Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 01/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2024/DSST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 01/2025/DS-PT
Ngày: 02 - 01 - 2025
“tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Huờn và bà Nguyễn Thị Hạnh Vân.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Cao Huế - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà: Bà
Trương Thị Thu Thuỷ - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công
khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 354/2024/TLPT-DS ngày 13/11/2024 về
việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, do Bản án dân sự sơ thẩm số
26/2024/DSST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk
Lắk bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2024/QĐ-PT ngày
13/11/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 363/2024/QĐ-PT ngày 11/12/2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh ngày 1967 (có mặt).
Địa chỉ: I thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1967 (vắng mặt).
Địa chỉ: thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Phùng Xuân T, sinh năm 1975 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Trương Quang L, sinh năm 1969 (vắng mặt).
Địa chỉ: thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
+ Ông Nguyễn Trọng H1, sinh năm 1964 (vắng mặt).
Địa chỉ: I thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người làm chứng:
+ Bà Nguyễn Thị Thúy H2 - Địa chỉ: A V, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk (vắng mặt).
2
+ Bà Trần Thị Ngọc B - Địa chỉ: 9 X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
(vắng mặt).
5. Người kháng cáo: bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 02/8/2021 Âm lịch (tương ứng ngày 08/9/2021 Dương lịch) bà Nguyễn
Thị D cho bà Nguyễn Thị Thu H vay 300.000.000 đồng. Bà H viết giấy mượn tiền.
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày: Là chỗ thân quen nên bà D cho
bà H vay tiền không tính lãi. Bà H nói vay tiền để mua đất, hẹn 02 năm sau trả.
Đến ngày 08/9/2023 bà H không trả nợ như đã hẹn. Bà D đã nhiều lần yêu cầu bà
H trả nợ nhưng bà H nói bà H không mượn tiền nên không trả. Nay bà D khởi kiện
yêu cầu Toà án buộc bà H phải trả 300.000.000 đồng nợ gốc và tính lãi suất từ
ngày 01/9/2023 cho đến khi trả xong nợ.
Tại phiên toà sơ thẩm, bà D chỉ yêu cầu bà H phải trả nợ 300.000.000 đồng
nợ gốc. Bà D không yêu cầu tính lãi.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Ngày 08/9/2021 bà H không vay
mượn tiền của bà D. Tờ giấy bà D dùng để khởi kiện không phải là chữ viết của bà
H và bà H cũng không ký vào giấy vay tiền này. Khi bà H uỷ quyền cho bà
Nguyễn Thị Thanh L1 tham gia tố tụng tại Toà án, bà H trao đổi qua điện thoại với
bà L1 nói trước đây bà H có làm ăn với bà D, đôi khi có vay tiền một hai hôm để
đáo hạn ngân hàng rồi thanh toán trả hết cho nhau, mấy năm rồi không vay mượn
nợ nần gì nhau. Tuy nhiên, bà L1 không hiểu ý nên đã khai bà H vay bà D
300.000.000 đồng và đã trả lại cho bà H là chưa chính xác. Nay bà D khởi kiện thì
bà H không chấp nhận.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trọng H1 (chồng
bà D) trình bày: Việc vay mượn tiền giữa bà D và bà H thì ông không biết, không
liên quan.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Quang L (chồng bà
H) trình bày: Việc vay mượn tiền giữa bà D và bà H thì ông không biết, không
liên quan.
* Người làm chứng bà Nguyễn Thị Thúy H2, bà Trần Thị Ngọc B trình
bày: Bà Bích bán chăn ga gối nệm, bà H2 lái xe thuê cho bà B. Bà H là khách
hàng của bà B. Khoảng ngày 09/9/2021 khi bà H2, bà B giao hàng xong cho bà H
thì bà H xin nợ lại 20.000.000 đồng. Qua nói chuyện, bà H nói trước có vay tiền
của bà D để đáo hạn ngân hàng, nay đang gom tiền để trả tiền cho bà D. Khi hai bà
đang ở quầy hàng thì thấy bà D tới, bà H đưa bịch tiền cho bà D, hai bà nghe bà H
nói là 300.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Toà án
nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: Áp dụng Điều 463,
465, 466, 468, 469 Bộ luật Dân sự năm 2015, chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của bà Nguyễn Thị Diệu . Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H phải trả cho bà
Nguyễn Thị D 300.000.000 đồng.
3
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/10/2024 bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H kháng
cáo bản án sơ thẩm, cho rằng cấp sơ thẩm đã không xem xét các tài liệu, chứng cứ,
tình tiết của vụ án khách quan, toàn diện và công bằng, dẫn đến vi phạm nghiêm
trọng về tố tụng dân sự, làm sai lệch bản chất vụ án, gây thiệt hại nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích của bà nên bà đề nghị cấp phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Bị đơn và người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn trình bày: Bà H thừa
nhận có vay bà D 300.000.000 đồng nhưng đã trả xong nợ, có bà H2, bà B chứng
kiến việc trả nợ. Đồng thời bị đơn xuất trình chứng cứ là các tin nhắn giữa bà D
với chị Trương Thị Mỹ V (con của bà H), tin nhắn giữa bà H với Văn phòng Luật
sư Á, bài đăng của bà D trên tài khoản Facebook; video ghi hình có âm thanh cuộc
nói chuyện giữa bà Nguyễn Thị H3 với bà D. Trong các tin nhắn, bài đăng
Facebook có bình luận của bà H, bà D và video ghi hình có nội dung thể hiện bà D
đang đòi nợ chị V, hay bà D yêu cầu bà H trả nợ thay cho chị V. Như vậy, các
chứng cứ này đã gián tiếp chứng minh bà H không còn nợ tiền bà D, bởi nếu bà H
còn nợ tiền bà D thì bà D đã yêu cầu bà H trả nợ cả khoản vay của bà H và khoản
vay của chị V.
Nguyên đơn không thừa nhận bà H đã trả nợ 300.000.000 đồng. Nguyên đơn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn giữ nguyên kháng cáo. Các đương sự không
thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án: Về tố tụng, Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án,
các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung,
đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn được nộp trong thời hạn quy định và đã
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H.
Tại giấy vay tiền đề ngày 02/8/2021 Âm lịch (tức ngày 08/9/2021 Dương
lịch) có nội dụng “Hồng Lai mượn ba trăm triệu chẵn”. Nguyên đơn bà Nguyễn
Thị D trình bày giấy vay tiền này do bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H viết. Bà H
không thừa nhận bà H vay tiền của bà D, không viết và ký giấy vay tiền. Tại cấp sơ
thẩm, bà H uỷ quyền cho bà Nguyễn Thị Thanh L1 tham gia tố tụng. Bà H nói với
bà L1, trước đây bà H có làm ăn với bà D, đôi khi có vay tiền một hai hôm để đáo
hạn ngân hàng rồi thanh toán trả hết cho nhau, mấy năm rồi không vay mượn nợ
nần gì nhau. Do bà L1 không hiểu ý nên đã khai bà H vay bà D 300.000.000 đồng
4
và đã trả lại cho bà H là chưa chính xác nên bà H đã huỷ việc uỷ quyền với bà L1,
tự tham gia tố tụng và trình bày bà H không vay tiền của bà D. Tại Kết luận giám
định số 1402/KL-KTHS ngày 06/9/2024 của Phòng K Công an tỉnh Đ kết luận chữ
viết tại tài liệu cần giám định ký hiệu A1 (giấy vay tiền) so với chữ viết mang tên
Nguyễn Thị Thu H trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 (đơn trình bày ngày
03/9/2016 và đơn tố cáo ngày 04/9/2016) là do cùng một người viết ra. Tại phiên
toà sơ thẩm, bà H xác nhận chữ ký trong đơn trình bày ngày 03/9/2016 và đơn tố
cáo ngày 04/9/2016 gửi Công an huyện K là do bà H ký; bà H cũng không có ý
kiến gì về kết luận giám định. Như vậy, có cơ sở kết luận ngày 08/9/2021 bà D cho
bà H vay 300.000.000 đồng. Bà D xuất trình chứng cứ là bản gốc giấy vay tiền.
Giấy vay tiền không bị huỷ bỏ hay gạch chéo. Bà H cũng không xuất trình được
chứng cứ chứng minh đã trả nợ cho khoản vay này. Do đó, có căn cứ xác định bà
H chưa trả cho bà D số tiền vay 300.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm buộc bà H
phải trả cho bà D 300.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 466 Bộ
luật Dân sự.
[3]. Sau khi kháng cáo, tại cấp phúc thẩm, ông Phùng Xuân T người đại diện
theo uỷ quyền của bà H xuất trình Vi bằng số 111/2024/VB-TPLĐA ngày
19/10/2024 tại Văn phòng T1 có nội dung tin nhắn giữa bà Nguyễn Thị D và chị
Trương Thị Mỹ V, các bài đăng trên tài khoản Facebook của bà D, có bình luận
của bà H và video ghi hình có âm thanh cuộc gọi giữa bà H3 và bà D. Tuy nhiên,
các tin nhắn, bài đăng, bình luận, cuộc gọi đều không có nội dung nào thể hiện bà
D xác nhận việc bà H đã trả xong cho khoản vay 300.000.000 đồng. Do vậy, trình
bày của bị đơn không có cơ sở chấp nhận.
[4]. Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không
có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H, giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 26/2024/DSST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
[5]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị đơn bà Nguyễn Thị Thu
H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H. Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2024/DSST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
- Áp dụng Điều 463, 465, 466, 468, 469 Bộ luật Dân sự; Điều 26, Điều 29
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội,
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Diệu .
5
Buộc bà Nguyễn Thị Thu H phải trả cho bà Nguyễn Thị D 300.000.000
đồng.
[2]. Về chi phí tố tụng.
Bà Nguyễn Thị Thu H phải trả lại cho bà Nguyễn Thị D 6.270.000 đồng chi
phí giám định chữ ký, chữ viết.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
[3]. Về án phí.
- Bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu 15.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và
300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng
đã nộp theo biên lai thu số 8525 ngày 10/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
- Trả lại cho bà Nguyễn Thị D 7.500.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm đã nộp theo biên lai thu số 15639 ngày 25/10/2023 tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Ana;
- Chi cục THADS huyện Krông Ana;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 01/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 02/2025/DS-PT ngày 03/01/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm