Bản án số 03/2024 ngày 24/09/2024 của TAND huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2024
Tên Bản án: | Bản án số 03/2024 ngày 24/09/2024 của TAND huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bắc Hà (TAND tỉnh Lào Cai) |
Số hiệu: | 03/2024 |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | BA Tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa NĐ Ông Lưu Đình T, BĐ bà Nguyễn Thị N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ
TỈNH LÀO CAI
_________________________________
Bản án số: 03/2024/DS-ST
Ngày: 19 - 9 - 2024
V/v “Tranh chấp về quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
____________________________________________________________________
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Hương
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Lục Văn Chằng
2. Bà Nguyễn Thị Thanh.
-Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Bích Ngọc - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai tham
gia phiên toà: Bà Lê Vân Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bắc Hà,
tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2024/TLST-DS ngày
07 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất”, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 03/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 9 năm 2024 giữa
các đương sự.
1. Nguyên đơn: Ông Lưu Đình T, năm sinh 1953 và bà Nguyễn Thị H,
năm sinh 1957
Cùng địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H: Ông Lưu Đình T,
năm sinh 1953
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai (Văn bản ủy quyền ngày 26
tháng 5 năm 2024) - Có mt.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, năm sinh 1949
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh lào Cai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Anh Dương Văn S, năm sinh
1984.
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai (Văn bản ủy quyền ngày 11
tháng 7 năm 2024)- Có mt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Lưu Khánh N, năm sinh 1978
+ Anh Lưu Tất T, năm sinh 1983
+ Chị Nguyễn Thị Thanh H, năm sinh 1984
Cùng địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai
2
+ Chị Lưu Thị Tuyết N, năm sinh 1980
Địa chỉ: Khu N, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu
Người đại diện theo ủy quyền của chị Lưu Khánh N, chị Lưu Thị
Tuyết N, chị Nguyễn Thị Thanh H: Anh Lưu Tất T, năm sinh 1983
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai (Văn bản ủy quyền ngày 26
tháng 5 năm 2024) - Có mt.
- Người làm chứng:
+ Ông Vũ Văn N, năm sinh 1954
Địa chỉ: Tổ S, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai - Có mt.
+ Anh Lục Văn S, năm sinh 1980
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai - Vắng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn ông Lưu Đình T và là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn
Thị H trình bày: Ngày 26/7/1999 hộ gia đình ông được UBND huyện Bắc Hà
cấp giấy CNQSDĐ số O 717289 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 00087/QSDĐ/ 228- QĐ.UBNDH. 1999 từ thửa số 1- 91 đến thửa số 1-95 tờ
bản đồ số 02, diện tích 2.760 m
2
(trong đó thửa số 1- 92 diện tích 400 m
2
, thửa
số 1-91 có diện tích 860 m
2
). Đất hộ ông có giáp danh với đất hộ ông Vũ Văn N.
Năm 2001 gia đình ông xây nhà, do nhà gần suối nên đã để lại diện tích đất trên
móng nhà là 0,6 m chạy sâu vào cuối đất, mục đích để làm rãnh thoát nước. Nhà
ông N có mở một ngõ nhỏ làm lối đi ra đường quốc lộ, ông N có cho bà N là
hàng xóm đi nhờ ngõ. Sau đó bà N sửa ngõ đã cố tình lấn sang phần đất của gia
đình ông cụ thể: Phía trước đất lấn 0,25m, phía sau lấn 0,35m, diện tích lấn là
11,5m
2
tại thửa số 1- 91 và thửa số 1-92 cấp cho hộ gia đình ông. Do rãnh thoát
nước bị thu hẹp không tiêu nước được, ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình
ông. Thôn và UBND xã N đã hòa giải, yêu cầu bà N trả lại cho hộ ông 0,5m đất
tính từ mép tường nhà ông ra và làm đường thoát nước thải riêng, bà N đã làm
đường thoát nước thải riêng, nhưng không trả lại diện tích đất cho gia đình ông
và đề nghị giải quyết lại; ngày 14/4/2023 UBND xã N giải quyết hai bên thống
nhất: Múc một phần đường song song với nhà để gia đình ông xuống đưa vật
liệu vào khắc phục rãnh thoát nước với kích thước 0,5m, sau đó hai bên sẽ đt
tấm đan để thuận lợi đi lại nhưng bà N không thực hiện. Năm 2023 ông đã làm
đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bà N phải trả lại phần diện tích đất lấn chiếm
là 11,5 m
2
, nhưng mong muốn hai bên thỏa thuận nên ông rút đơn để hai bên gia
đình tự thỏa thuận, nhưng không được.
Nay ông đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị N phải trả lại
diện tích đất lấn chiếm 11,5m
2
và tháo dỡ phần bờ kè, trả lại diện tích đất cho hộ
3
gia đình ông. Về phần tài sản bị ảnh hưởng, ông không đề nghị Tòa án giải
quyết.
- Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà
Nguyễn Thị N và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Dương Văn S
trình bày: Năm 1986 bà N được Nông trường dược liệu Bắc Hà cấp đất để làm
nhà ở, do nhà bà ở sâu trong ngõ nên năm 1990 gia đình bà đã đi nhờ ngõ nhà
ông Vũ Văn N, cạnh ngõ ông N có làm một rãnh thoát nước, năm 2004 nhà
nước mở rộng và nâng cao đường quốc lộ, do đường cao hơn ngõ nên bà đã
nâng ngõ lên bằng đường quốc lộ. Con gái ông T là chị N không cho nhà bà
làm vì bịt cửa sổ, UBND xã N đồng ý để nhà bà tiếp tục được nâng ngõ bằng
đường quốc lộ. Đến năm 2006 ông N xây nhà giáp tỉnh lộ 153 (quốc lộ 4E),
ông đã cho bà thêm đất để mở rộng ngõ đi. Đã gần 20 năm nay gia đình bà sử
dụng con ngõ này, gia đình ông T không có ý kiến gì. Đến tháng 11/2022 gia
đình ông T làm đơn lên UBND xã N đề nghị gia đình bà phải chuyển đường
thoát nước sinh hoạt cũng là đường thoát nước từ trên đồi xuống, không cho
nước chảy xuống rãnh thoát nước, bà đã thuê cắt mt đường ngõ và lắp ống
nước thải sinh hoạt chảy thẳng ra suối. Sau đó gia đình ông T yêu cầu gia đình
bà phải đào ngõ để sửa rãnh nước. Gia đình bà không nhất trí đã viết đơn nhờ
UBND xã N can thiệp. Ngày 14/4/2023 xã đã giải quyết nếu hộ ông T sửa rãnh
thì cả hai nhà cùng làm, sau khi sửa xong và xây lại bờ kè ngõ, chi phí hết bao
nhiêu bà chịu 2/3, ông T chịu 1/3. Nhưng hộ ông T không đồng ý. Nay hộ ông
T khởi kiện yêu cầu bà phải trả 11,5 m
2
và tháo dỡ phần bờ kè ngõ, bà không
đồng ý trả lại cho hộ ông T diện tích đất trên và không đồng ý tháo dỡ toàn bộ
bờ kè đã xây, vì diện tích đất đó không phải là đất của hộ ông T.
- Người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại
diện theo ủy quyền của chị Lưu Khánh N, chị Lưu Thị Tuyết N, chị Nguyễn Thị
Thanh H: Anh Lưu Tất T trình bày: Đối với nguồn gốc thửa đất mà hộ gia đình
anh đang tranh chấp với bà Nguyễn Thị N: Năm 1999 hộ gia đình anh được
UBND huyện Bắc Hà cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích là 2.760
m
2
. Khi xây nhà gia đình anh đã để lại diện tích đất trên móng nhà là 0,6 m để
làm rãnh thoát nước. Khi gia đình bà N sửa ngõ đã cố tình lấn sang phần đất của
gia đình anh tổng là 11,5m
2
. Do rãnh thoát nước bị thu hẹp không tiêu nước
được, nhiều năm làm ảnh hưởng đến công trình của gia đình. Nay ông T và bà H
khởi kiện yêu cầu bà N phải trả lại phần diện tích đất lấn chiếm là 11,5 m
2
và
tháo dỡ toàn bộ bờ kè đã xây, anh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan (đã ủy quyền cho anh) nhất trí theo đơn khởi kiện của ông T và bà H. Tại
phiên tòa anh T yêu cầu bà N phải bồi thường thiệt hại do nước ở phần rãnh
không thoát được ngấm làm ảnh hưởng công trình và tài sản của hộ gia đình
anh.
Người làm chứng ông Vũ Văn N trình bày: Năm 1990 ông có sử dụng
thửa đất được cấp làm nhà ở và mở lối đi dài khoảng 30m, rộng gần 2m để sử
4
dụng đi ra đường quốc lộ, bên cạnh đường ông có đào một rãnh để thoát nước
ao và nước trên đồi chảy xuống. Năm 2006 khi ông xây nhà ra ngoài mt đường,
ông đã cho bà N thêm một diện tích đất và ngõ này để bà N sử dụng.
Ngày 06/8/2024, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với
diện tích đất có tranh chấp, kết quả thẩm định như sau: Tổng diện tích đất hộ
ông Lưu Đình T đã xác định đang tranh chấp với bà Nguyễn Thị N thuộc thửa
số 1- 91 và thửa số 1-92 thuộc tờ bản đồ số 02 tại thực địa là 1.596,6 m
2
, tại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1.260 m
2
, tăng 335,6 m
2
so với diện tích
đất cấp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; diện tích đất tranh chấp là
12,7 m
2
, diện tích đất tranh chấp là đất giao thông, không nằm trong Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Lưu Đình T.
Kết luận định giá: 01 bờ kè, móng xây đá hộc, tường gạch ba vanh và 01
mt đường bê tông diện tích 12,7 m
2
trị giá 23.650.073 đồng.
Các đương sự đều nhất trí với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và định
giá tài sản.
Ý kiến của Viện kiểm sát:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực
hiện đúng trình tự pháp luật tố tụng dân sự.
+ Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã
thực hiện đúng theo Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều
165 Bộ luật dân sự 2015; Điều 100 Luật đất đai 2013; khoản 1 Điều 147, khoản
1 Điều 157, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Nguyễn
Thị N phải trả lại diện tích đất 11,5m
2
và tháo dỡ toàn bộ bờ kè, trả lại diện
tích đất cho hộ ông Lưu Đình T.
2. Về chi phí tố tụng về án phí và quyền kháng cáo: Tuyên theo qui định
Pháp luật.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ
thẩm: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Lưu Đình T và
bà Nguyễn Thị H khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị
N có địa chỉ tại Thôn K, xã N, huyện B, vì vậy quan hệ pháp luật được xác
định là “Tranh chấp về quyền sử dụng đất” và thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án huyện Bắc Hà theo quy định tại khoản 6 Điều 26 và điểm a khoản 1
Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án các đương sự đã nhận
đầy đủ các văn bản tố tụng dân sự và chấp hành đúng các quy định của pháp
luật về khởi kiện, thụ lý vụ án, thủ tục hòa giải, chuẩn bị xét xử. Người làm
chứng có đơn đề nghị xét xử vắng mt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mt người làm chứng theo qui định tại khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, các tài
liệu chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập:
- Về nguồn gốc ngõ đi liên quan đến diện tích đất đang tranh chấp: Các
đương sự đều thừa nhận: Trước đây là một lối đi do gia đình ông Vũ Văn N
người cùng thôn với ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị N dùng làm lối đi của
gia đình ông N ra đường quốc lộ 4E, cạnh ngõ đi có một rãnh thoát nước. Do
nhà bà N ở sâu trong ngõ nên năm 1990 gia đình bà N đã đi nhờ lối đi này cùng
ông N, sau đó bà N đã sửa và nâng cấp lối đi này thành ngõ đi.
+ Ông Lưu Đình T cho rằng: Khi bà N sửa ngõ đã cố tình lấn sang phần
đất của gia đình ông tại thửa 1-91, 1-92 cụ thể: Phía trước lấn 0,25m, phía sau
lấn 0,35m tổng là 11,5m
2
.
+ Người có quyền lợi liên quan anh Lưu Tất T đồng thời là người đại diện
theo ủy quyền của người có quyền lợi liên quan chị Nguyệt, chị Nga, chị
Huyền cho rằng: Đồng ý với ý kiến của ông Lưu Đình T. Tại phiên tòa anh đề
nghị bà N phải bồi thường thiệt hại do nước ở phần rãnh không thoát được
ngấm vào công trình và tài sản của hộ gia đình anh.
+Bà Nguyễn Thị N và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Dương Văn Sáng cho rằng: Ngõ đi này là đất của ông Vũ Văn N, do ông N
làm, việc gia đình bà N xây và sử dụng ngõ đi này là đất của ông N cho, bà
Nghiệp không lấn đất của hộ ông T, hiện nước thải của gia đình bà N không
chảy xuống phần rãnh giáp nhà ông T nên bà N không đồng ý trả lại đất và bồi
thường thiệt hại về công trình và tài sản đối với hộ ông T.
Người làm chứng ông Vũ Văn N và anh Lục Văn Sơn cho rằng: Ngõ đi
mà hai bên tranh chấp là do ông Vũ Văn N mở để đi từ suối vào nhà, sau đó bà
N đã sử dụng chung ngõ này; ngõ đi và mương nước tồn tại từ trước khi hộ ông
T xây nhà.
+ Căn cứ vào kết quả xác minh tại UBND xã Nthì: Từ năm 1990 con ngõ
này là một lối đi nhỏ do hộ ông Vũ Văn N dùng để đi ra quốc lộ 4E, bên cạnh
có rãnh thoát nước nhỏ, sau đó bà N đi chung ngõ này, năm 2004 hộ ông N và
bà N xây kè làm ngõ đi chung, đến năm 2013 bà N đổ bê tông làm ngõ đi lại
của gia đình. Hộ gia đình ông T và bà N đã nhiều lần xảy ra tranh chấp, chính
quyền địa phương đã giải quyết nhiều lần nhưng hai bên chưa thống nhất được.
Ngõ đi này hiện có hai hộ gia đình đang sử dụng làm lối đi ra quốc lộ 4E. Ngoài
ngõ đi trên, hộ gia đình bà N không còn lối đi nào khác để đi ra được đường
quốc lộ 4E.
+ Căn cứ công văn số 2123a/UBND-TNMT ngày 26/8/2024 của UBND
huyện Bắc Hà thì: Năm 1999 UBND huyện cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho
hộ gia đình ông Lưu Đình T với tổng 05 thửa đất (trong đó có thửa 1-91,1-92
6
liên quan đến phần đất tranh chấp). Các thửa đất không có sơ đồ kèm theo giấy
chứng nhận, việc giao đất được thể hiện theo sơ đồ giao nhanh, không có tọa
độ, kích thước, hình thể chính xác của các thửa đất cụ thể.
Năm 2010 đến 2012 thực hiện Dự án chuẩn hóa hồ sơ địa chính xã Na
Hối, đơn vị tư vấn đã số hóa sơ đồ giao đất (SĐ.02) năm 1999, hộ gia đình ông
Lưu Đình T đã phối hợp kê khai hồ sơ cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất phát
hành số O 717287, vào sổ số 00087, các thửa đất đã được số hóa theo hiện
trạng sử dụng đất, xác định ranh giới, diện tích đất sử dụng. Căn cứ hồ sơ, diện
tích đất tranh chấp thuộc thửa đất số 7, tờ bản đồ số 54, mục đích sử dụng đất
giao thông, do UBND xã N quản lý (thể hiện trong sổ địa chính, mục kê bản đồ
được Sở Tài nguyên và Môi trường đã ký xác nhận kết quả đo đạc ngày
22/12/2021).
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị H, Hội
đồng xét xử nhận thấy:
Việc ông T và bà H khởi kiện buộc bà Nguyễn Thị N phải trả diện tích
đất lấn chiếm của hộ ông Lưu Đình T tại thửa 1-91 và 1-92 thuộc tờ bản đồ 02
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông, theo số liệu mà
nguyên đơn chỉ mốc giới, Tòa án đã xem xét thẩm định tại chỗ đối với thửa đất
trên thì diện tích tại thực địa là: 1.595,6 m
2
tăng 335,6 m
2
so với diện tích đất
cấp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; diện tích đất tranh không nằm
trong GCNQSD đất của hộ ông T, ông T không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ chứng minh diện tích đất tranh chấp trên là của hộ gia đình ông; mt khác
hiện nước thải của gia đình bà N đã được lắp ống chảy trên mt ngõ, không
chảy xuống rãnh làm ảnh hưởng đến công trình của hộ ông T. Tại công văn trả
lời của UBND huyện Bắc Hà xác định diện tích đất tranh chấp thuộc thửa đất
số 7, tờ bản đồ số 54, mục đích sử dụng đất giao thông, do UBND xã N quản
lý.
Căn cứ Điều 100 luật đất đai 2013 và khoản 2 Điều 165 Bộ luật dân sự
nguyên đơn không có quyền sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp trên nên
việc khởi kiện của nguyên đơn không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[5] Các vấn đề khác:
- Đối với việc ông Vũ Văn N và bà Nguyễn Thị N cho rằng: Diện tích
đất tranh chấp hiện nay bà N sử dụng làm ngõ đi là đất do ông N cho bà N. Qua
xác minh tại chính quyền địa phương, ông N chưa làm thủ tục tng cho, hiến
tng, chưa thực hiện đăng ký biến động quyền sử dụng đất do tng cho, hiến
tng làm lối đi vào nhà ở của bà Nguyễn Thị N nên việc ông N cho bà N đất là
không có căn cứ.
- Đối với người có quyền lợi liên quan anh Lưu Tất T yêu cầu bà N phải
bồi thường thiệt hại do nước ngấm vào công trình và tài sản của hộ gia đình
anh, tại phiên tòa anh mới yêu cầu nhưng anh không đưa ra mức bồi thường là
bao nhiêu và không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh thiệt hại nộp
cho Tòa án nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
7
[6] Về nghĩa vụ chịu án phí: Ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị H phải
chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
[7] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản là 4.240.000 đồng. Ông T đã nộp tạm ứng là
10.000.000 đồng, ngày 29/8/2024 Tòa án đã trả lại cho ông T số tiền 5.760.000
đồng. Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên ông Lưu Đình T
và bà Nguyễn Thị H phải chịu số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định
giá tài sản là 4.240.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 165 Bộ luật dân sự 2015; Điều 100 Luật đất đai
2013; khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Đình T và bà
Nguyễn Thị H yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị N phải trả lại
diện tích đất 11,5m
2
và tháo dỡ toàn bộ bờ kè, trả lại diện tích đất cho hộ ông
Lưu Đình T.
2. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị H
phải chịu 4.240.000 đồng (Bốn triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, ông T và bà H đã nộp đủ số
tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
3. Về nghĩa vụ chịu án phí:
- Ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị H phải chịu: 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001380 ngày 06/6/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Ông Lưu Đình T và bà Nguyễn Thị H đã
nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án.
5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
8
Nơi nhận:
- Các đương sự (3);
- TAND tỉnh Lào Cai;
- VKSND huyện Bắc Hà (2);
- CCTHADS huyện Bắc Hà;
- Lưu: Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký và đóng dấu)
Nguyễn Thị Thu Hương
Tải về
Bản án số 03/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 03/2024
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm