Bản án số 71/2025/HNGĐ-ST ngày 19/03/2025 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 71/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 71/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 71/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 71/2025/HNGĐ-ST ngày 19/03/2025 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh An Giang) |
Số hiệu: | 71/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Do tự tìm hiểu nên chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 26/4/2010. Sau khi kết hôn, chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H chung sống tại nhà trọ địa chỉ số C, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn do thiếu hụt về kinh tế, gia đình nợ nần dẫn đến vợ chồng cãi vả; từ khi xảy ra mâu thuẫn, anh Nguyễn Phước H không còn chăm lo cho gia đình và thường xuyên uống rượu, khi say xỉn, anh Nguyễn Phước H có hành vi bạo lực gia đình đối với chị Lê Thị Hồng Đ (dùng tay, chân đánh đập gây thương tích, tổn hại sức khỏe của chị Lê Thị Hồng Đ). Ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác. Đến đầu năm 2024, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, gia đình hai bên có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H; bản thân chị Lê Thị Hồng Đ có cho anh Nguyễn Phước H cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Nguyễn Phước H vẫn không thay đổi tính tình nên không hàn gắn được. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị Lê Thị Hồng Đ yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Phước H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 71/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 19 - 3 - 2025
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi
con khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Phước Sang
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Tô Ngọc Liêm
2. Bà Đào Thị Thu Vân
- Thư ký phiên tòa: Ông Hồ Nhựt Huy - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tham gia phiên tòa:
Bà Đoàn Thụy Thùy Trang - Kiểm sát viên
Ngày 19 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 813/2024/TLST-HNGĐ
ngày 28 tháng 11 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 10
tháng 02 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2025/QĐST-HNGĐ
ngày 28 tháng 02 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng Đ, sinh năm 1989
Đăng ký thường trú: Số C, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; chỗ ở
hiện nay: Số D, đường số A, Phường H, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phước H, sinh năm 1985
Nơi cư trú: Số C, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn chị Lê Thị Hồng Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Do tự tìm hiểu nên chị Lê Thị Hồng Đ và anh
Nguyễn Phước H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
2
nhân dân xã N, huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 26/4/2010. Sau khi kết hôn,
chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H chung sống tại nhà trọ địa chỉ số C,
khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống đến
đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn do thiếu hụt về kinh tế, gia đình nợ nần
dẫn đến vợ chồng cãi vả; từ khi xảy ra mâu thuẫn, anh Nguyễn Phước H không
còn chăm lo cho gia đình và thường xuyên uống rượu, khi say xỉn, anh Nguyễn
Phước H có hành vi bạo lực gia đình đối với chị Lê Thị Hồng Đ (dùng tay, chân
đánh đập gây thương tích, tổn hại sức khỏe của chị Lê Thị Hồng Đ). Ngoài ra
không còn nguyên nhân nào khác. Đến đầu năm 2024, mâu thuẫn vợ chồng trở
nên trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ
chồng sống ly thân, gia đình hai bên có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng
cho chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H; bản thân chị Lê Thị Hồng Đ có
cho anh Nguyễn Phước H cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh
Nguyễn Phước H vẫn không thay đổi tính tình nên không hàn gắn được. Do tình
cảm vợ chồng không còn nên chị Lê Thị Hồng Đ yêu cầu được ly hôn với anh
Nguyễn Phước H.
Về con chung: Chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H có 02 (hai)
con chung tên Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 19/3/2011 và Nguyễn Thị Tường V,
sinh ngày 22/5/2013; hiện tại con chung đang sống với anh Nguyễn Phước H.
Khi ly hôn, chị Lê Thị Hồng Đ đồng ý để anh Nguyễn Phước H được tiếp tục
chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 19/3/2011 và
Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 22/5/2013. Chị Lê Thị Hồng Đ không cấp nuôi
con chung.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện gồm: Giấy chứng nhận kết
hôn, Giấy khai sinh của con chung.
Theo Tờ tự khai, anh Nguyễn Phước H trình bày: Về quan hệ hôn nhân,
anh Nguyễn Phước H đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Lê Thị Hồng Đ. Về
con chung, anh Nguyễn Phước H và chị Lê Thị Hồng Đ có 02 (hai) con chung
Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 19/3/2011 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày
22/5/2013; hiện nay đang sống với anh Nguyễn Phước H; khi ly hôn, anh
Nguyễn Phước H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không
yêu cầu chị Lê Thị Hồng Đ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa,
Chị Lê Thị Hồng Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Anh Nguyễn Phước H vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn sơ thẩm: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã làm đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
3
Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng Đ.
Về quan hệ hôn nhân, chị Lê Thị Hồng Đ được ly hôn với anh Nguyễn Phước H.
Về con chung, anh Nguyễn Phước H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con
chung tên Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 19/3/2011 và Nguyễn Thị Tường V, sinh
ngày 22/5/2013; chị Lê Thị Hồng Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản
chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Chị Lê Thị Hồng Đ khởi kiện yêu cầu được ly hôn đối với anh
Nguyễn Phước H, yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi ly
hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, anh Nguyễn Phước H (bị
đơn) có nơi cư trú tại số C, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân
dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Tại Đơn khởi kiện ngày 28/11/2024 (BL: 01), chị Lê Thị Hồng Đ
yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Tường V, không
yêu cầu anh Nguyễn Phước H cấp dưỡng nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án,
chị Lê Thị Hồng Đ thay đổi yêu cầu khởi kiện, đồng ý để anh Nguyễn Phước H
được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Tường V; chị Lê
Thị Hồng Đ không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi
kiện của chị Lê Thị Hồng Đ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Căn cứ
Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi yêu
cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng Đ để xem xét, giải quyết trong vụ án theo thủ
tục chung.
[1.3] Đối với anh Nguyễn Phước H đã được Tòa án tống đạt các văn bản
tố tụng theo quy định của pháp luật để tham gia tố tụng trong vụ án nhưng vắng
mặt không có lý do trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Tại phiên tòa, chị Lê Thị
Hồng Đ đề nghị xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Phước H đã được triệu tập hợp lệ
lần thứ 02 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều
228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Phước H của chị Lê Thị
Hồng Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Chị Lê Thị Hồng Đ cho rằng, chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H
tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện C,
tỉnh An Giang. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn
do thiếu hụt về kinh tế, gia đình nợ nần dẫn đến vợ chồng cãi vả; từ khi xảy ra
mâu thuẫn anh Nguyễn Phước H không còn chăm lo cho gia đình và thường
4
xuyên uống rượu, khi say xỉn, anh Nguyễn Phước H có hành vi bạo lực gia đình
đối với chị Lê Thị Hồng Đ. Đến đầu năm 2024, mâu thuẫn vợ chồng trở nên
trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng
sống ly thân, gia đình hai bên có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị
Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H; bản thân chị Lê Thị Hồng Đ có cho
anh Nguyễn Phước H cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Nguyễn
Phước H vẫn không thay đổi tính tình nên không hàn gắn được. Nhận thấy tình
cảm vợ chồng không còn nên chị Lê Thị Hồng Đ yêu cầu ly hôn với anh
Nguyễn Phước H.
Anh Nguyễn Phước H đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị Lê
Thị Hồng Đ.
Xét thấy, chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H kết hôn trên cơ sở
tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia
đình, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Anh
Nguyễn Phước H đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng Đ
nên lời trình bày của chị Lê Thị Hồng Đ về tình trạng hôn nhân giữa chị Lê Thị
Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H đã lâm vào tình trạng trầm trọng là có cơ sở
chấp nhận. Do đó, có căn cứ để xác định hôn nhân giữa chị Lê Thị Hồng Đ và
anh Nguyễn Phước H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân
không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị Lê Thị Hồng Đ yêu
cầu ly hôn anh Nguyễn Phước H phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và
gia đình nên được chấp nhận.
[2.2] Đối với con chung:
Chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H đều xác định chị Lê Thị
Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng M,
sinh ngày 19/3/2011 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 22/5/2013, hiện nay
đang sống với anh Nguyễn Phước H. Khi ly hôn, chị Lê Thị Hồng Đ đồng ý để
anh Nguyễn Phước H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; anh
Nguyễn Phước H đồng ý được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không
yêu cầu chị Lê Thị Hồng Đ.
Xét thấy, việc giao con chung là người chưa thành niên cho người chăm
sóc, nuôi dưỡng khi chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H ly hôn phải
đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Căn cứ
Biên bản ghi nhận ý kiến của con chưa thành niên ngày 22/01/2025 (BL: 15),
con chung tên Nguyễn Thị Tường V có nguyện vọng được sống với anh Nguyễn
Phước H và cháu Nguyễn Hoàng M; đối với cháu Nguyễn Hoàng M, Tòa án đã
yêu cầu chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H dẫn theo cháu Nguyễn
Hoàng M đến Tòa án để ghi nhận ý kiến của cháu Nguyễn Hoàng M theo quy
định của pháp luật nhưng chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H không
dẫn cháu Nguyễn Hoàng M đến Tòa án và Tòa án đã đến nơi cư trú của cháu
Nguyễn Hoàng M vào ngày 24/01/2025 để ghi nhận ý kiến của cháu Nguyễn
Hoàng M nhưng anh Nguyễn Phước H không đồng ý cho Tòa án ghi nhận ý kiến
5
của cháu Nguyễn Hoàng M nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của cháu
Nguyễn Hoàng M. Đồng thời, căn cứ lời trình bày của chị Lê Thị Hồng Đ và
anh Nguyễn Phước H, các con chung hiện nay đang sống với anh Nguyễn Phước
H, quá trình sinh sống với anh Nguyễn Phước H, các con chung vẫn phát triển
tốt. Để giúp cháu Nguyễn Hoàng M và cháu Nguyễn Thị Tường V phát triển tốt
nhất về thể chất và tinh thần, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị Lê Thị Hồng Đ
và anh Nguyễn Phước H thống nhất để anh Nguyễn Phước H được tiếp tục chăm
sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn Phước H ly
hôn phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được
chấp nhận.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Phước H là người trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị Lê Thị Hồng Đ và anh Nguyễn
Phước H ly hôn nên chị Lê Thị Hồng Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình nhưng anh
Nguyễn Phước H không yêu cầu chị Lê Thị Hồng Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nên
Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ
được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[2.4] Đối với tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án
giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có
tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí và quyền kháng cáo:
Chị Lê Thị Hồng Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định
tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271
và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
Điều 28, 35, 39, 147, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng Đ.
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng Đ được ly hôn anh Nguyễn
Phước H.
[2] Về con chung:
6
Anh Nguyễn Phước H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên
Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 19/3/2011 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày
22/5/2013. Hiện nay đang sống với anh Nguyễn Phước H.
Chị Lê Thị Hồng Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Nguyễn Phước H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được
cản trở chị Lê Thị Hồng Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con chung.
Trên cơ sở lợi ích của con chung, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân,
cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp
dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng Đ phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0023741 ngày
28/11/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền
kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản
án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
[7] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh An Giang;
- VKSND tỉnh An Giang;
- VKSND huyện Chợ Mới;
- Chi cục THADS huyện Chợ Mới;
- Đương sự;
- UBND xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang;
- Văn phòng;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Phước Sang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 02/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm