Bản án số 05/2024/HC-ST ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Hà Nam
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 05/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2024/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 05/2024/HC-ST ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Hà Nam |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Nam |
Số hiệu: | 05/2024/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ông Ngô Văn N khởi kiện yêu cầu Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh T giải quyết chế độ chính sách cho ông N theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 05/2024/HC-ST
Ngày 27 tháng 9 năm 2024
V/v “Khiếu kiện quyết định
hành chính”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thuỷ;
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lại Văn Phong và ông Trần Tặng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Thanh Huyền - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Đông - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2024/TLST-HC ngày 16 tháng 4 năm
2024, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính”; theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 18/2024/QĐXXST-HC ngày 04 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Ngô Văn N, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn P, xã
N, huyện K, tỉnh Hà Nam; người đại diện theo uỷ quyền: Ông Đặng Kim T, sinh
năm 1958; địa chỉ: Thôn P, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam (Hợp đồng uỷ quyền
ngày 06/5/2024); có mặt ông T.
- Người bị kiện: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H; địa chỉ: Số
A, đường T, phường H, thành phố P, tỉnh Hà Nam; người đại diện theo pháp
luật: Ông Nguyễn Văn H - Chức vụ: Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội tỉnh H; người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện: Ông Đặng Xuân
H1 - Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H (Giấy uỷ
quyền ngày 26/8/2024); có mặt ông H1.
- Người làm chứng:
+ Bà Đào Thị A, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn C, xã S, huyện B, tỉnh Lào
Cai; vắng mặt.
+ Bà Trần Thị N1, sinh năm 1960; địa chỉ: Số nhà G, đường T, phường B,
thành phố L, tỉnh Lào Cai; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Tại đơn khởi kiện, Bản tự khai của người khởi kiện, người bị kiện, những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và kết quả tranh tụng tại phiên toà, nội
dung vụ án tóm tắt như sau:
Ông Ngô Văn N là công nhân của Lâm trường L, huyện B, tỉnh Hoàng Liên
Sơn (Nay thuộc tỉnh Lào Cai). Theo ông Ngô Văn N khai, tháng 2 năm 1979
ông N được cấp súng đạn, trực chốt tại Mỏm đồi cao xã L, đào hào công sự trên
các điểm chốt, trực chốt; đồng thời, tăng cường sang mặt trận C của Mường K
khoảng tháng 4 hoặc tháng 5 năm 1979, mỗi đợt đi khoảng 4 đến 5 ngày để làm
nhiệm vụ, cụ thể làm đường tải đạn, tải gạo. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông N
về quê hương Hà Nam sinh sống và không còn lưu giữ được tài liệu, giấy tờ
liên quan.
Ngày 09/11/2011, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 62/2011/QĐ-
TTG quy định về chế độ chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc.
Ngày 05/01/2012, Bộ Q, Bộ L, Bộ T1 đã ký Thông tư liên tịch số
01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thực hiện Quyết định số
62/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ.
Tại Giấy xác nhận số 210/GXN-TM ngày 24/9/2019 của Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh L thể hiện: Lâm trường Lùng Phình giai đoạn từ tháng 02 năm 1979
đóng quân tại xã L, huyện B, tỉnh Hoàng Liên Sơn; lực lượng tự vệ và cán bộ
công nhân của Lâm trường đã tham gia phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới phía
Bắc của Tổ quốc. Tại Văn bản trả lời đơn số 36/PCT-CS ngày 07/7/2021 của Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh L khẳng định trong năm 1979 những người không điều
động sang C, huyện M ở lại trực trên các chốt cùng bộ đội thuộc Trung đoàn 819
tại xã L được tính là những người trực tiếp tham gia phục vụ chiến đấu. Tại Văn
bản số 208/BCH-CT ngày 28/3/2022 của Ban Chỉ huy quân sự huyện B thể hiện
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L, Ban Chỉ huy quân sự huyện B đã tham mưu với cấp
uỷ, chính quyền địa phương chỉ đạo các đơn vị tự vệ trên địa bàn huyện; trong
đó có đơn vị tự vệ Lâm trường đóng tại xã L tham gia cùng với bộ đội. Tuy
nhiên, do điều kiện thời gian sau ngày 17/02/1979 đến nay đã lâu; đồng thời, đội
ngũ cán bộ, Chỉ huy của Ban Chỉ huy quân sự huyện B đã thay đổi qua nhiều thế
hệ nên hiện nay không còn lưu giữ được các giấy tờ liên quan đến đơn vị tự vệ
Lâm trường L, huyện B; Ban Chỉ huy quân sự huyện B xác nhận trong thời gian
diễn ra chiến sự ngày 17/02/1979, lực lượng công nhân Lâm trường Lùng Phình
có được Ban Chỉ huy quân sự huyện trang bị vũ khí, kỹ thuật làm nhiệm vụ trực
sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên địa bàn.
Một số đồng đội của ông N cùng công tác tại Lâm trường Lùng Phình năm
1979 hiện đang cư trú tại các tỉnh khác đã được giải quyết chế độ một lần theo
Quyết định 62/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ.
Ông Ngô Văn N đã nhiều lần làm hồ sơ gửi đến cơ quan có thẩm quyền đề
nghị được hưởng trợ cấp đối với người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tại
khu vực biên giới phía Bắc theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng
3
Chính phủ. Tuy nhiên, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H có Văn bản
số 2463/SLĐTBXH-NCC trả lời ông N chưa đủ điều kiện để giải quyết chế độ
theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ.
Quan điểm của người khởi kiện đề nghị huỷ Văn bản số 2463/SLĐTBXH-
NCC ngày 09/10/2023 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H về việc
trả lời đơn của ông Ngô Văn N; buộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
H giải quyết chế độ cho ông N theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày
09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Quan điểm của người bị kiện: Tháng 10 năm 2021, Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội tỉnh H nhận 27 hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ theo Quyết định
62/2011/QĐ-TTg; trong số đối tượng đã đề nghị năm 2016 của huyện K (Có hồ
sơ của ông Ngô Văn N). Kê khai lại hồ sơ có thời gian từ tháng 02 năm 1979
đến tháng 12 năm 1979 là công nhân có trực chốt cùng bộ đội 819; ngày
05/11/2021, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H ban hành Văn bản số
1821/LĐTBXH-NCC đề nghị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L cho ý kiến kết luận về
nội dung công nhân Lâm trường Lùng Phình trực chốt cùng bộ đội 819 từ tháng
02 năm 1979 đến tháng 12 năm 1979.
Tại Công văn số 65/PCT-CS ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Phòng Chính
trị thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L xác nhận: “Phòng Chính trị đã chỉ đạo Ban
Chỉ huy quân sự huyện B phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã
hội huyện B rà soát danh sách, những tập thể, cá nhân tham gia chiến đấu trên
địa bàn. Đồng thời, qua nghiên cứu cuốn Lịch sử Đảng bộ lực lượng vũ trang
huyện B (Từ năm 1976 đến 1990), không thể hiện công nhân tại Lâm trường
Lùng Phình tham gia thực hiện nhiệm vụ “Trực chốt cùng bộ đội 819” trên địa
bàn huyện B. Do vậy, Phòng Chính trị, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L không có căn
cứ để xác nhận”.
Đến tháng 10 năm 2022, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H tiếp
tục nhận được đơn của ông Đặng Văn Đ xã N, huyện K (Đại diện cho các đối
tượng đề nghị trong đó có hồ sơ của ông Ngô Văn N), cung cấp Văn bản xác
nhận số 208/BCH-CT ngày 28/3/2022 của Ban Chỉ huy quân sự huyện B xác
nhận: “Công nhân Lâm trường Lùng Phình có được Ban Chỉ huy quân sự huyện
B trang bị vũ khí, kỹ thuật làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và phục vụ
chiến đấu trên địa bàn”.
Ngày 28/10/2022, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H ban hành
Công văn số 1999/LĐTBXH-NCC đề nghị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L chỉ đạo
Ban Chỉ huy quân sự huyện B xác minh kết luận nội dung xác nhận trong văn
bản trả lời đơn đề nghị của ông Đặng Văn Đ số 208/BCH-CT ngày 28/3/2022
(Sao gửi cùng Công văn số 1999/LĐTBXH- NCC ngày 28/10/2022).
Ngày 20/02/2023, Ban Chỉ huy quân sự huyện B ban hành Văn bản số
147/BHC-CT đính chính và xác nhận: “Trong thời gian diễn ra chiến sự
17/02/1979, lực lượng tự vệ Lâm trường L1 có được Ban Chỉ huy quân sự huyện
4
B trang bị vũ khí, kỹ thuật làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và phục vụ
chiến đấu trên địa bàn”.
Để thực hiện chính sách đúng đối tượng và đảm bảo đúng quy định, Sở L
đã ban hànhVăn bản số 440/SLĐTBXH-NCC ngày 09/3/2023 về việc xin ý kiến
Cục Q và Cục Người có công của Bộ L đối với trường hợp của ông Ngô Văn N
và các đối tượng khác.
Ngày 24/3/2023, Cục Q đã ban hành Công văn số 854/CS-NC đề nghị Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H chỉ đạo các cơ quan chức năng phối
hợp với Ban Chỉ huy quân sự huyện B và Lâm trường L để xác minh làm rõ.
Ngày 12/4/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H ban hành Công
văn số 758/SLĐTBXH-NCC triển khai và hướng dẫn đối tượng là công nhân
Lâm trường Lùng Phình huyện B có thời gian tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc ở biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979 cung cấp tài liệu và đề nghị Ban
Chỉ huy quân sự huyện B và Lâm trường L (Nếu Lâm trường Lùng Phình giải
thể thì cơ quan cấp trên của Lâm trường), xác nhận cho từng trường hợp có thời
gian trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thiết lập hồ sơ gửi về Ủy ban
nhân dân xã để thẩm định; sau đó, trình các cấp có thẩm quyền theo quy định.
Đối tượng công nhân Lâm trường Lùng Phình không hoàn thiện hồ sơ theo
hướng dẫn mà yêu cầu thực hiện theo Thông tư số 01/2012/TTLT-BQP-
BLĐTBXH-BTC ngày 05/01/2012 và xét duyệt theo nhóm đối tượng không có
giấy tờ với lý do: Không lấy được xác nhận về thời gian trực tiếp tham gia chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Sở L đã tổ chức Đoàn công tác xác minh đối
tượng lực lượng công nhân Lâm trường Lùng Phình huyện B, tỉnh Lào Cai.
Tại Văn bản số 147/BCH-CT ngày 20/02/2023 của Ban Chỉ huy quân sự
huyện B đã khẳng định: “Trong thời gian diễn ra chiến sự ngày 17/02/1979, lực
lượng tự vệ Lâm trường Lùng Phình có được Ban Chỉ huy Quân sự huyện B
trang bị vũ khí, kỹ thuật làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn”;
đồng thời,Ban Chỉ huy quân sự huyện B cung cấp cuốn Lịch sử lực lượng vũ
trang huyện B giai đoạn 1950-2018, tại trang 103 dòng 8 từ dưới lên có viết:
“Chấp hành mệnh lệnh của Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện các đơn
vị dân quân, tự vệ đã có mặt tập trung sẵn sàng chiến đấu gồm 2 Đại đội: Đại
đội tự vệ cơ động của huyện và Đại đội dân quân cơ động của các xã T, L, mỗi
đại đội quân số từ 100-150 người”.
Ngoài ra, Ban Chỉ huy quân sự huyện B không cung cấp được tài liệu khác
làm cơ sở xác nhận lực lượng tự vệ Lâm trường Lùng Phình được Ban Chỉ huy
quân sự huyện B trang bị vũ khí, kỹ thuật làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu.
Theo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện B cung cấp đến nay
trên địa bàn huyện B chưa giải quyết trường hợp nào là công nhân Lâm trường
Lùng Phình đề nghị giải quyết chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày
09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 10/01/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh H ban hành Văn bản số
44/UBND-TCDNC về nội dung đơn đề nghị của ông Ngô Văn N như sau:“Căn
5
cứ kết quả xác minh, đối chiếu với quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg
ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số
01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 05/01/2012 của Bộ Q, Bộ L, Bộ T1
thì số đối tượng trên chưa đủ điều kiện để giải quyết chế độ theo Quyết định
62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Căn cứ kết quả xác minh, quá trình làm việc của Đoàn công tác với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân (UBND huyện B, Ban Chỉ huy quân sự huyện B, Phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội huyện B); gặp và trao đổi trực tiếp với công
nhân Lâm trường Lùng Phình hiện cư trú tại huyện B; làm việc với Hội Cựu
thanh niên xung phong huyện B; đối chiếu với Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg
ngày 09/11/2011 và Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC
ngày 05/01/2012, Sở L khẳng định: “Nội dung đề nghị của các công dân là chưa
đủ điều kiện để giải quyết chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ đối với ông N. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H đề
nghị Toà án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N.
Quan điểm của người làm chứng (Bà Đào Thị A và bà Trần Thị N1) đều
xác định: Tháng 8 năm1978, bà A, bà N1 cùng ông Ngô Văn N và một số thanh
niên nam nữ xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam được lệnh lên xã L, huyện B, tỉnh
Hoàng Liên Sơn (Nay là tỉnh Lào Cai) để thành lập Lâm trường B, nhiệm vụ
làm kinh tế gắn với quốc phòng an ninh biên giới. Ngày 17/02/1979, quân Trung
Quốc đánh chiếm biên giới V, Đội 3 có cả ông Ngô Văn N được cấp phát súng
đạn lên các chốt điểm cao, đào hào công sự, làm hầm chữ A, trực chiến, canh
gác ngày đêm, tất cả Lâm trường dừng hoạt động sản xuất, chuyển từ trạng thái
thời bình sang thời chiến. Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1979, Lâm trường
được lệnh điều động một số công nhân tăng cường sang mặt trận C, huyện M,
tỉnh Lào Cai làm nhiệm vụ tải lương thực và làm đường giao thông. Sau chiến
tranh, bà A và bà N1 đã được giải quyết chế độ theo Quyết định số 62/TTG ngày
09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Tại phiên toà, đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện và cho rằng ông Ngô Văn N được Ban Chỉ huy quân sự huyện B cấp
phát súng đạn, trực chốt tại Mỏm đồi cao thuộc xã L, đào hào công sự trên các
điểm trực chốt; đồng thời, tăng cường sang mặt trận C của M. Vì vậy, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N.
Đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện tại phiên toà xác định: Năm
2016, ông Ngô Văn N đã kê khai là thanh niên xung phong đề nghị hưởng chế
độ, chính sách; sau đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H xác minh
và kết luận ông N không phải là thanh niên xung phong. Ngoài ra, ông Ngô Văn
N còn đề nghị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh H công nhận ông N là công nhân quốc
phòng và không được chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để
tạo điều kiện cho các bên đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ
6
án. Tuy nhiên, người bị kiện có đơn xin vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành đối
thoại được.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Quá trình thụ lý, giải quyết xét
xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và các đương sự đã tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Về hướng giải quyết vụ
án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng
hành chính; bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N. Về án phí: Do
ông N là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên miễn án phí hành chính
sơ thẩm cho ông N theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự
và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam; Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng, tại phiên tòa người làm chứng (Bà Đào Thị A) vắng mặt
nhưng đã có giấy xác nhận trình bày ý kiến. Căn cứ vào khoản 1 Điều 159 của
Luật Tố tụng hành chính; Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N khiếu
kiện quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, còn thời
hiệu và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam theo quy
định tại khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 32 và điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật
Tố tụng hành chính.
[3] Xét nội dung khởi kiện của ông Ngô Văn N, Hội đồng xét xử thấy:
Ngày 16/8/2021, Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam ban hành
Công văn số 28/CV-UBND đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
H, Ủy ban nhân dân huyện K và Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội
huyện K xem xét, giải quyết cho 27 công dân tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc, làm nhiệm vụ Quốc tế đã được phục viên, xuất ngũ, thôi việc được hưởng
chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng
Chính phủ (Kèm theo danh sách); trong đó có ông Ngô Văn N, sinh năm 1962;
địa chỉ: Thôn P, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam, số năm được hưởng 11 tháng,
mức hưởng 2.500.000 đồng.
Theo B khai cá nhân đề nghị hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số
62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ (Mẫu 1B), ông
Ngô Văn N khai bản thân thuộc đối tượng là công nhân Lâm trường Lùng Phình
có quá trình công tác từ tháng 08 năm 1978 đến tháng 02 năm 1979. Cụ thể: Từ
tháng 02 năm 1979 đến ngày 09/3/1979, trực chốt cùng bộ đội 819 tại L; từ ngày
10/3/1979 đến ngày 17/3/1979, đi vác gạo lên C huyện M; từ ngày 18/3/1979
7
đến tháng 12 năm 1979, trực chốt tại L; từ tháng 01/1980 đến tháng 06 năm
1980 là công nhân Lâm trường Lùng Phình vừa sản xuất vừa trực chiến; đến
tháng 6 năm 1980 thôi việc, về quê xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng chế độ do UBND xã N gửi kèm theo
Công văn số 28/CV-UBND; ngày 05/11/2021, Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội tỉnh H ban hành Văn bản số 1821/LĐTBXH-NCC đề nghị Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L cho ý kiến kết luận để xác minh đối với nội dung ông N khai:
“Từ tháng 02 năm 1979 đến 09/3/1979, ông N trực chốt cùng bộ đội 819 tại L”.
Ngày 22/11/2021, Phòng Chính trị - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L ban hành Công
văn số 65/PCT-CS cho ý kiến như sau: “Phòng Chính trị đã chỉ đạo Ban Chỉ huy
quân sự huyện B phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện
B rà soát danh sách, những tập thể, cá nhân tham gia chiến đấu trên địa bàn;
đồng thời, qua nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ lực lượng vũ trang huyện B (Từ
năm 1976 - 1990), không thể hiện (Công nhân tại Lâm trường Lùng Phình) tham
gia thực hiện nhiệm vụ “Trực chốt cùng bộ đội 819” trên địa bàn huyện B. Do
vậy, Phòng Chính trị - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L không có căn cứ để xác nhận”.
Đến tháng 10 năm 2022, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H
nhận được Văn bản số 208/BCH-CT ngày 28/3/2022 của Ban Chỉ huy quân sự
huyện B, tỉnh Lào Cai trả lời đề nghị của ông Đặng Văn Đ (Là một trong các
công dân được đề nghị hưởng chế độ theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg cùng
với ông Ngô Văn N). Theo đó, Ban Chỉ huy quân sự huyện B xác nhận trong
thời gian diễn ra chiến sự ngày 17/02/1979, lực lượng công nhân Lâm trường
Lùng Phình có được Ban Chỉ huy quân sự huyện trang bị vũ khí, kỹ thuật làm
nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên địa bàn. Ngày
28/10/2022, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H ban hành Công văn số
1999/LĐTBXH-NCC đề nghị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L chỉ đạo Ban Chỉ huy
quân sự huyện B xác minh nội dung xác nhận tại Văn bản số 208/BCH-CT ngày
28/3/2022 trả lời đơn đề nghị của ông Đặng Văn Đ. Ngày 20/02/2023, Ban Chỉ
huy quân sự huyện B ban hành Văn bản số 147/BHC-CT đính chính và xác
nhận: “Trong thời gian diễn ra chiến sự ngày 17/02/1979 thì lực lượng tự vệ
Lâm trường Lùng Phình có được Ban Chỉ huy quân sự huyện trang bị vũ khí, kỹ
thuật làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên địa bàn”.
Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Cục Q - Bộ Q tại Công văn số
2418/CS-NC ngày 17/7/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H đã
thành lập Đoàn công tác phối hợp với UBND huyện B, tỉnh Lào Cai và các cơ
quan, đơn vị, địa phương liên quan để kiểm tra, xác minh, kết luận các đối tượng
thuộc lực lượng tự vệ Lâm trường Lùng Phình được Ban Chỉ huy quân sự huyện
B trang bị vũ khí làm nhiệm vụ, trực sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu
trên địa bàn trong thời gian diễn ra chiến sự ngày 17/02/1979. Quá trình làm
việc, Ban Chỉ huy quân sự huyện B, tỉnh Lào Cai có quan điểm giữ nguyên xác
nhận tại Văn bản số 147/BHC-CT ngày 20/02/2023 (Theo cuốn Lịch sử lực
lượng vũ trang huyện B giai đoạn 1950-2018); ngoài ra, không có tài liệu, chứng
cứ làm cơ sở xác nhận các công dân đề nghị hưởng chế độ theo Quyết định số
8
62/2011/QĐ-TTg (Trong đó có ông Ngô Văn N) thuộc lực lượng tự vệ Lâm
trường Lùng Phình được Ban Chỉ huy quân sự huyện B trang bị vũ khí, kỹ thuật
làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu.
Bản thân ông Ngô Văn N đã kê khai là thanh niên xung phong đề nghị
hưởng chế độ, chính sách (Năm 2016); Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh H xác minh, kết luận ông N không phải là thanh niên xung phong. Sau đó,
ông Ngô Văn N còn đề nghị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh H công nhận là công nhân
quốc phòng và cũng không được chấp nhận. Như vậy, ông Ngô Văn N khai đều
không chính xác.
Đối với người làm chứng (Bà Trần Thị N1) khai: Bà N1 là công nhân Lâm
trường Lùng Phình, có quá trình công tác và thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến
đấu tại Lâm trường Lùng Phình như ông Ngô Văn N và đã được Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội tỉnh L xem xét cho hưởng chế độ theo Quyết định số
62/20211/QĐ-TTg. Tuy nhiên, căn cứ Văn bản số 147/BHC-CT ngày
20/02/2023 của Ban Chỉ huy quân sự huyện B và Công văn số 65/PCT-CS của
Phòng Chính trị - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L, Hội đồng xét xử thấy không có cơ
sở để chấp nhận lời khai của bà Trần Thị N1 làm căn cứ giải quyết đề nghị khởi
kiện của ông Ngô Văn N. Riêng người làm chứng (Bà Đào Thị A) là công nhân
của Nông trường Phú X không phải là công nhân Lâm trường Lùng Phình.
Từ phân tích trên thấy, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H đã xác
minh, làm rõ ông Ngô Văn N không thuộc đối tượng được hưởng chế độ theo
Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Do
vậy, ngày 09/10/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H đã ban hành
Văn bản số 2463/SLĐTBXH-NCC về việc trả lời đơn của ông Ngô Văn N là
đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét
xử, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N.
[4] Về án phí: Do ông Ngô Văn N là người cao tuổi (Trên 60 tuổi) và có
đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hành chính sơ
thẩm cho ông Ngô Văn N theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 32; Điều 115; Điều 116; khoản
1 Điều 157; khoản 1 Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 204; Điều 206;
khoản 1 Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính. Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg
ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối
với đối tượng tham giachiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở C-
pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ,
thôi việc; Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày
05/01/2012 của Bộ Q, Bộ L, Bộ T1 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Nghị quyết số
9
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn N đề nghị Tòa án xem
xét, giải quyết: Huỷ Văn bản số 2463/SLĐTBXH-NCC ngày 09/10/2023 của Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H về việc trả lời đơn của ông Ngô Văn
N và buộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H giải quyết chế độ cho
ông N theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng
Chính phủ.
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Miễn án phí cho ông Ngô Văn N.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa được
quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- Cục THADS tỉnh Hà Nam;
- Phòng KTNV&THA Tòa án tỉnh HàNam;
- Các đương sự;
-Tòa HC, Bộ phận HCTP;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Nguyễn Đức Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm