Bản án số 698/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 698/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 698/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 698/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị Thanh N - Nguyễn Thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Số: 698/2024/DS-PT
Ngày: 02/12/2024
V/v:“Tranh chấp chia thừa kế”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Bà Trần Thị Thu Nam
Các Thẩm phán: Ông Chu Tuấn Anh
Bà Nguyễn Thu Hồng
-Thư phiên tòa: Hoàng Thị Thu Hiền - Thẩm tra viên chính Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Bách Thiện Linh -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 02 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nội xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 238/2024/TLPT-DS ngày 23/10/2024 về
“Tranh chấp chia thừa kế”.
Do bản án dân sự thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Tòa án nhân dân
quận Tây Hồ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 517/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng
10 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965 (có mặt tại phiên tòa);
Địa chỉ: Số nhà A, ngách A, đường A, tổ D, cụm G, phường P, quận T, thành phố Hà
Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ca bà N: Bà Hoàng Thị H, ông Ngô Anh T;
địa chỉ liên hệ: Công ty L2 và cộng sự - P609, V2, tòa nhà H, số A, phố T, phường Y,
quận C, thành phố Hà Nội (bà H, ông T đều có mặt tại phiên tòa).
Bị đơn:Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 (có mặt tại phiên tòa);
Địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay là tổ A), phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
2
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay Tổ A),
phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo y quyền ca ông Nguyễn Văn C: Phạm Ngọc H1 anh Đỗ
Quang A; Địa chỉ liên hệ: Số nhà E, ngõ E N, phường B, quận H, thành phố Nội
(bà H1 và anh Quang A đều có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Vân A1 sinh năm 1990 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993 (có mặt tại phiên tòa).
3. Chị Nguyễn Nhật L1, sinh năm 1993 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Cháu Nguyễn Tuấn K, cháu Nguyễn Mộc T1, cháu Nguyễn Minh C1, (con ca
anh Xuân A2 và chị L1). Anh Xuân A2, chị L1 là đại diện theo pháp luật ca cháu K,
cháu T1, cháu C1).
Cùng địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay tổ A), phường P, quận T, thành phố
Nội.
5. Bà Nguyễn Thị T2 (vợ ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
6. Chị Nguyễn Ngọc A3 (con gái ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
7. Chị Nguyễn Ngọc Á (con gái ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
Cùng địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay tổ A), phường P, quận T, thành phố
Nội.
8. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962 (vắng mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Tổ C, cụm A, phường P, quận T, thành phố Hà Nội;
(Bà Đ y quyền cho Nguyễn Thị Thanh N theo Giấy y quyền số 58 ngày
08/01/2024).
9. Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968 (có mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Số nhà I, ngõ C, đường A, phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
10. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971 (có mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Số nhà G, tổ dân phố Đ, phường T, quận B, thành phố Hà Nội;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn -
Nguyễn Thị Thanh N trình bày:
Bố mẹ bà N cụ Nguyễn Văn Q (Đ1) sinh năm 1927, chết năm 2014, cụ Nguyễn
Thị C2, sinh năm 1933, chết năm 2007. Hai cụ sinh được 06 người con gồm:
3
1. Ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1957 (Chết năm 2021)
2. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960
3. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962
4. Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965
5. Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968
6. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971
Ông Q1 có vợ là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 và có các con là chị Nguyễn
Vân A1, sinh năm 1990, anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993, hiện đang cùng địa
chỉ với bà L.
Sinh thời gia đình L 9 nhân khẩu gồm bố mẹ 6 người con. Năm
1978 nội ca bà cụ Nguyễn Thị T4 được UBND phường P cấp một thửa đất
giãn dân là đất ở, có diện tích 360m
2
. Ngoài ra, bố bà cụ Q đã đổi diện tích đất ca
các nhân khẩu trong gia đình gồm 09 người, lúc đó bà nội ca cụ T4 vẫn còn
sống đến năm 1987 cụ T4 chết, Hợp tác xã cấp cho 180m
2
đất rau xanh cùng diện tích
đất vào khoảng năm 1983. Tổng diện tích đất khoảng 540m
2
, 04 chị em gái
cùng bố mẹ nội trên thửa đất này đến khi đi lấy chồng. Đ đi lấy chồng năm
1987, bà N đi lấy chồng năm 1995, bà H2 đi lấy chồng năm 1992, bà T3 lấy chồng từ
năm 1991. Thửa đất này từ khi được cấp và chuyển đổi bố, mẹ bà không bán cho ai.
Diện tích đất này bố mẹ khai và được giao đất, lúc này chưa cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng. Hiện nay Nguyễn Thị L ông Nguyễn Văn C đang
sử dụng toàn bộ diện tích đất này. Bà L sử dụng ½ diện tích đất, nhà ông C sử dụng ½
diện tích đất. Phần diện tích L sử dụng vợ chồng L xây dựng căn nhà 3,5 tầng
cách đây khoảng 6 đến 7 năm khi ông Q1 còn sống. Căn nhà 3,5 tầng xây khoảng một
năm, biết nhưng lúc đó bố mẹ còn sống, chị em gái không ý kiến gì,
không có đơn gì đến UBND phường P yêu cầu dừng việc xây dựng.
Phần diện tích đất ông C sử dụng, ông C đã xây dựng căn nhà 1,5 tầng cách
đây 20 năm, lúc đó bố mẹ vẫn còn sống. Khi ông C xây dựng cũng không ai ý
kiến gì do các bà không được bố, mẹ và các anh thông báo, trao đổi nên các bà không
biết.
Trước đây, ông Q1, ông C cùng bố mẹ ở chung trên thửa đất, đi chung ngõ đến
khi ông Q1 xây dựng nhà 3,5 tầng mới phân chia ranh giới giữa hai nhà và từ khi ông
Q1 xây dựng thì gia đình nào sử dụng đất ca gia đình đó.
Bố mẹ chết không để lại di chúc, N đề nghị Tòa án chia di sản đất
4
theo pháp luật chia đều cho các con, không chia tài sản trên đất. Tại Biên bản
phiên tòa (BL 388) bà N xác định diện tích đất là di sản có diện tích 570m
2
.
Bị đơn - Bà Nguyễn Thị L trình bày:
L kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Q1 năm 1990, sau khi kết hôn cùng
ông Q1 trên căn nhà 1 tầng mà ông Q1 đã tự xây dựng trước đó, bà và ông Q1 ở riêng
không ở cùng bố mẹ chồng.
Năm 1992, bố mẹ chồng cho vợ chồng diện tích đất 300m
2
tại địa chỉ số nhà
F, ngõ C đường A, Tổ A, cụm B, phường P, quận T, thành phố Nội, vợ chồng
ổn định và đóng thuế từ đó đến nay. Năm 2003, bố mẹ chồng chồng làm
th tục khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng
Nguyễn Thị L Nguyễn Văn Q1. Ngày 04/7/2003, UBND quận T đã cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng bà với diện tích đất 180m
2
,
120m
2
đất không cấp Giấy chứng nhận. Không đồng ý với việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do UBND quận T cấp, vợ chồng đã khiếu nại lên UBND
thành phố H. Ngày 11/6/2007, UBND quận T đã cấp lại 300m
2
đất ở, trên nhà
tông 01 tầng diện tích xây dựng 40m
2
cho vợ chồng bà. Đến khoảng năm 2014, vợ
chồng xây dựng căn nhà 3,5 tầng, diện tích xây dựng 85m
2
. Năm 2017, vợ
chồng tặng cho 02 con là Nguyễn Thị Vân A1 58m
2
Nguyễn Xuân A2
58m
2
. Khi tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các con thì chồng vẫn
còn sống. Các con đã xây nhà cấp 4 trên đất, cháu Vân A1 xây dựng nhà cấp 4
nhưng cho thuê không nhà đất trên, còn cháu Xuân A2 vợ con đang ở phần diện
tích vợ chồng tặng cho. Khi vợ chồng tặng cho, các con xây dựng nhà trên đất,
các anh, chị em chồng không ai ý kiến gì. Sau khi chồng chết mới phát sinh
mâu thuẫn và N yêu cầu chia thừa kế.
Bà L không đồng ý với yêu cầu chia thừa kế ca bà N vì nhà đất ca bà đang ở
tài sản chung ca vợ chồng đã sdụng ổn định liên tục được bố mẹ khai tặng
cho, được Nhà nước công nhận nên không phải là di sản thừa kế ca bố mẹ chồng bà
nên không chia được. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế ca
N.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông C trình bày:
Về nguồn gốc đất tại địa chỉ số nhà F, ngõ C đường A, Tổ A, cụm B, phường
P, quận T, thành phố Nội ca vợ chồng ông Nguyễn Văn C bà Nguyễn Thị
T2. Ông C và bà T2 kết hôn năm 1983, sau khi kết hôn vợ chồng ông C, bà T2 ở cùng
5
nhà với ông Q, C2. Năm 1992, vợ chồng ông C đã được bố mẹ tặng cho ½ diện
tích đất 278m
2
, vợ chồng ông C đóng thuế từ đó đến nay. Ngày 04/7/2003, UBND
quận T đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vchồng ông C với
diện tích đất 180m
2
, 198m
2
đất không cấp Giấy chứng nhận. Không đồng ý với
Giấy chứng nhận quyền sdụng đất do UBND quận T cấp, ông C đã khiếu nại lên
UBND thành phố H. Ngày 11/6/2007, UBND quận T đã cấp lại 278m
2
đất trên
nhà bê tông 1 tầng trên đất. Quá trình ăn ở trên đất ông C có xây dựng căn nhà 2 tầng
1 gian bếp từ khoảng năm 2000, diện tích xây dựng nhà 70m
2
, bếp 30m
2
, diện
tích còn lại sân vườn. Hiện nay ông C cùng 2 người con gái Nguyễn Ngọc
Á và Nguyễn Ngọc A3. Cháu Á và cháu Ngọc A3 chưa có gia đình.
Nay N yêu cầu chia thừa kế, ông C ý kiến không đồng ý, nhà đất ca vợ
chồng ông C đang sử dụng tài sản chung ca vợ chồng ông C đã sử dụng ổn định
liên tục được bố mẹ kê khai tặng cho, được Nhà nước công nhận nên không phải là di
sản thừa kế ca cụ Nguyễn Văn Q (Đinh) cụ Nguyễn Thị C2 bố mẹ ông C nên
không chia được. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế ca bà N.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh H2 trình bày:
H2 nhất trí với trình bày ca N, không nhất trí với ý kiến ca L.
Nguồn gốc thửa đất đất đổi khi làm đê được chia theo nhân khẩu chứ không phải
đất ông cha các cụ để lại. Hồ ông C, ông Q1 L kê khai cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không có hợp đồng tặng cho giữa bố bà là cụ Q cho ông C, ông Q1
L thời điểm đó bố minh mẫn, việc tặng cho không chữ ca bố nên
bà không chấp nhận.
2. Bà Nguyễn Thị Thanh T3 trình bày:
T3 chưa bao giờ nghe bố nói tặng cho ông C, ông Q1 đất như L
trình bày, bà nhất trí với yêu cầu khởi kiện ca bà N, không nhất trí với ý kiến ca bà
L.
3. Anh Nguyễn Xuân A2 nhất trí với trình bày ca bà L, không bổ sung gì.
Tại bản án dân sự thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Ta án
nhân dân quận Tây Hồ đã xét xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca Nguyễn Thị Thanh N đối với
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối
với di sản ca cụ Nguyễn Văn Q (Đ) và cụ Nguyễn Thị C2.
6
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo ca các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 và 15/5/2024 bị đơn - bà Nguyễn Thị Thanh N
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh H2, Nguyễn
Thị Thanh T3 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do, bản án sơ thẩm đã
xét xử không đúng sự thật khách quan, không đúng bản chất vụ việc. Đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm hy bản án dân sự thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
ca nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thanh N.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn - N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo;
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan H2 T3 giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét nguồn gốc 2 thửa đất trên là di sản thừa
kế ca bố mẹ để lại cũng tài sản chung ca bố mẹ ca các anh chị em bà.
Không có căn cứ nào xác định bố mẹ bà đã cho vợ chồng ông Q1ông C 2 thửa đất
trên. Đề nghị Tòa án chia thừa kế theo pháp luật cho các đồng thừa kế.
- Bị đơn - bà Nguyễn Thị L đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp
yêu cầu khởi kiện ca bà N và yêu cầu kháng cáo ca N, H2 T3 đây là
tài sản ca vợ chồng bà, không phải là di sản thừa kế.
- Đại diện theo uỷ quyền ca ông Nguyễn Văn C đề nghị không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện ca bà N. Phía bà N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
H2 và bà T3 không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào chứng minh hai thửa đất trên
tài sản chung ca các bố mẹ. Nhà đất hiện gia đình ông C đang quản lý, sử
dụng không còn là di sản vì khi còn sống cụ Đ1, cụ C2 đã cho ông Q1ông C. Ông
Q1 ông C đã xây dựng nhà sống cùng với các cụ cho đến khi các cụ chết.
Quyền sử dụng sở hữu ca ông Q1 ông C được chứng minh bằng việc Nhà
nước đã cấp Giấy chứng nhận cho hai ông năm 2003 2007, khi đó hai cụ vẫn còn
sống.
Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện yêu cầu
kháng cáo ca bà N, bà H2 và bà T3.
Anh Nguyễn Xuân A2 nhất trí với ý kiến ca L người đại diện ca ông
C, không bổ sung gì thêm.
T3, bà H2 nhất trí với lời trình bày ca bà N và Luật sư bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp ca bà N.
7
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu:
Trước khi phát biểu tranh luận, Luật đề nghị Tòa án triệu tập một số người
liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất số
58 và 59, t bản đồ s 30, địa ch ti phường P, qun T, thành ph Hà Ni cho ông C
vợ chồng ông Q1, L để làm việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng hai
thửa đất trên có đúng quy định không?.
- Về nguồn gốc đất, căn cứ vào các văn bản UBND phường P UBND quận T cung
cấp cho Tòa án thể hiện, nguồn gốc sử dụng đất người đăng khai quyền sử
dụng đất đầu tiên đối với thửa đất số 58 và 59, t bản đồ s 30, đa ch ti phường P,
qun T, thành ph Ni ban đầu là thửa số 477 diện tích 547m
2
do ông Nguyễn
Văn Đ1 (tức Nguyễn Văn Q) người đăng sử dụng, trong đó ông Q được UBND
cấp đổi cho 360m
2
đất không giấy tờ san lấp hm hố diện tích tăng thêm
187m
2
. Nội dung này phù hợp với quan điểm ca đại diện Viện kiểm sát và nhận định
ca bản án cấp thẩm. Như vậy sxác định nguồn gốc phần diện tích đất
đang tranh chấp đã được cụ Q (tức Đ1) đăng sử dụng, tuy chưa được cấp Giấy
chứng nhận nhưng hồ lưu trữ, sổ sách quản tại các quan quản địa phương
đều xác nhận cụ Q đã xác lập, đăng quyền sử dụng ca mình đối với thửa đất tại
cơ quan có thẩm quyền.
- Quá trình giải quyết vụ án, ông C L đều khai được cụ Q tặng cho quyền sử
dụng cả hai thửa đất trên, ngoài lời khai thì không tài liệu, chứng cứ nào khác
chứng minh việc cụ Q, cụ C2 tặng cho hai người con trai thửa đất. Việc tặng cho
cũng không sự thông báo cho bốn người con gái ca hai cụ N, Đ, H2
T3 nên cả bốn đều không biết không ai nghe bố mẹ nhắc đến việc tặng
cho. Lời khai ca ông C L về việc được bố mẹ cho đất vào năm 1988 nhưng
việc tặng cho này theo quy định ca pháp luật vào thời điểm đó cũng không được cho
phép và công nhận, trái với quy định tại Điều 16 Luật Đất đai năm 1987.
- Trình tự th tục hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với
thửa đất số 58 cho ông C vợ là T2 thửa đất số 59 cho ông Q1 và bà L không
tuân th đúng quy định ca pháp luật về cấp Giấy chứng nhận do không đ thành
phần bắt buộc ca Hội đồng đăng đất (thiếu ba thành viên). Do quyết định cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu không đúng quy định sẽ kéo theo quyết
định cấp đổi Giấy chứng nhận quyết định cấp Giấy chứng nhận cho hai con ca
8
ông Q1, bà L do ông Q1 L tặng cho quyền sử dụng đất cho con đều không giá
trị pháp lý.
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ca ông C, T2, ông Q1, L hai Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông Q1, L tặng cho hai người con, tuy nhiên Tòa án cấp
thẩm không xem xét chấp nhận không thực hiện đúng hướng dẫn tại Công n số
196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 ca Tòa án nhân dân tối cao.
Từ những phân ch trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo ca nguyên
đơn, tuyên hy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu và đề nghị:
Về tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xử đã tuân th đúng các quy định ca
Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định ca
pháp luật.
Về nội dung: Sau khi phân tích tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án phân
tích đánh giá quá trình giải quyết vụ án xác định:
Tòa án cấp thẩm đã đưa đầy đ din, hàng tha kế tham gia t tng; xác
định đúng về thời điểm m tha kế và thi hiu yêu cu chia tha kế.
V ngun gc các thửa đt s 58 59, t bản đ s 30 c thửa đất được
tách ra t thửa đất s 447, t bản đồ s 2, bản đ đo đạc năm 1986, diện tích
547m
2
.
Theo cung cp ca chính quyền địa phương là quan quảnđất đai thể hin
thửa đất thuc quyn s dng ca c Nguyễn Văn Đ1 (Nguyễn Văn Q), năm 1977, cụ
Đ1 đưc UBND cấp đổi cho 360m
2
đất (không giy t), c Đinh T5 san lp
thêm 187m
2
đất trước năm 1980. Sau năm 1980, cụ Đinh lấn thêm 31m
2
ao phía
Đông nên tng din tích thửa đất tăng lên 578m
2
. Năm 1988, cụ Đ1 phân chia đất
cho 02 người con trai ông Nguyễn Văn Q1 đưc 300m
2
, ông Nguyễn Văn C đưc
278m
2
.
Bản đồ địa chính năm 1994 đã th hin, phn din tích 278m
2
tha s 58, t
bản đồ s 30 do ông Nguyễn Văn C s dng; phn din tích 300m
2
là tha s 59, t
bản đồ s 30 do ông Nguyễn Văn Q1 s dng.
Trên sở vic phân chia ca c Đ1, c C2 cũng như việc ghi nhn thông tin
trong bản đồ địa chính. Ông Q1 ông C s dụng đất ổn định, liên tục, đã đóng thuế
đất đã khai được cp Giy chng nhn quyn s dụng đất lần đầu vào ngày
9
04/7/2003 cp li Giy chng nhn quyn s dụng đất vào năm 2007. Sau đó ông
Q1, L tiếp tc tách mt phn diện ch đất cho hai con Nguyn Xuân A2,
Nguyn Vân A1 đều được cp Giy chng nhận vào năm 2017.
Như vy khi còn sng thì c Đ1 đã phân chia đất cho ông Q1, ông C. Các con
ca c Đ1, c C2 biết việc phân chia đất nêu trên và đu không ý kiến phản đối,
trong đó nguyên đơn. Nguyên đơn cũng tha nhn biết vic ông Q1, ông C xây
dng các công trình nhà trên đất và không ý kiến phản đối. Sau khi ông Q1,
ông C đưc cp Giy chng nhn quyn s dng dất, nguyên đơn cũng không khiếu
ni hay khi kin gì.
Nguyên đơn khởi kin yêu cu chia di sn tha kế đối với đất hai thửa đất s
58 và 59, t bản đồ s 30, địa ch phưng P, qun T, thành ph Hà Ni và không yêu
cu chia tài sản trên đt. Tại đơn khi kin, các bn t khai cũng như trưc thời điểm
m phiên hp công khai chng c và hòa giải nguyên đơn không sửa đổi b sung đơn
khi kiện cũng như yêu cầu đề ngh hy giy chng nhn quyn s dụng đất cp cho
b đơn. Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu độc lp. Ti phiên
tòa phúc thm Luật bảo v quyn li ích hp pháp ca nguyên đơn đ ngh đưa
mt s người tham gia t tụng liên quan đến vic cp Giy chng nhn quyn s
dụng đất là không có cơ sở xem xét.
Đối vi nội dung nguyên đơn cho rng phn din tích 360m
2
đất được cp cho
c Đ1 đt giãn dân cp cho 09 nhân khu gm v chng c Đ1, các con m c
Đ1. Tuy nhiên không tài liu chng c nào th hin phn diện tích đất này được
giao theo tiêu chun các nhân khẩu như nguyên đơn trình bày (không s giao đt,
cấp đất hay bt ci liu nào khác ngoài li khai mt phía ca nguyên đơn).
T những phân tích trên xác định c Đ1, c C2 đã phân chia đất cho ông Q1,
ông C t khi các c còn sng. Ông Q1, ông C đã thực hin th tục khai được
cp Giy chng nhn quyn s dụng đất. Như vậy, các phn diện tích đt này không
còn di sn tha kế ca c C2, c Đ1 để li na, nên yêu cu khi kin ca nguyên
đơn là không có căn cứ để chp nhn.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo ca nguyên đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là T3H2. Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 24/2024/DSST ngày 13/5/2024
ca Toà án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Nguyên đơn - Nguyễn Thị Thanh N người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh H2, Nguyễn Thị Thanh T3 đơn kháng
cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định
kháng cáo là hợp lệ.
2. Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
2.1. Xác định thời hiệu thừa kế và hàng thừa kế.
Cụ Nguyễn Văn Q (Đ1) sinh năm 1927, chết năm 2014 cụ Nguyễn Thị C2,
sinh năm 1933, chết năm 2007. Hai cụ sinh được 06 người con gồm:
- Ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1957 (chết năm 2021);
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960;
- Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962;
- Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965;
- Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968;
- Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971;
Ông Q1 có vợ là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 và có các con là chị Nguyễn
Thị Vân A1, sinh năm 1990; anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993, hiện đang ở cùng
địa chỉ tại nhà L.
Thời điểm mở thừa kế ca cụ Nguyễn Văn Q (Đinh) được xác định là năm 2014,
cụ Nguyễn Thị C2, được xác định năm 2007. Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện ngày
20/01/2022 yêu cầu chia thừa kế di sản ca cụ Q, cụ C2. Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân
sự năm 2015 yêu cầu ca bị đơn về việc áp dụng thời hiệu, xác định nguyên đơn
khởi kiện còn trong thời hiệu khởi kiện.
Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015, xác định hàng thừa kế thứ nhất ca cụ
Q, cụ C2 là bà N, ông C, bà Đ, bà H2, bà T3, ông Q1 (chết 2021 có vợ là bà L và các
con là chị Vân A1 và anh Xuân A2).
2.2 V ngun gc các thửa đất s 58 59, t bản đồ s 30, tại đa ch phường
P, qun T, thành ph Hà Ni.
Căn cứ vào thông tin do UBND phường P, UBND qun T Văn phòng đăng
đất đai quận T cung cấp; căn c vào h cp Giy chng nhn quyn s dng
đất, trong đó có các tài liệu là Biên bn phân loi h sơ ca Hội đồng kê khai đăng ký
nhà đt phường P xét duyệt ngày 19/9/2001, s xác định, ngun gc hai
11
thửa đất trên c Đ1 đưc UBND xã cấp đổi năm 1977 với din tích 360m
2
đất (không
giy t), c Đinh T5 san lp thêm 187m
2
đất trước năm 1980. Sau năm 1980, c
Đinh lấn thêm 31m
2
ao phía Đông nên tổng din tích thửa đất tăng lên là 578m
2
. Năm
1988, c Đ1 phân chia đất cho 02 ngưi con trai là ông Nguyễn Văn Q1 đưc 300m
2
,
ông Nguyễn Văn C đưc 278m
2
. Bản đồ địa chính năm 1994 thể hin, phn din tích
278m
2
tha s 58, t bản đồ s 30 do ông Nguyễn Văn C s dng; phn din tích
300m
2
là tha s 59, t bản đồ s 30 do ông Nguyễn Văn Q1 s dng (BL 185).
Trên sở vic phân chia ca c Đ1, c C2 cũng như việc ghi nhn thông tin
trong bản đồ địa chính. Ông Q1 ông C s dng đất ổn định, liên tục, đã nộp thuế
s dụng đt thc hin vic khai cp Giy chng nhn, ngày 04/7/2003 UBND
qun T đã cấp Giy chng nhn quyn s dụng đất lần đầu đối vi thửa đất s 58, t
bản đồ s 30 cho ông Nguyễn Văn C và v Nguyn Th T2 thửa đất s 59 t
bản đồ s 30 cho ông Nguyễn Văn Q1 v Nguyn Th L. Vic cp Giy
chng nhn quyn s dụng đt nêu trên thuộc trường hp s dụng đất ổn định, lâu dài
liên tục theo quy định tại Điều 33, 34, 35 Luật đất đai năm 1993, phù hp vi quy
định tại Điều 95, 101 Luật Đất đai năm 2013.
Năm 2006, 2007 UBND qun T Quyết định thu hi cp li Giy chng
nhận đối vi thửa đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn Q1 v Nguyn Th L;
ông Nguyễn Văn Cv bà Nguyn Th T2, do thay đổi v diện tích đất được cp
Giy chng nhn quyn s dụng đất.
Năm 2017, ông Q1, L tng cho hai con anh Nguyn Xuân A2 ch
Nguyn Th Vân A1 mt phn thửa đất s 59 t bản đồ s 30 nêu trên. Các bên đã
thc hin th tục đăng ký biến động, ngày 24/4/2017 S T6 cp Giy chng nhn cho
anh Nguyn Xuân A2 thửa đất s 59-1, t bản đồ s 30, din tích 58.0m
2
;
ch Nguyn
Th Vân A1 thửa đt s 59-2, t bản đồ s 30, din tích 58.0m
2
; ông Nguyễn Văn Q1
và bà Nguyn Th L thửa đất s 59, t bản đồ s 30, din tích 184.0m
2
.
Việc nguyên đơn cho rằng, phn din tích 360m
2
đất được cp cho c Đ1 là đất
giãn dân cp cho 09 nhân khu gm v chng c Đ1, m và các con ca c Đ1. Phn
diện tích đất 180m
2
tăng thêm đất rau xanh cũng được cp trên tiêu chun ca các
nhân khẩu trong gia đình. Tuy nhiên xem xét tài liu, chng c do quan qun
đất đai ca địa phương cung cấp thì không tài liu nào th hin các thửa đất nêu
trên đt cấp giãn dân hay đất rau xanh cho các đối tượng như trình bày ca N
cũng như trình bày ca H2 T3. Phía nguyên đơn cũng không cung cấp được
12
cho Tòa án tài liu, chng c nào chng minh cho trình bày ca mình là có cơ s. Do
vậy không có căn cứ xác định thửa đất trên được cp theo tiêu chun cấp đất giãn dân
và đất rau xanh như trình bày ca nguyên đơn.
Đối vi việc nguyên đơn cho rằng, không có căn cứ chng minh có vic c Đ1,
c C2 tặng cho hai người con trai ông Q1, ông C các thửa đất trên vào năm 1988
như lời khai ca L v ông Q1 li khai ca ông C (chia cho ông C 278m
2
, chia
cho ông Q1 300m
2
). Xét thy, quá trình gii quyết v án các đương sự đều trình bày
ông Q1 ông Cầu người xây dng nhà công trình trên đt; khi còn sng hai
c cùng với gia đình ông C trên thửa đất này. Ti thời điểm gia đình ông C, T2
ông Q1, L khai làm th tc cp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu
năm 2001, đến năm 2003 vợ chồng ông Q1, ông C mới được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thời điểm này cả hai cụ còn sống. Năm 2006 UBND quận T
quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần thứ hai vào năm 2007, thời điểm này cụ Đ1 cụ C2 vẫn còn
sống, những người trong hàng thừa kế thứ nhất N, Đ, H2 T3 đều
biết ông C, ông Q1 xây dựng nhà công trình trên đất nhưng không ai ý kiến
phản đối gì. Do vậy có cơ sở xác định trình bày ca bị đơn về việc được c Đ1, c C2
phân chia đt t khi hai c còn sng. Bản đồ địa chính năm 1994 đã th hin, phn
din tích 278m
2
tha s 58, t bản đ s 30 do ông Nguyễn Văn C s dng; phn
din tích 300m
2
tha s 59, t bản đ s 30 do ông Nguyễn Văn Q1 s dng. V
chng ông C v chng ông Q1 đã nộp thuế s dụng đất t nhiều năm nay, thực
hiện kê khai đưc cp Giy chng nhn quyn s dụng đất. Như vậy, các thửa đất
trên đã được định đoạt t khi các c còn sng nên không còn là di sn tha kế ca c
C2, c Đ1 để li na. Yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế
theo pháp luật không sở không được Tòa án cấp thẩm chấp nhận
căn cứ, phù hợp với quy định ca pháp luật.
Đối với đề nghị ca Luật sư đề nghị được triệu tập một số người liên quan
đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xét thấy quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn không yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông
Nguyễn Văn Q1 v Nguyn Th L Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T2. Tại phiên tòa phúc thẩm người bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp ca nguyên đơn cũng trình bày: tại phiên tòa thẩm
nguyên đơn đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không được Tòa
13
án cấp thẩm chấp nhận...như vậy cần xác định, yêu cầu hy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất liên quan đến thẩm quyền giải quyết, nếu yêu cầu bổ sung
thì yêu cầu này phải được thực hiện trước thời điểm tiếp cận chứng cứ hòa giải.
Mặt khác như nhận định nội dung trên, việc chuyển quyền sử dụng đất từ cụ Đinh
cụ Chắt sang cho vợ chồng ông C, vợ chồng ông Q1 phù hợp với quy định ca pháp
luật và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, do vậy Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét và giải quyết là đúng quy định ca pháp luật.
Từ những phân tích trên xác định, kháng cáo ca N, H2 T3 là
không có cơ sở chấp nhận.
Phát biểu ca đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nội phù hợp với
nhận định ca Hội đồng xét xử.
3. Về án phí:
Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn - Nguyễn Thị
Thanh N phải chịu án phí theo quy định ca pháp luật. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm
tính án phí chưa chính xác nên cần sửa lại. Cụ thể, nguyên đơn chỉ yêu cầu chia di
sản thừa kế đất diện tích 570m
2
(do người để lại di sản không còn tài sản,
công trình nào xây dựng trên đất).
Căn cứ vào Biên bản định giá ngày 14/7/2023, Hội đồng định giá chỉ định giá
đối với diện tích đất không nằm trong chỉ giới giải phóng mặt bằng dán mở rộng
ngõ C, đường A, phường P, quận T, Nội, theo đó giá trị quyền sử dụng đất
100.000.000 đồng/m
2
. Căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 20/12/2023 tại UBND
phường P, quận T, Nội xác định, diện tích đất bị thu hồi để thực hiện dự án
110m
2
, phần diện tích này Hội đồng định giá không tiến hành định giá. Như vậy yêu
cầu khởi kiện liên quan đến phần diện tích đất được định giá là 460m
2
x
100.000.000đ/m
2
= 46.000.000.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện không được chấp
nhận nên án phí được xác định là 154.000.000 đồng.
Do sửa án thẩm nên N người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
H2, bà T3 không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 611, 612 ca Bộ luật dân sự năm 2015;
14
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 ca Uỷ ban Thường vụ
Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Tòa án nhân dân
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội về phần án phí.
Tuyên xử:
1. Xác định Thửa đất s 58, 59, t bản đồ s 30 tại địa ch T A cm B,
phưng P, qun T, Ni không phi di sn tha kế ca c Nguyễn Văn Q (tc
Đ1) và c Nguyn Th C2.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện ca Nguyễn Thị Thanh N đối
với Nguyễn Thị L ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp
luật di sản ca cụ Nguyễn Văn Q (Đ) và cụ Nguyễn Thị C2.
3. Về án phí
- Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 154.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 41.000.000 đồng
tạm ứng án pdân sự thẩm N đã nộp theo Biên lai số 32764, ngày 08 tháng 4
năm 2022 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số
0002547 ngày 27/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ. Số tiền án phí
Nguyễn Thị Thanh N còn tiếp tục phải nộp là 112.700.000 đồng.
- Nguyễn Thị Thanh H2 Nguyễn Thị Thanh T3 không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm. Trả lại cho H2 T3 mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án
phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0002601 và 0002602 ngày
30/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Ch toạ phiên toà
15
Trần Thị Thu Nam
Tải về
Bản án số 698/2024/DS-PT Bản án số 698/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 698/2024/DS-PT Bản án số 698/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất