Bản án số 811/2025/DS-PT ngày 22/12/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 811/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 811/2025/DS-PT ngày 22/12/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 811/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/12/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị Đ “Tranh chấp quyền sử dụng đất” La Thị T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 811/2025/DS-PT
Ngày: 22-12-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Các Thẩm phán: bà Phạm Thị Hồng Vân
bà Phùng Thị Cẩm Hồng
- Thư phiên tòa: bà Nguyễn Thị Mỹ Linh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa: ông Lê
Ngọc Hiền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 18 22 tháng 12 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 481/2025/TLPT-DS ngày 10
tháng 10 năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 4-Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 712/2025/QĐ-PT ngày 31 tháng 10
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1964; CCCD số 080164010272; địa
chỉ: Số I ấp B, xã B, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ: bà Lê Kim D, sinh năm 1965; CCCD
số 017165007355; địa chỉ: Số A đường N, phường L, tỉnh Tây Ninh (theo văn bản
ủy quyền ngày 04/6/2024).
- B đơn:La Thị T, sinh năm 1949; CCCD số 080149000889; địa chỉ: Số H
ấp B, xã B, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của Đ: ông Hòa T1, sinh năm 1984; CCCD
số 080084017354; địa chỉ: Ấp F, xã B, tỉnh Tây Ninh (theo văn bản ủy quyền ngày
18/12/2025).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Phạm Văn H, sinh năm 1964;
địa chỉ: Số I đường N, ấp B, xã B, tỉnh Tây Ninh.
- Người kháng cáo: bị đơn bà La Thị T.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 10/7/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án tại
cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Th Đ do Lê Kim D đại diện theo ủy quyền
trình bày:
Tại Bản án số 348/2023/DS-PT ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân tỉnh Long An
xét xử về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định biệt” (sau đây viết tắt Bản án số
348/2023/DS-PT) đã quyết định:
- Công nhận cho Nguyễn Thị Đ quyền sử dụng theo quy định của pháp
luật đất đai đối với thửa 134, tờ bản đồ số 30, diện tích 178,5m
2
, tọa lạc Khu phố F,
thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (nay là ấp B, xã B, tỉnh Tây Ninh), tại vị trí A, B
của Mảnh trích đo địa chính số 99-2018 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ4, được
chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện B phê duyệt ngày 04/9/2018 (sau
đây viết tắt là Trích đo số 99-2018).
- Đ được quyền liên hệ các quan chuyên môn đi đăng khai để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với phần đất trên.
Bản án số 348/2023/DS-PT đang hiệu lực. Tuy nhiên, khi thi hành án phát
hiện vật kiến trúc nằm trên phần đất thuộc quyền sử dụng của Nguyễn Thị Đ
nhà vệ sinh có kích thước (2x3)m, mái tôn, gạch ống bốn lỗ không tô do bà La Thị
T xây dựng trước đó nhưng không được đề cập trong Bản án số 348/2023/DS-PT.
Đ cùng bà La Thị T nhiều lần không thỏa thuận được. Nay Đ khởi kiện yêu
cầu:
- Bà La Thị T tháo dỡ, di dời nhà vệ sinh ký hiệu (2) diện tích 3,2m
2
, một phần
mái che tiền chế ký hiệu (3) thuộc khu B là 2,1m
2
để trả lại cho bà Đ quyền sử dụng
đất trống tại vị trí A, B của Trích đo số 99-2018, mảnh trích đo địa chính thể hiện
công trình kiến trúc ngày 30/12/2024, thuộc thửa đất số 134, tờ bản đồ số 30, diện
tích 178,5m
2
, tọa lạc Khu phố F, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An theo GCNQSDĐ
số BE 208313 do UBND huyện B cấp cho ông Lê Thành Đ1 ngày 18/7/2011 chỉnh
lý sang tên cho bà Nguyễn Thị Đ ngày 06/12/2012.
- Đối với phần đất san lấp tại vị trí ký kiệu (4) diện tích 42m
2
và vị trí ký hiệu
số (5) diện tích 6m
2
trường hợp không di dời thì bà Đ đồng ý trả bằng giá trị cho bà
T.
B đơn bà La Th T trình bày:
Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ. Lý do:
Giấy chứng nhận QSDĐ số BE 208313 do UBND huyện B cấp cho ông
Thành Đ1 ngày 18/7/2011 chỉnh lý sang tên cho bà Nguyễn Thị Đ ngày 06/12/2012
đã bị hủy theo Bản án số 02/2013/HC-ST ngày 18/7/2013 của Tòa án nhân dân huyện
Bến Lức đã có hiệu lực pháp luật.
Trên thửa đất số 134 nhà nhà vệ sinh đã được gia đình xây dựng từ
năm 1972 cho đến nay, nhưng Bản án số 348/2023/DS-PT không đề cập đến thiếu
3
sót. đã làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xem xét giám đốc thẩm đối với Bản án s348/2023/DS-PT và đã kết quả
là Văn bản số 1166/TB-DS ngày 14/5/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản án dân sự thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 4-Tây Ninh đã xử (tóm tắt):
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Th Đ đối với b
đơn bà La Th T về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.
Buộc bà La Th T có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời nhà vệ sinh ký hiệu (2) diện tích
3,2m
2
, một phần mái che tiền chế ký hiệu (3) (diện tích 2,1m
2
tại v trí khu B) để tr
lại cho bà Đ quyền sử dụng đất trống tại v trí A, B của mảnh trích đo đa chính số
99-2018 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ4 được chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai tại Huyện B phê duyệt ngày 04/09/2018, Mảnh trích đo đa chính thể hiện
công trình kiến trúc ngày 30/12/2024, thuộc thửa đất số 134, tờ bản đồ số 30, diện
tích 178,5m
2
, tọa lạc khu phố F, th trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
2. Ghi nhận sự tnguyện của Nguyễn Th Đ về việc thanh toán cho La
Th T toàn bộ giá tr công trình trên đất, gồm: nhà vệ sinh (2), mái che tiền chế (3),
sân trải nhựa (4), nền xi măng khu san lấp (5), với tổng số tiền 17.022.000 đồng. Bà
Nguyễn Th Đ nghĩa vụ hoàn trả cho La Th T số tiền 17.022.000 đồng ngay
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu lãi do
chậm thi hành án, án phí, quyền thời hạn kháng cáo, việc thi hành án theo quy
định của pháp luật.
Ngày 29/8/2025, bị đơn La Thị T đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự
sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm
Ông Võ Hòa T1 trình bày: yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, vì Tòa án
cấp thẩm không xem xét đến giá trị san lấp mặt bằng thửa 134, trong khi trước
đây, thửa 134 bưng trũng, vợ chồng T, ông T3 đã đổ đất san lấp diện tích 178m
2
nhưng phần này trong Bản án số 348/2023/DS-PT không đề cập. Đối với căn nhà
cấp 4 có trên đất là của T nhưng Tòa án xác định giá trị không còn không chính
xác, cho nhà không sử dụng được thì thực tế vật liệu xây dựng vẫn tận dụng
được, nhưng do thiếu hiểu biết nên T đã không hợp tác với Tòa án cấp thẩm
cũng không khiếu nại về giá. T đang khiếu nại yêu cầu Tòa án nhân dân tối
cao xem xét lại Bản án số 348/2023/DS-PT nhưng đến nay chưa có kết quả, còn trả
lời của Tòa án nhân dân cấp cao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh là không chấp nhận khiếu nại của ông P và ông Đ1.
Kim D trình bày: phần san lấp thửa 134 là do bà Trần Thị T2 thực hiện
và căn nhà cấp 4 có trên đất đã được xem xét trong Bản án số 348/2023/DS-PT, chỉ
sót về xử lý nhà vệ sinh trên đất. Bản án số 348/2023/DS-PT có đương sự khiếu nại
đã được Tòa án nhân dân cấp cao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh bác khiếu nại. Pháp luật không có quy định phải đợi kết quả giải
4
quyết khiếu nại yêu cầu giám đốc thẩm liên quan đến Bản án số 348/2023/DS-PT
thì mới tiếp tục giải quyết vụ án này. Do đó, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của
bà T.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm các đương schấp hành đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của bà La Thị T đủ điu kiện để xem xét theo
trình t phúc thm.
Về nội dung: Bản án số 348/2023/DS-PT đã xem xét toàn diện các quan hệ
pháp luật tranh chấp, bao gồm quyền sử dụng đất, các quyết định hành chính có liên
quan căn ncấp 4 có trên đất. Bản án hiện hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, bà Đ đã được công nhận quyền sử dụng
đất thửa 134 theo bản án. Biên bản thẩm định ngày 30/12/2024 và mảnh trích đo địa
chính cùng ngày thể hiện trên phần đất thuộc quyền sử dụng của bà Đ hiện có công
trình nhà vệ sinh, mái che và phần đất san lấp do bà La Thị T xây dựng, san lấp, nên
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Đ, căn cứ. Đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của T, ginguyên bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bà La Thị T thực hiện đúng theo quy định tại Điều 271,
Điều 272, Điều 273 Điều 276 của Bộ luật Ttụng dân sự. Người khởi kiện giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện. Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các
đương sự không tự thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Vụ án được
xét xử theo thủ tục phúc thm.
[2] Về svắng mặt của đương sự Kiểm sát viên: Nguyễn Thị Đ mặt
tại phiên tòa ngày 18/12/2025, vắng mặt khi tuyên án vào ngày 22/12/2025 nhưng
đã được thông báo hợp lệ thời gian tuyên án và mặt người đại diện theo ủy quyền
bà Kim D tham gia ttụng; ông Phạm Văn H vắng mặt, văn bản đề nghị xét
xử vắng mặt. Kiểm sát viên đã phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
vụ án sau khi kết thúc việc tranh luận đề nghị vắng mặt khi tuyên án. Căn cứ Điều
296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn xét xử phúc thẩm vụ án.
[3] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: bản án thẩm bị kháng cáo toàn bộ. Căn cứ
Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ
án.
Xét kháng cáo của bà La Th T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn
Th Đ
[4] Trong đơn kháng cáo, T cho rằng, Đ không được quan nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất thửa 134, thì không được bảo vệ; Tòa án nhân dân tỉnh
Long An trả lời bằng văn bản số 71/TA-DS ngày 28/11/2023 không đúng quy
định của pháp luật không có mặt tại phiên tòa phúc thẩm; không rút đơn
khởi kiện vì chữ ký trong đơn rút đơn khởi kiện không phải chữ ký của bà; căn nhà
cấp 4 nhà vệ sinh trên đất do chồng của ông Bùi Thái T3 xây dựng từ
5
năm 1972, cho ông Thanh Đ2 nhờ từ năm 2002; Bản án phúc thẩm số
348/2023/DS-PT nhận định căn nhà trên thửa 134 không phải của nhận định
không trung thực nên bà đã làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng đến nay chưa
được giải quyết; các văn bản trả lời của Tòa án nhân dân cấp cao Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là giải quyết khiếu nại ca ông Đ2
bà P, không liên quan đến giải quyết đơn ca bà.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 18/12/2025, ông Hòa T1 đại diện theo ủy
quyền của La Thị T đề nghị hủy bản án thẩm đxét xử lại, Tòa án cấp
thẩm không xem xét giá trị căn nhà cấp 4 có trên thửa 134 và giá trị san lấp đất thửa
134 diện tích 178m
2
.
[6] Xem xét các lẽ La Thị T ông Hòa T1 nại ra, Hội đồng xét
xử phúc thẩm thấy rằng:
[6.1] Giấy chứng nhận QSDĐ số BE 208313 do UBND huyện B cấp quyền sử
dụng đất thửa 134 cho ông Thành Đ1 ngày 18/7/2011 chỉnh sang tên cho
Nguyễn Thị Đ ngày 06/12/2012 đã bị hủy theo Bản án số 02/2013/HC-ST ngày
18/7/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
đến năm 2017, năm 2020 thì T, Đ ông Đ1 đã khởi kiện vụ án dân sự, đ
tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất yêu
cầu hủy quyết định biệt liên quan đến thửa 134. Tranh chấp này đã được giải
quyết tại Bản án phúc thẩm số 348/2023/DS-PT ngày 28/9/2023, theo đó, TAND
tỉnh Long An đã xem xét toàn diện các quan hệ pháp luật, trong đó bao gồm xác
định quyền sử dụng đất thửa 134 của ai. T cũng là đương sự trong vụ án dân
sự này, có yêu cầu khởi kiện tranh chấp về quyền sử dụng đất thửa 134 đối với ông
Đ1 yêu cầu hủy quyết định biệt nhưng sau đó rút đơn khởi kiện. T cho rằng,
không đơn rút đơn khởi kiện, nhưng tại phiên tòa thẩm ngày 29/9/2020,
người đại diện theo y quyền của T ông Nguyễn Văn T4 (theo văn bản ủy
quyền ngày 08/7/2016) trình bày ông vẫn giữ nguyên việc rút đơn khởi kiện của
T vào các ngày 18/9/2020 ngày 28/9/2020. Ý kiến trình bày của ông T4 hoàn toàn
trong phạm vi được bà T ủy quyền đúng quy định tại khoản 4 Điều 85, khoản 2
Điều 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 142, Điều 143 Điều 144 của Bộ luật
Dân snăm 2005. T còn cho rằng, không mặt tại phiên tòa phúc thẩm
không đúng sthật khách quan, vì Bản án phúc thẩm số 348/2023/DS-PT Biên
bản phiên tòa phúc thẩm thể hiện bà T và người đại diện theo ủy quyền của bà T là
Bùi Thị Hồng Đ3 mặt tại phiên tòa phúc thẩm ngày 2228/9/2023 (bút lục
số 103).
[6.2] Tại đoạn [2.8] phần nhận định của Bản án số 348/2023/DS-PT đã nhận
định, theo Quyết định số 330/QĐ-UBND ngày 03/02/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh
L đã xác định, về nguồn gốc đất thửa 134 thì sau năm 1975 do Trần Thị T2 (bà
nội của ông Lê Thành Đ1) tiếp tục sử dụng, đối với căn nhà cấp 4 có trên thửa 134
là của T2 chết để lại cho ông Đ1 sử dụng, không phải của bà T; ông Đ1 trình bày
“khi chuyển nhượng thửa 134 cho bà Đ thì căn nhà không còn giá tr sử dụng”. Đây
là những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án của Tòa án đã có hiệu lực
6
pháp luật, nên không phải chứng minh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Hơn nữa, trong suốt quá trình giải quyết các vụ án liên
quan đến thửa 134, T hoàn toàn không đặt ra yêu cầu T cũng không cung
cấp được chứng cứ chứng minh san lấp đất thửa 134 diện tích 178m
2
. Như vậy,
việc ông T1 yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để xem xét giá trị còn lại của căn nhà cấp
4 và giá trị san lấp thửa 134, là không có căn cứ để được chấp nhận.
[6.3] Bà T còn nại rằng, bà đã làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giám đốc thẩm đối với Bản án số
348/2023/DS-PT vì trên thửa đất số 134 có nhà nhà vệ sinh đã được gia đình
xây dựng từ năm 1972 cho đến nay, nhưng Bản án số 348/2023/DS-PT không đề
cập đến là thiếu sót và khiếu nại của bà chưa được giải quyết. Xét thấy, tại Văn bản
số 1166/TB-DS ngày 14/5/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh và Văn bản số 927/TB-VKS-DS ngày 06/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, về việc giải quyết đơn đối với ông Thành
Đ1, Bùi Thị P đã trả lời không căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm đối với Bản án số 348/2023/DS-PT. Nội dung giải quyết khiếu nại đã xác định
Bản án sơ thẩm, Bản án phúc thẩm s348/2023/DS-PT công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa 134 giữa ông Đ1 bà Đ căn cứ, công nhận
cho Đ được quyền sử dụng đất hợp pháp do nhận chuyển nhượng. Bản án phúc
thẩm số 348/2023/DS-PT đã hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm, cho nên, bà Đ phải được pháp luật bảo vệ các quyền của
người sử dụng đất theo Điều 26 Luật Đất đai 2013, Điều 188 Luật Đất đai 2013. Do
đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của bà Đ về xử lý công trình, vật kiến
trúc có trên đất, là hoàn toàn có căn cứ.
[7] Tuy nhiên, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án của đương
sự. Việc bản án sơ thẩm tuyên buộc bà Đ phải trả tiền cho bà T ngay sau khi bản án
hiệu lực pháp luật, không phù hợp quy định tại Điều 6, Điều 30 của Luật Thi
hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, nên Tòa án cấp sơ thẩm cần
rút kinh nghiệm về cách tuyên án.
[8] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, được chấp nhận.
[9] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận, lẽ ra bà T phải
chịu án phí phúc thẩm, nhưng do bà T là người cao tuổi và có yêu cầu xét miễn nộp
tạm ứng án phí và án phí, nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà T đã được miễn nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm nên không tuyên hoàn trả.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
7
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12 và
Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bà La Thị T.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm
2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4-Tây Ninh.
4. Về án phí phúc thẩm: bà La Thị T được miễn án phí phúc thẩm.
5. Về hướng dẫn thi hành án: trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo
quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người
phải thi hành án quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, t
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7
9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
6. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm này hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND khu vực 4-Tây Ninh;
- Png THADS khu vực 4-Tây Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, án văn./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
8
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND khu vực 4-Tây Ninh;
- Phòng THADS khu vực 4-tỉnh Tây
Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, án văn./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Tải về
Bản án số 811/2025/DS-PT Bản án số 811/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 811/2025/DS-PT Bản án số 811/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất