Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lai Châu |
Số hiệu: | 06/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ lời khai; kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, thửa đất tranh chấp mang tên Hàng A D1 (D), được cấp GCNQSD đất số N931143, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyết sử dụng đất số 00947QSDĐ/1998/QĐ-UB/H-UBND ngày 30/12/1998. Ông B nhận chuyển nhượng từ ông H1 năm 2011 (theo ông B, ông H1 khai), không xuất trình được hợp đồng chuyển nhượng nên không xác định được diện tích, vị trí tứ cận. Ông H1 khai nhận chuyển nhượng 500m2 đất từ ông D năm 2001, không lập hợp đồng mà chỉ có biên nhận chuyển nhượng (ông D khai cho mượn, không ký biên nhận chuyển nhượng vì ông không biết chữ, hiện ông đang quản lý và sử dụng). Như vậy ngày 24/7/2017 ông B, bà O chuyển nhượng QSD đất khi chưa được cấp GCNQSD đất (hoặc có giấy tờ hợp pháp về QSD đất) nên không có đủ điều kiện chuyển nhượng vi phạm điều cấm (Điều 167, Điều 188/Luật Đất đai năm 2013 và Điều 123/BLDS năm 2015); lập hợp đồng chuyển nhượng QSD đất viết tay không công chứng, chứng thực vi phạm điểm a khoản 3 Điều 167/Luật Đất đai năm 2013 và các Điều 117, 119, 129, khoản 1 Điều 502, Điều 503/BLDS năm 2015. HĐXX sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyến bố hợp đồng chuyển nhượng QSD đất vô hiệu là có căn cứ pháp luật. tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không cung cấp được thêm tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nên HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn B |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LAI CHÂU
——————————
Bản án số: 06/2025/DS-PT
Ngày 05-6-2025
V/v “Tranh chấp yêu cầu
tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu và giải quyết hậu quả
pháp lý”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Đức Long
Các Thẩm phán: Bà Giang Thị Vượng
Bà Nguyễn Thị Thu Hà
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Tiến Dũng – Thẩm tra viên, Tòa án nhân dân
tỉnh Lai Châu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Dung - Kiểm sát viên.
Trong ngày 05 tháng 6 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai
Châu xét xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ lý số 13/2025/TLPT-DS ngày
16/4/2025 về “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý”. Do Bản án dân sự số
01/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh
Lai Châu bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2025/QĐPT-
DS ngày 06 tháng 5 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2025/QĐPT-
DS ngày 22/5/2025 giữa:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1974; (Có mặt).
Địa chỉ: Bản Hưng Phong, xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Lò Văn Hặc (Có mặt).
Luật sư, thuộc công ty Luật TNHH Hoàng Liên.
Địa chỉ: Tổ 23, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1976. (Có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1980. Đại diện theo ủy quyền là ông
Nguyễn Văn B (Văn bản ủy quyền ngày 25/9/2023)
2
Có cùng địa chỉ: Bản Nậm Dê, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai
Châu.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2. Ông Hàng A D, sinh năm 1973. (Có mặt).
Địa chỉ: Bản Chu Va 8, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
3. Ủy ban nhân dân xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn Đ – Chủ tịch UBND xã. (Vắng
mặt có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm,
nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1.1] Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng tại
Tòa án, nguyên đơn trình bày:
Năm 2017 ông Hoàng Văn H có nhận chuyển nhượng 01 mảnh đất của ông
Nguyễn Văn B, sinh năm 1976 và vợ là bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1980 (cùng
địa chỉ bản Nậm Dê, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu), vị trí tại
bản Chu Va 8, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu (tứ cận: Đông
giáp với suối Nậm Dê dài 60m; Nam giáp với đường dân sinh dài 45m; Bắc giáp
với đất ông K dài 30m; Tây giáp ruộng ông K dài 45m) với giá 250.000.000
đồng. Hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) viết
tay do ông H soạn, không có chứng thực của chính quyền địa phương.
Nguồn gốc mảnh đất là do ông B mua của ông Vũ Văn H1 (sinh năm 1976,
địa chỉ: bản Tân Hợp, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường), chưa có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), ông H1 chuyển cho ông B gồm: Giấy
mua bán viết tay của ông Hàng A D với ông Vũ Văn H1 cùng với một trích lục,
trích đo bản đồ địa chính khu đất xin giao, xin cấp đất xây dựng có xác nhận của
UBND xã Sơn Bình.
Khi nhận chuyển nhượng ông B có để lại: 01 ngôi nhà 02 gian rộng khoảng
40 m2, lợp ngói xi măng nhỏ, trước nhà có bắn mái để đặt máy xát; 01 máy xát
đầu nổ không nhớ nhãn hiệu; 01 chuồng lợn diện tích khoảng 30m
2
; chuồng lợn
02 gian, gạch bi. Ông H không có nhu cầu lấy tài sản nhưng ông B và bà O đã
để lại nên ông H đã nhận, ngoài ra không còn tài sản gì khác trên đất.
Hai bên thỏa thuận miệng, ông H có trách nhiệm lập hồ sơ và ra UBND xã
Sơn Bình chứng thực (nhưng chưa làm). Sau khi mua hơn 01 tháng ông H đổ đất
và đào móng làm nhà thì con ông Hàng A D không biết tên cùng với khoảng 05
đến 06 người đến cản trở, ông Hướng đã đến gặp ông B để nói chuyện nhưng
hai bên không thống nhất được quan điểm, khi đó ông D đang đi chấp hành án
phạt tù nên hai bên phải đợi ông D về mới giải quyết. Năm 2022 ông H được
biết diện tích đất mua của ông B, bà O đã được nhà nước cấp GCNQSD cho ông
Hàng A D. Các tài sản mà ông B để lại, hiện ông H đang cất giữ 01 máy xát, 01
đầu nổ còn các tài sản khác không biết do ai phá dỡ.
Ông H đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày
24/7/2017 giữa ông Hoàng Văn H và ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị O vô
hiệu; buộc ông B, bà O trả lại số tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi
3
triệu đồng). Ông H sẽ có trách nhiệm trả lại giấy tờ gồm: 01 giấy biên nhận
chuyển nhượng đất ngày 10/10/2001 giữa ông Vũ Văn H1 và ông Hàng A D; 01
trích lục, trích đo bản đồ địa chính khu đất xin giao, xin cấp đất xây dựng có xác
nhận của UBND xã Sơn Bình; 01 Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Vũ
Văn H1 và ông Hàng A D; trả lại các tài sản gồm: 01 máy xát, 01 đầu nổ; các tài
sản khác không biết ai là người phá dỡ nên ông H không có trách nhiệm trả.
[1.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, các biên bản lấy lời khai, và tại
phiên toà sơ thẩm bị đơn thống nhất trình bày:
Biết ông H có nhu cầu mua đất, ông B đã cho xem toàn bộ giấy tờ mà ông
được ông Vũ Văn H1 chuyển nhượng lại, ông H nhất trí mua và không đòi hỏi
thêm giấy tờ gì, cũng không yêu cầu đến các cơ quan có thẩm quyền để chứng
thực vào hợp đồng.
Khi mua bán có lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ viết tay (không đo
đạc diện tích mà chỉ ước chừng). Ông B, bà O đã chuyển nhượng lại đất và toàn
bộ tài sản trên đất (kèm theo hồ sơ mang tên ông Vũ Văn H1) cho ông H với trị
giá 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng), hai bên đã giao nhận tiền
đầy đủ. Khi giao dịch mua bán đất ông B không biết đất đã được cấp GCNQSD
cho ông D, khi xảy ra tranh chấp mới biết. Đất có nguồn gốc do ông H1 (sinh
năm 1976, trú tại: bản Tân Hợp, xã Sơn Bình, huyện Tam Đường) chuyển
nhượng giá 60.000.000 đồng năm 2011, chưa có GCNQSD nhưng có hồ sơ
được chính quyền UBND xã Sơn Bình chứng thực. Trên đất có: 01 nhà gỗ hai
gian được bắn hai mái ở ngoài khoảng 50m2; 01 bể nước; máy xát thóc cũ, sau
khi về sinh sống ông B đã sửa chữa, mua sắm thêm tài sản và xây thêm công
trình trên đất.
Khi chuyển nhượng ông B để lại những tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà
gỗ 02 gian, diện tích 40m2, lợp ngói xi măng, xung quanh được thưng gỗ (trị giá
50.000.000 đồng); 01 mái Proximăng trước hiên, xây gạch đỏ (40m2, trị giá
30.000.000 đồng); 01 bộ máy xát gạo mới (đầu nổ 24, cối chà bóng 1000, đầu
bóc chấu 1000, không nhớ hãng sản xuất (trị giá 30.000.000 đồng); 01 lò sấy
thảo quả xây gạch đỏ (03m x 06m = 18m2, trị giá 30.000.000 đồng); bắn chái
một chuồng lợn cũ từ lò sấy thảo quả (90m2, trị giá 30.000.000 đồng); 01 nhà vệ
sinh khép kín (01 bộ giàn năng lượng 24 ống, 01 bình nước nóng Kangaru 30 lít,
01 téc nước Sơn Hà 1.500 lít, tổng trị giá 30.000.000 đồng); 01 khu trại lợn
(10m x 20m = 200m2, lợp tôn hai mái, trị giá 120.000.000 đồng). Các giấy tờ
kèm theo hợp đồng chuyển nhượng QSD đất gồm: 01 giấy viết tay gốc giấy biên
nhận chuyển nhượng đất giữa ông H1 và ông D; 01 đơn xin cấp GCNQSD đất;
01 tờ trích lục; trích đo bản đồ địa chính (dấu đỏ) của UBND xã; 01 đơn xin
chuyển nhượng đất có chữ ký của anh Vũ Văn H1 và ông Hàng A D.
Nay ông H yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 24/7/2017 vô hiệu, ông và bà O không nhất trí. Trường hợp Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu, yêu cầu ông H hoàn trả hiện trạng tài sản như khi bàn giao
(không thanh toán bằng giá trị); không yêu cầu định giá tài sản; trả lại bộ hồ sơ
gốc.
Ngày 14/6/2024, ông B có đơn yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Vũ Văn H1 “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
4
QSD đất giữa ông Nguyễn Văn B và ông Vũ Văn H1 là vô hiệu và giải quyết
hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu”. Ngày
16/8/2024, ông B có đơn đề nghị rút yêu cầu độc lập đối với ông H1.
[1.3] Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, các văn bản và tài liệu, chứng
cứ gửi Toà án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Ông Vũ Văn H1 khai: Vào năm 2001 ông Hùng được ông D (tên gọi khác
D1) chuyển nhượng 01 mảnh đất có diện tích là 500m
2
, tại bản Chu Va 8, xã
Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu với giá 140.000 đồng. Khi mua bán
đất hai bên không lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ làm
một giấy biên nhận chuyển nhượng đất có xác nhận của trưởng bản Chu Va 8.
Không tiến hành đo đạc mà chỉ ước chừng diện tích khoảng 500m
2
. Sau đó ông
H1 có dựng một ngôi nhà gỗ 03 gian được lợp bằng ngói xi măng, một chuồng
lợn quây xung quanh bằng gỗ, số đất còn lại ông H1 trồng ngô và cây hoa màu
ngắn hạn trên đất. Đến năm 2007 ông H1 làm hồ sơ đề nghị UBND xã Sơn Bình
lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND xã Sơn Bình,
huyện Tam Đường tiếp nhận. Sau khoảng 02 tháng được anh Nguyễn Văn T địa
chính xã Sơn Bình thời đó trả lời là do hồ sơ bị thiếu, chưa đảm bảo để được cấp
GCNQSD, kể từ đó ông H1 không yêu cầu cấp GCNQSD. Ông H1 sử dụng đất
ổn định, không có tranh chấp, khoảng năm 2011 chuyển nhượng lại mảnh đất và
toàn bộ những tài sản trên đất cho anh Nguyễn Văn B với trị giá là 60.000.000
đồng (Sáu mươi triệu đồng). Không tiến hành đo đạc, không lập hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất, mà chỉ làm một giấy viết tay. Giấy biên nhận chuyển
nhượng đất, đơn xin chuyển nhượng đất (giữa ông H và ông D) năm 2001 do để
lâu đã bị nhàu nên ông H1 đã đem ra phô tô thành 01 bản để lại, hai bản gốc giờ
đã bị thất lạc. Đơn xin cấp GCNQSD có xác nhận của UBND xã Sơn Bình, ông
H1 được anh T địa chính đưa lại bản phô tô. Toàn bộ giấy tờ trên đã được ông
H1 đưa lại cho ông B.
Việc tranh chấp (giữa ông H và ông B) ông H1 không có ý kiến gì. Đối với
việc ông B rút yêu cầu độc lập ông H1 nhất trí và không có ý kiến gì. Khi mua
bán đất ông H1 bàn giao cho ông B: 01 nhà gỗ hai gian được làm bằng gỗ De từ
năm 2002, hai chái, trong đó hai gian nhà gỗ diện tích 40 m
2
(dài 08m, rộng
05m; cao 3,5m, 08 cột, 01 xà ngang; mái được lợp ngói xi măng); 02 chái được
thưng gỗ, diện tích mỗi bên là 17,5m
2
; 01 bộ máy xát thóc bóc tách nhãn hiệu
Vikyno, công xuất 750 mã lực trị giá 20.000.000 đồng. (Tất cả các tài sản đều
do ông Hùng xây dựng nên không có hồ sơ đất, không có bản thiết kế xây dựng
trên đất).
- Ông Hàng A D khai: Ông không bán đất nào cho ông H1, năm 2001 có
cho ông H1 mượn một mảnh đất tại bản Chu Va 8, xã Sơn Bình để đặt máy xát
thóc, không làm giấy tờ, ông H1 đưa 40.000 đồng để mua kẹo cho các con, ông
H1 dựng một ngôi nhà bằng gỗ để ở. Năm 2004 ông D vi phạm pháp luật (đi
chấp hành 24 tháng tù giam); năm 2012 ông D lại tiếp tục vi phạm pháp luật (đi
chấp hành 10 năm tù tại trại giam Hồng Ca); khi đang chấp hành án tại trại giam
Hồng Ca, ông được con trai là Hàng A S đến thăm và có nói cho biết mảnh đất
cho mượn đã bị ông H1 bán lại cho ông B, sau đó ông B bán lại cho ông H; ông
D bảo con trai về nhà báo với chính quyền xã Sơn Bình và có hành động can
5
thiệp. Chữ ký trong giấy biên nhận chuyển nhượng đất và đại diện chủ hộ trong
đơn xin chuyển nhượng đất ngày 10/10/2001 không phải của ông vì khi đó ông
không biết chữ (đi chấp hành án ông mới được cán bộ dạy cho cách viết tên của
mình). Hiện tại mảnh đất tranh chấp do ông quản lý và sử dụng nên không có ý
kiến gì. Ông D cung cấp cho Tòa án bản sao GCNQSD đất số N931143 mang
tên Hàng A D1 (D), vào sổ số 00947QSDĐ/1998/QĐ-UB/H-UBND ngày
30/12/1998, phần đính chính thể hiện hộ ông Hàng A D, địa chỉ Bản Chu Va 8,
xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
- UBND xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu: Kết quả đo đất
có phần diện tích 155,4m
2
thuộc hành lang suối do UBND xã quản lý; đề nghị
các hộ gia đình không được phép lấn chiếm.
[1.4] Lời khai những người làm chứng thể hiện:
- Ông Vàng A G: Năm 2001, ông G là trưởng bản bản Chu Va 8, xã Sơn
Bình, khi ở nhà thì có ông D và ông H1 đến nhà trình bày việc ông D bán một
mảnh đất tại cầu treo Chu Va (thuộc bản Chu Va 8, xã Sơn Bình) và nhờ xác
nhận; ông G ký xác nhận vào giấy biên nhận chuyển nhượng đất nhưng không
biết diện tích bao nhiêu, chỉ biết vị trí ở ngay cạnh đầu cầu treo thuộc bản Chu
Va 8, không biết số tiền mua bán.
- Ông Trần Đình H2: Năm 1999 khi ông chuyển đến sinh sống tại bản Nậm
Dê, xã Sơn Bình thì mảnh đất tranh chấp không có ai ở, ông H2 không biết việc
mua bán giữa ông H1 với ông D, khoảng năm 2004 - 2005 (không nhớ rõ thời
gian) ông H1 dựng nhà làm máy xát và bán quán (ông được nhờ đi dựng quán là
02 gian nhà gỗ khoảng 40m2, xung quanh thưng gỗ, bán chái hai đầu, một đầu
để máy xát, một đầu để bán hàng). Sau đó nghe nói ông B mua lại của ông H1;
ông B xây lại hai đầu chái của ngôi nhà (một đầu thành phòng ngủ và một đầu
thành nhà bếp); xây thêm 01 nhà vệ sinh (01m x 1,5m); bắn mái ra trước nhà,
xây tường xi măng xung quanh (khoảng 04m x 06m) để đặt máy xát; đằng bếp
ăn xây thêm 01 lò sấy thảo quả (02m x 04m); từ lò sấy ra bắn mái để làm 01 bếp
đun củi và 05 ô chuồng lợn (khoảng 4m x 16m); khoảng năm 2017 ông H2 được
nhờ xây thêm 01 nhà vệ sinh kiên cố (04m x 03m); phía trước nhà vệ sinh là bể
nước sạch khoảng 10m
3
; xây thêm 01 chuồng lợn (10m x 20m) lợp tôn thường;
xây nối thêm 01 dãy chuồng lợn (04m x 20m) nhưng chưa lợp tôn. Ông B bán
đất cho ông H không rõ năm nào, ông cũng không biết việc mua bán. Ông B để
lại toàn bộ tài sản trên cho ông H và một giàn máy xát mới mua gồm: 01 máy
nổ, 01 cối xay, 01 cối xát, 01 cối nghiền ngô, nhãn hiệu gì ông H2 không biết.
Ông H đến ở khoảng 10 ngày thì xảy ra tranh chấp nhưng ông cũng không để ý
vì bận việc nhà.
- Ông Ma A B1: Không biết nguồn gốc của mảnh đất tranh chấp và cũng
không rõ quá trình sử dụng. Khoảng năm 2006, 2007 ông B1 có thường xuyên
đi xát thóc tại nhà ông B có thấy nhà là ngôi nhà gỗ hai gian, bán một chái để
đặt máy xát và một chái để làm bếp nấu ăn (không biết diện tích); 01 chuồng lợn
cũ (không nhớ mấy gian); 01 chuồng mới (chưa thả lợn, không rõ mấy gian); 01
nhà tắm có nhà vệ sinh ở trong. Sau đó, ông B1 thấy nhà đang tháo rỡ (không

6
nhớ năm), đến hỏi mua nhà gỗ thì thấy người ở đó bảo là nhà đã bán rồi (không
biết người mua và người rỡ), không phải ông H.
- Ông Hảng A D2: Ông D2 không biết việc mua bán đất giữa các bên, ông chỉ
biết ông B có các tài sản là nhà, chuồng lợn, máy xát còn cụ thể diện tích như nào ông
không biết.
[2] Bản án sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn H.
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ngày 24/07/2017 giữa ông
H và ông B, bà O vô hiệu. Buộc ông B, bà O có trách nhiệm liên đới trả cho ông
H số tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng).
- Ông H có trách nhiệm trả lại các giấy tờ đất gồm: Bản gốc Giấy biên
nhận chuyển nhượng đất ngày 10/10/2001 giữa ông H và ông D; 01 trích lục,
trích đo bản đồ địa chính khu đất xin giao, xin cấp đất xây dựng có xác nhận của
UBND xã Sơn Bình; Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông H1 và ông D,
trả lại các tài sản ông H đang bảo quản là 01 máy xát, 01 đầu máy nổ cho bị đơn
ông B và bà O.
- Đình chỉ yêu cầu độc lập của bị đơn đối với người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông H1.
- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ghi nhận nguyên đơn tự nguyện
nộp chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 400.000 đồng và đã thực hiện xong.
- Về án phí: Bị đơn ông B, bà O phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là
300.000 đồng và án phí đối với phần giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ là
12.500.000 đồng, tổng cộng là 12.800.000 đồng, được khấu trừ số tiền 300.000
đồng ông đã nộp tạm ứng, còn phải nộp số tiền 12.500.000 đồng. Ông H được
trả lại số tiền tạm ứng án phí 6.250.000đ.
- Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo.
[3] Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 20/3/2025 ông Nguyễn Văn B làm đơn
kháng cáo toàn bộ bản án.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Không cung cấp thêm
tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Đề
nghị HĐXX buộc ông H trả lại các giấy tờ, xây dựng lại các tài sản đã nhận thì
ông trả lại số tiền đã nhận của ông H bởi khi mua bán không có biên bản bàn
giao tài sản, chỉ giao miệng, không có người làm chứng nhưng tài sản là có thật,
có lời khai của người biết tài sản trên đất, có bản ảnh vệ tinh (không có ngày
tháng, đơn vị cấp), ông H không nhận thì sao lại di chuyển tài sản của ông về
nhà.
- Nguyên đơn đề nghị HĐXX giữ nguyên án sơ thẩm, việc mua bán là có
thật, ông không có nhu cầu nên không nhận tài sản trên đất nhưng do ông B bà
O để lại, khi ông làm đào móng nhà con ông D đến ngăn cản ông đã đến thông

7
báo cho ông B và đến chính quyền địa phương đề nghị giải quyết, ông không
được nhận giấy tờ gốc như ông B nói.
- Ông Hàng A D trình bày: Năm 1998 ông được cấp GCNQSD đất, năm
2001 do các con còn nhỏ không canh tác, ông H1 hỏi mượn ông nhất trí cho
mượn 02 năm (không làm giấy tờ), ông H1 có cho 40.000 đồng (không phải
140.000 đồng như ông H1 khai) để mua kẹo cho các con; sau đó ông đi chấp
hành án 02 năm, khi về do chưa có nhu cầu sử dụng nên vẫn để ông H1 sử dụng.
Năm 2012 ông vi phạm pháp luật đi chấp hành án tại Trại Hồng Ca (lúc đó ông
H1 vẫn đang sử dụng), ông được con trai xuống thăm cho biết ông H1 đã bán
đất cho ông B, ông B bán cho ông H, ông đã bảo con về báo chính quyền và
ngăn cản. Năm 2020 ông về canh tác và sử dụng đến nay, khi đó trên đất không
có tài sản gì. Ông không đề nghị gì.
[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải
quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử,
các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự. Đề xuất đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân đề
nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 148; khoản 1 Điều 308/BLTTDS; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Xem xét Bản án sơ thẩm số
01/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh
Lai Châu theo hướng:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B.
- Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Ông B phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
- Các nội dung khác giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm
tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị đơn được làm trong thời hạn luật định, phù hợp với
các quy định tại Điều 272, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự là hợp lệ nên
được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã Sơn Bình được triệu tập
hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt có lý do, HĐXX tiến hành xét xử theo quy định
tại Điều 296/BLTTDS.
[2] Xác định tranh chấp và thẩm quyền: Căn cứ yêu cầu khởi kiện cấp sơ
thẩm xác định đây là vụ án dân sự “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” và “Giải quyết hậu quả pháp lý”
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và
thẩm quyền thuộc TAND huyện Tam Đường theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm
a khoản 1 Điều 39/BLTTDS là phù hợp.
8
[3] Về nội dung vụ án, HĐXX phúc thẩm xét thấy.
[3.1] Nguồn gốc đất: Căn cứ lời khai; kết quả xem xét thẩm định tại chỗ,
thửa đất tranh chấp mang tên Hàng A D1 (D), được cấp GCNQSD đất số
N931143, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyết sử dụng đất số
00947QSDĐ/1998/QĐ-UB/H-UBND ngày 30/12/1998. Ông B nhận chuyển
nhượng từ ông H1 năm 2011 (theo ông B, ông H1 khai), không xuất trình được
hợp đồng chuyển nhượng nên không xác định được diện tích, vị trí tứ cận. Ông
H1 khai nhận chuyển nhượng 500m
2
đất từ ông D năm 2001, không lập hợp
đồng mà chỉ có biên nhận chuyển nhượng (ông D khai cho mượn, không ký biên
nhận chuyển nhượng vì ông không biết chữ, hiện ông đang quản lý và sử dụng).
Như vậy ngày 24/7/2017 ông B, bà O chuyển nhượng QSD đất khi chưa được
cấp GCNQSD đất (hoặc có giấy tờ hợp pháp về QSD đất) nên không có đủ điều
kiện chuyển nhượng vi phạm điều cấm (Điều 167, Điều 188/Luật Đất đai năm
2013 và Điều 123/BLDS năm 2015); lập hợp đồng chuyển nhượng QSD đất viết
tay không công chứng, chứng thực vi phạm điểm a khoản 3 Điều 167/Luật Đất
đai năm 2013 và các Điều 117, 119, 129, khoản 1 Điều 502, Điều 503/BLDS
năm 2015. HĐXX sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyến bố hợp
đồng chuyển nhượng QSD đất vô hiệu là có căn cứ pháp luật.
[3.2] Giải quyết hậu quả pháp lý:
Về lỗi: Khi giao kết hợp đồng các bên có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân
sự; biết điều kiện chuyển nhượng QSD đất nhưng vẫn thực hiện giao kết hợp
đồng, do đó xác định lỗi của các bên là như nhau. Hợp đồng vô hiệu sẽ không
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập,
các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nguyên đơn ông H yêu cầu bị
đơn lại số tiền 250.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì thêm và nhất trí
trả lại những giấy tờ đã nhận. Bị đơn không yêu cầu định giá tài sản, không yêu
cầu thanh toán giá trị tài sản mà yêu cầu ông H xây dựng lại toàn bộ tài sản trên
đất như khi bàn giao.
Các tài sản trên đất không còn trên thực tế, không xác định được người
phá hủy, các bên đương sự và người làm chứng mô tả các tài sản không khớp
nhau, không chi tiết, không có tài liệu cấp phép xây dựng, người làm chứng
cũng không biết việc mua bán và các bên giao cho nhau những tài sản gì. Ủy
ban nhân dân xã Sơn Bình giải quyết tranh chấp, xác minh nguồn gốc, xác minh
thực địa trên đất không có tài sản gì nên không ghi nhận tài sản trên đất. Hợp
đồng chuyển nhượng QSD đất không mô tả vật, kiến trúc, tài sản trên đất, không
có biên bản bàn giao tài sản trên đất, diện tích đất thực địa. Do vậy, không có
căn cứ để xác định các loại tài sản trên đất, diện tích, đặc điểm tài sản ông B bàn
giao cho ông H; không có căn cứ để định giá; hiện đất do ông D (chủ sở hữu hợp
pháp) quản lý. Do đó HĐXX sơ thẩm chấp nhận buộc các bên bàn giao tài sản,
đồ vật đã nhận và hiện đang quản lý; không chấp nhận yêu cầu xây dựng lại toàn
bộ tài sản trên đất như lời khai của bị đơn khi bàn giao là phù hợp.
[3.3] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Hoàng Văn H tự nguyện
nộp toàn bộ chi phí và đã thực hiện xong.
9
[3.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: HĐXX sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm và án phí giá ngạch đối với phần tài sản theo yêu cầu của
nguyên đơn; trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn là phù hợp.
[3.5] Các nội dung khác là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên
được chấp nhận.
Như đã phân tích ở trên; mặt khác tại phiên tòa phúc thẩm người kháng
cáo không cung cấp được thêm tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình, nên HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
ông Nguyễn Văn B, do đó cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu án phí DSPT theo quy định.
[5] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu là có căn cứ pháp
luật cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B.
[2] Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 01/2025/DS-ST ngày 06/3/2025 của Tòa
án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
[3] Án phí phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Văn B phải chịu 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền
300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai số 0001123, ngày 21/3/2025 tại Chi
cục THADS huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
05/6/2025.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải
thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- VKSND huyện Tam Đường;
- Chi cục THADS huyện Tam Đường;
- TAND huyện Tam Đường;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Đức Long
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm