phạm thủ tục tố tụng, việc đưa ông Việt A
vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm
số tiền chuyển nhượng, diện tích đất giải quyết hậu quả của hợp đồng nếu
căn cứ tuyên hiệu. Bởi lẽ, ông N cho rằng nếu Tòa án tuyên hợp đồng hiệu
thì phải giải quyết hậu quả bồi thường cho ông, mặt khác cấp thẩm xác định
V1 người làm chứng là không chính xác. Tuy nhiên, xét thấy tại cấp thẩm
7
ông N không trình bày việc ông giao dịch mua bán phần đất của ông Q thông
qua ông Huỳnh Việt A, do vậy xét thấy đây tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa
phúc thẩm.
Về nội dung:
Xét thấy, quá trình thẩm định cấp thẩm xác định phần đất nguyên đơn yêu
cầu bị đơn tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng, hiện tại ông N được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thì phần đất này một phần nguyên đơn đang
quản lý, sử dụng làm đường đi bằng tông trồng cây cối, xây dựng mái
hiên, tuy nhiên cấp thẩm chưa làm quá trình sử dụng đất của nguyên đơn,
cũng như chưa xem xét toàn diện quá trình chuyển nhượng đất tthời ông Triệu
Văn H2 (cha vợ ông Q) sang Trần Thị H3 (mẹ ông S) từ ông Nguyễn Văn S
sang cho ông H, bà P phần đất nào cũng như trong quá trình sử dụng đất việc
thu hồi đất của 04 người nhận chuyển nhượng đất của ông Q, cần làm diện tích
đất bị thu hồi có chiều ngang bao nhiêu để xác định phần diện tích còn lại, phải
phần đất ông Q cho rằng chừa ra để giao lại cho ông S con H3 hay không.
Do vậy, xét thấy cấp thẩm có vi phạm thủ tục tố tụng, cũng như chưa đánh
giá toàn diện chứng cứ vqtrình chuyển nhượng đất của ông Q ông N đối
với phần đất nào ông Q thống nhất giao lại cho ông S (con của Trần Thị H3)
cũng như quá trình sử dụng đất của nguyên đơn, bị đơn, với những vi phạm này
cấp phúc thẩm không khắc phục được, căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng
dân sự, hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C, giao hồ sơ vụ án về cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn
ông Trần Văn H, Thị ch P chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Văn Q,
chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[3]. Về án phí dân sự thẩm, chi phí tố tụng, chi phí giám định: Chưa ai
phải chịu, đuợc xác định lại khi giải quyết vụ án lại theo thủ tục sơ thẩm.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu. Người kháng cáo
nguyên đơn ông Trần Văn H, Thị Bích P được nhận lại tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp mỗi người 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004714; 0004715
ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hậu
Giang. Ông Q là người cao tuổi được miễn nộp tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 115/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh Hậu Giang. Giao hồ vụ án về cho Tòa án nhân n
huyện C xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.
8
2. Về án phí dân sự thẩm, chi pttụng, chi phí giám định: Chưa ai phải
chịu, đuợc xác định lại khi giải quyết vụ án lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu. Không ai phải chịu.
Người kháng cáo nguyên đơn ông Trần Văn H, Thị Bích P được nhận lại
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp mỗi người 300.000 đồng theo biên lai thu số
0004714; 0004715 ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện C, tỉnh Hậu Giang. Ông Q người cao tuổi được miễn nộp tạm ứng án phí.
Bản án phúc thẩm hiệu lực kể từ ngày tuyên án, ngày 15 tháng 5 năm
2025.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- TAND huyện C, tỉnh Hậu Giang;
- Chi cục THADS huyện C, tỉnh Hậu
Giang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Bích Hạnh
Tải về
Bản án số 106/2025/DS-PT Bản án số 106/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 106/2025/DS-PT Bản án số 106/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất