Bản án số 698/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 698/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 698/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 698/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 698/2024/DS-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 698/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Thị Thanh N - Nguyễn Thị L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Số: 698/2024/DS-PT
Ngày: 02/12/2024
V/v:“Tranh chấp chia thừa kế”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Trần Thị Thu Nam
Các Thẩm phán: Ông Chu Tuấn Anh
Bà Nguyễn Thu Hồng
-Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thu Hiền - Thẩm tra viên chính Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Bách Thiện Linh -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 02 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 238/2024/TLPT-DS ngày 23/10/2024 về
“Tranh chấp chia thừa kế”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Tòa án nhân dân
quận Tây Hồ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 517/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng
10 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965 (có mặt tại phiên tòa);
Địa chỉ: Số nhà A, ngách A, đường A, tổ D, cụm G, phường P, quận T, thành phố Hà
Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ca bà N: Bà Hoàng Thị H, ông Ngô Anh T;
địa chỉ liên hệ: Công ty L2 và cộng sự - P609, V2, tòa nhà H, số A, phố T, phường Y,
quận C, thành phố Hà Nội (bà H, ông T đều có mặt tại phiên tòa).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 (có mặt tại phiên tòa);
Địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay là tổ A), phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
2
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay là Tổ A),
phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo y quyền ca ông Nguyễn Văn C: Bà Phạm Ngọc H1 và anh Đỗ
Quang A; Địa chỉ liên hệ: Số nhà E, ngõ E N, phường B, quận H, thành phố Hà Nội
(bà H1 và anh Quang A đều có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Vân A1 sinh năm 1990 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993 (có mặt tại phiên tòa).
3. Chị Nguyễn Nhật L1, sinh năm 1993 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Cháu Nguyễn Tuấn K, cháu Nguyễn Mộc T1, cháu Nguyễn Minh C1, (con ca
anh Xuân A2 và chị L1). Anh Xuân A2, chị L1 là đại diện theo pháp luật ca cháu K,
cháu T1, cháu C1).
Cùng địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay là tổ A), phường P, quận T, thành phố Hà
Nội.
5. Bà Nguyễn Thị T2 (vợ ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
6. Chị Nguyễn Ngọc A3 (con gái ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
7. Chị Nguyễn Ngọc Á (con gái ông C, vắng mặt tại phiên tòa).
Cùng địa chỉ: Số nhà F, tổ A, cụm B (nay là tổ A), phường P, quận T, thành phố Hà
Nội.
8. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962 (vắng mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Tổ C, cụm A, phường P, quận T, thành phố Hà Nội;
(Bà Đ y quyền cho bà Nguyễn Thị Thanh N theo Giấy y quyền số 58 ngày
08/01/2024).
9. Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968 (có mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Số nhà I, ngõ C, đường A, phường P, quận T, thành phố Hà Nội.
10. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971 (có mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Số nhà G, tổ dân phố Đ, phường T, quận B, thành phố Hà Nội;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn -
bà Nguyễn Thị Thanh N trình bày:
Bố mẹ bà N là cụ Nguyễn Văn Q (Đ1) sinh năm 1927, chết năm 2014, và cụ Nguyễn
Thị C2, sinh năm 1933, chết năm 2007. Hai cụ sinh được 06 người con gồm:
3
1. Ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1957 (Chết năm 2021)
2. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960
3. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962
4. Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965
5. Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968
6. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971
Ông Q1 có vợ là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 và có các con là chị Nguyễn
Vân A1, sinh năm 1990, anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993, hiện đang ở cùng địa
chỉ với bà L.
Sinh thời gia đình bà L có 9 nhân khẩu gồm bố mẹ bà và 6 người con. Năm
1978 bà nội ca bà là cụ Nguyễn Thị T4 được UBND phường P cấp một thửa đất
giãn dân là đất ở, có diện tích 360m
2
. Ngoài ra, bố bà là cụ Q đã đổi diện tích đất ca
các nhân khẩu trong gia đình gồm 09 người, lúc đó bà nội ca bà là cụ T4 vẫn còn
sống đến năm 1987 cụ T4 chết, Hợp tác xã cấp cho 180m
2
đất rau xanh cùng diện tích
đất ở vào khoảng năm 1983. Tổng diện tích đất là khoảng 540m
2
, 04 chị em gái bà ở
cùng bố mẹ và bà nội trên thửa đất này đến khi đi lấy chồng. Bà Đ đi lấy chồng năm
1987, bà N đi lấy chồng năm 1995, bà H2 đi lấy chồng năm 1992, bà T3 lấy chồng từ
năm 1991. Thửa đất này từ khi được cấp và chuyển đổi bố, mẹ bà không bán cho ai.
Diện tích đất này bố mẹ bà kê khai và được giao đất, lúc này chưa cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng. Hiện nay bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn C đang
sử dụng toàn bộ diện tích đất này. Bà L sử dụng ½ diện tích đất, nhà ông C sử dụng ½
diện tích đất. Phần diện tích bà L sử dụng vợ chồng bà L xây dựng căn nhà 3,5 tầng
cách đây khoảng 6 đến 7 năm khi ông Q1 còn sống. Căn nhà 3,5 tầng xây khoảng một
năm, bà có biết nhưng lúc đó bố mẹ bà còn sống, chị em gái không có ý kiến gì,
không có đơn gì đến UBND phường P yêu cầu dừng việc xây dựng.
Phần diện tích đất ông C sử dụng, ông C đã xây dựng căn nhà 1,5 tầng cách
đây 20 năm, lúc đó bố mẹ bà vẫn còn sống. Khi ông C xây dựng cũng không ai có ý
kiến gì do các bà không được bố, mẹ và các anh thông báo, trao đổi nên các bà không
biết.
Trước đây, ông Q1, ông C cùng bố mẹ ở chung trên thửa đất, đi chung ngõ đến
khi ông Q1 xây dựng nhà 3,5 tầng mới phân chia ranh giới giữa hai nhà và từ khi ông
Q1 xây dựng thì gia đình nào sử dụng đất ca gia đình đó.
Bố mẹ bà chết không để lại di chúc, bà N đề nghị Tòa án chia di sản là đất ở
4
theo pháp luật và chia đều cho các con, không chia tài sản trên đất. Tại Biên bản
phiên tòa (BL 388) bà N xác định diện tích đất là di sản có diện tích 570m
2
.
Bị đơn - Bà Nguyễn Thị L trình bày:
Bà L kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Q1 năm 1990, sau khi kết hôn bà ở cùng
ông Q1 trên căn nhà 1 tầng mà ông Q1 đã tự xây dựng trước đó, bà và ông Q1 ở riêng
không ở cùng bố mẹ chồng.
Năm 1992, bố mẹ chồng cho vợ chồng bà diện tích đất 300m
2
tại địa chỉ số nhà
F, ngõ C đường A, Tổ A, cụm B, phường P, quận T, thành phố Hà Nội, vợ chồng bà
ở ổn định và đóng thuế từ đó đến nay. Năm 2003, bố mẹ chồng bà và chồng bà làm
th tục kê khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng bà là
Nguyễn Thị L và Nguyễn Văn Q1. Ngày 04/7/2003, UBND quận T đã cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng bà với diện tích đất ở 180m
2
,
120m
2
đất không cấp Giấy chứng nhận. Không đồng ý với việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ở do UBND quận T cấp, vợ chồng bà đã khiếu nại lên UBND
thành phố H. Ngày 11/6/2007, UBND quận T đã cấp lại 300m
2
đất ở, trên có nhà bê
tông 01 tầng diện tích xây dựng 40m
2
cho vợ chồng bà. Đến khoảng năm 2014, vợ
chồng bà xây dựng căn nhà 3,5 tầng, diện tích xây dựng là 85m
2
. Năm 2017, vợ
chồng bà tặng cho 02 con là Nguyễn Thị Vân A1 là 58m
2
và Nguyễn Xuân A2 là
58m
2
. Khi tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho các con thì chồng bà vẫn
còn sống. Các con bà đã xây nhà cấp 4 trên đất, cháu Vân A1 xây dựng nhà cấp 4
nhưng cho thuê không ở nhà đất trên, còn cháu Xuân A2 có vợ con đang ở phần diện
tích vợ chồng bà tặng cho. Khi vợ chồng bà tặng cho, các con xây dựng nhà trên đất,
các anh, chị em chồng bà không ai có ý kiến gì. Sau khi chồng bà chết mới phát sinh
mâu thuẫn và bà N yêu cầu chia thừa kế.
Bà L không đồng ý với yêu cầu chia thừa kế ca bà N vì nhà đất ca bà đang ở
là tài sản chung ca vợ chồng đã sử dụng ổn định liên tục được bố mẹ kê khai tặng
cho, được Nhà nước công nhận nên không phải là di sản thừa kế ca bố mẹ chồng bà
nên không chia được. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế ca bà
N.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông C trình bày:
Về nguồn gốc đất tại địa chỉ số nhà F, ngõ C đường A, Tổ A, cụm B, phường
P, quận T, thành phố Hà Nội là ca vợ chồng ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị
T2. Ông C và bà T2 kết hôn năm 1983, sau khi kết hôn vợ chồng ông C, bà T2 ở cùng
5
nhà với ông Q, bà C2. Năm 1992, vợ chồng ông C đã được bố mẹ tặng cho ½ diện
tích đất là 278m
2
, vợ chồng ông C đóng thuế từ đó đến nay. Ngày 04/7/2003, UBND
quận T đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng ông C với
diện tích đất ở 180m
2
, 198m
2
đất không cấp Giấy chứng nhận. Không đồng ý với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở do UBND quận T cấp, ông C đã khiếu nại lên
UBND thành phố H. Ngày 11/6/2007, UBND quận T đã cấp lại 278m
2
đất ở trên có
nhà bê tông 1 tầng trên đất. Quá trình ăn ở trên đất ông C có xây dựng căn nhà 2 tầng
và 1 gian bếp từ khoảng năm 2000, diện tích xây dựng nhà 70m
2
, bếp là 30m
2
, diện
tích còn lại là sân vườn. Hiện nay ông bà C ở cùng 2 người con gái là Nguyễn Ngọc
Á và Nguyễn Ngọc A3. Cháu Á và cháu Ngọc A3 chưa có gia đình.
Nay bà N yêu cầu chia thừa kế, ông C có ý kiến không đồng ý, nhà đất ca vợ
chồng ông C đang sử dụng là tài sản chung ca vợ chồng ông C đã sử dụng ổn định
liên tục được bố mẹ kê khai tặng cho, được Nhà nước công nhận nên không phải là di
sản thừa kế ca cụ Nguyễn Văn Q (Đinh) và cụ Nguyễn Thị C2 là bố mẹ ông C nên
không chia được. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế ca bà N.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh H2 trình bày:
Bà H2 nhất trí với trình bày ca bà N, không nhất trí với ý kiến ca bà L.
Nguồn gốc thửa đất là đất đổi khi làm đê được chia theo nhân khẩu chứ không phải
đất ông cha các cụ để lại. Hồ sơ ông C, ông Q1 bà L kê khai cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không có hợp đồng tặng cho giữa bố bà là cụ Q cho ông C, ông Q1
bà L vì thời điểm đó bố bà minh mẫn, việc tặng cho không có chữ ký ca bố bà nên
bà không chấp nhận.
2. Bà Nguyễn Thị Thanh T3 trình bày:
Bà T3 chưa bao giờ nghe bố bà nói là tặng cho ông C, ông Q1 đất như bà L
trình bày, bà nhất trí với yêu cầu khởi kiện ca bà N, không nhất trí với ý kiến ca bà
L.
3. Anh Nguyễn Xuân A2 nhất trí với trình bày ca bà L, không bổ sung gì.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Ta án
nhân dân quận Tây Hồ đã xét xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca bà Nguyễn Thị Thanh N đối với bà
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối
với di sản ca cụ Nguyễn Văn Q (Đ) và cụ Nguyễn Thị C2.
6
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo ca các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 và 15/5/2024 bị đơn - bà Nguyễn Thị Thanh N
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Thanh H2, bà Nguyễn
Thị Thanh T3 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do, bản án sơ thẩm đã
xét xử không đúng sự thật khách quan, không đúng bản chất vụ việc. Đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm hy bản án dân sự sơ thẩm và chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
ca nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thanh N.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn - bà N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà H2 và bà T3 giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét nguồn gốc 2 thửa đất trên là di sản thừa
kế ca bố mẹ bà để lại và cũng là tài sản chung ca bố mẹ và ca các anh chị em bà.
Không có căn cứ nào xác định bố mẹ bà đã cho vợ chồng ông Q1 và ông C 2 thửa đất
trên. Đề nghị Tòa án chia thừa kế theo pháp luật cho các đồng thừa kế.
- Bị đơn - bà Nguyễn Thị L đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp
yêu cầu khởi kiện ca bà N và yêu cầu kháng cáo ca bà N, bà H2 và bà T3 vì đây là
tài sản ca vợ chồng bà, không phải là di sản thừa kế.
- Đại diện theo uỷ quyền ca ông Nguyễn Văn C đề nghị không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện ca bà N. Phía bà N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
bà H2 và bà T3 không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào chứng minh hai thửa đất trên
là tài sản chung ca các bà và bố mẹ. Nhà đất hiện gia đình ông C đang quản lý, sử
dụng không còn là di sản vì khi còn sống cụ Đ1, cụ C2 đã cho ông Q1 và ông C. Ông
Q1 và ông C đã xây dựng nhà ở và sống cùng với các cụ cho đến khi các cụ chết.
Quyền sử dụng và sở hữu ca ông Q1 và ông C được chứng minh bằng việc Nhà
nước đã cấp Giấy chứng nhận cho hai ông năm 2003 và 2007, khi đó hai cụ vẫn còn
sống.
Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
kháng cáo ca bà N, bà H2 và bà T3.
Anh Nguyễn Xuân A2 nhất trí với ý kiến ca bà L và người đại diện ca ông
C, không bổ sung gì thêm.
Bà T3, bà H2 nhất trí với lời trình bày ca bà N và Luật sư bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp ca bà N.
7
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu:
Trước khi phát biểu tranh luận, Luật sư đề nghị Tòa án triệu tập một số người
có liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất số
58 và 59, tờ bản đồ số 30, địa chỉ tại phường P, quận T, thành phố Hà Nội cho ông C
và vợ chồng ông Q1, bà L để làm rõ việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng hai
thửa đất trên có đúng quy định không?.
- Về nguồn gốc đất, căn cứ vào các văn bản UBND phường P và UBND quận T cung
cấp cho Tòa án thể hiện, nguồn gốc sử dụng đất và người đăng ký kê khai quyền sử
dụng đất đầu tiên đối với thửa đất số 58 và 59, tờ bản đồ số 30, địa chỉ tại phường P,
quận T, thành phố Hà Nội ban đầu là thửa số 477 có diện tích 547m
2
do ông Nguyễn
Văn Đ1 (tức Nguyễn Văn Q) là người đăng ký sử dụng, trong đó ông Q được UBND
xã cấp đổi cho 360m
2
đất không có giấy tờ và san lấp hm hố diện tích tăng thêm
187m
2
. Nội dung này phù hợp với quan điểm ca đại diện Viện kiểm sát và nhận định
ca bản án cấp sơ thẩm. Như vậy có cơ sở xác định nguồn gốc phần diện tích đất
đang tranh chấp đã được cụ Q (tức Đ1) đăng ký sử dụng, tuy chưa được cấp Giấy
chứng nhận nhưng hồ sơ lưu trữ, sổ sách quản lý tại các cơ quan quản lý địa phương
đều xác nhận cụ Q đã xác lập, đăng ký quyền sử dụng ca mình đối với thửa đất tại
cơ quan có thẩm quyền.
- Quá trình giải quyết vụ án, ông C và bà L đều khai được cụ Q tặng cho quyền sử
dụng cả hai thửa đất trên, ngoài lời khai thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác
chứng minh việc cụ Q, cụ C2 tặng cho hai người con trai thửa đất. Việc tặng cho
cũng không có sự thông báo cho bốn người con gái ca hai cụ là bà N, bà Đ, bà H2
và bà T3 nên cả bốn bà đều không biết và không ai nghe bố mẹ nhắc đến việc tặng
cho. Lời khai ca ông C và bà L về việc được bố mẹ cho đất vào năm 1988 nhưng
việc tặng cho này theo quy định ca pháp luật vào thời điểm đó cũng không được cho
phép và công nhận, trái với quy định tại Điều 16 Luật Đất đai năm 1987.
- Trình tự th tục và hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với
thửa đất số 58 cho ông C và vợ là bà T2 và thửa đất số 59 cho ông Q1 và bà L không
tuân th đúng quy định ca pháp luật về cấp Giấy chứng nhận do không đ thành
phần bắt buộc ca Hội đồng đăng ký đất (thiếu ba thành viên). Do quyết định cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu không đúng quy định sẽ kéo theo quyết
định cấp đổi Giấy chứng nhận và quyết định cấp Giấy chứng nhận cho hai con ca
8
ông Q1, bà L do ông Q1 bà L tặng cho quyền sử dụng đất cho con đều không có giá
trị pháp lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ca ông C, bà T2, ông Q1, bà L và hai Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông Q1, bà L tặng cho hai người con, tuy nhiên Tòa án cấp sơ
thẩm không xem xét chấp nhận là không thực hiện đúng hướng dẫn tại Công văn số
196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 ca Tòa án nhân dân tối cao.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo ca nguyên
đơn, tuyên hy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu và đề nghị:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân th đúng các quy định ca
Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định ca
pháp luật.
Về nội dung: Sau khi phân tích tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phân
tích đánh giá quá trình giải quyết vụ án xác định:
Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa đầy đ diện, hàng thừa kế tham gia tố tụng; xác
định đúng về thời điểm mở thừa kế và thời hiệu yêu cầu chia thừa kế.
Về nguồn gốc các thửa đất số 58 và 59, tờ bản đồ số 30 là các thửa đất được
tách ra từ thửa đất số 447, tờ bản đồ số 2, bản đồ đo đạc năm 1986, có diện tích
547m
2
.
Theo cung cấp ca chính quyền địa phương là cơ quan quản lý đất đai thể hiện
thửa đất thuộc quyền sử dụng ca cụ Nguyễn Văn Đ1 (Nguyễn Văn Q), năm 1977, cụ
Đ1 được UBND xã cấp đổi cho 360m
2
đất (không có giấy tờ), cụ Đinh T5 san lấp
thêm 187m
2
đất trước năm 1980. Sau năm 1980, cụ Đinh lấn thêm 31m
2
ao phía
Đông nên tổng diện tích thửa đất tăng lên là 578m
2
. Năm 1988, cụ Đ1 phân chia đất
cho 02 người con trai là ông Nguyễn Văn Q1 được 300m
2
, ông Nguyễn Văn C được
278m
2
.
Bản đồ địa chính năm 1994 đã thể hiện, phần diện tích 278m
2
là thửa số 58, tờ
bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn C sử dụng; phần diện tích 300m
2
là thửa số 59, tờ
bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn Q1 sử dụng.
Trên cơ sở việc phân chia ca cụ Đ1, cụ C2 cũng như việc ghi nhận thông tin
trong bản đồ địa chính. Ông Q1 và ông C sử dụng đất ổn định, liên tục, đã đóng thuế
đất đã kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào ngày
9
04/7/2003 và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2007. Sau đó ông
Q1, bà L tiếp tục tách một phần diện tích đất cho hai con là Nguyễn Xuân A2,
Nguyễn Vân A1 đều được cấp Giấy chứng nhận vào năm 2017.
Như vậy khi còn sống thì cụ Đ1 đã phân chia đất cho ông Q1, ông C. Các con
ca cụ Đ1, cụ C2 biết việc phân chia đất nêu trên và đều không có ý kiến phản đối,
trong đó có nguyên đơn. Nguyên đơn cũng thừa nhận biết việc ông Q1, ông C xây
dựng các công trình là nhà ở trên đất và không có ý kiến phản đối. Sau khi ông Q1,
ông C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng dất, nguyên đơn cũng không khiếu
nại hay khởi kiện gì.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với đất hai thửa đất số
58 và 59, tờ bản đồ số 30, địa chỉ phường P, quận T, thành phố Hà Nội và không yêu
cầu chia tài sản trên đất. Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai cũng như trước thời điểm
mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nguyên đơn không sửa đổi bổ sung đơn
khởi kiện cũng như yêu cầu đề nghị hy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Tại phiên
tòa phúc thẩm Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp ca nguyên đơn đề nghị đưa
một số người tham gia tố tụng liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là không có cơ sở xem xét.
Đối với nội dung nguyên đơn cho rằng phần diện tích 360m
2
đất được cấp cho
cụ Đ1 là đất giãn dân cấp cho 09 nhân khẩu gồm vợ chồng cụ Đ1, các con và mẹ cụ
Đ1. Tuy nhiên không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện phần diện tích đất này được
giao theo tiêu chuẩn các nhân khẩu như nguyên đơn trình bày (không có sổ giao đất,
cấp đất hay bất cứ tài liệu nào khác ngoài lời khai một phía ca nguyên đơn).
Từ những phân tích trên xác định cụ Đ1, cụ C2 đã phân chia đất cho ông Q1,
ông C từ khi các cụ còn sống. Ông Q1, ông C đã thực hiện th tục kê khai và được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, các phần diện tích đất này không
còn là di sản thừa kế ca cụ C2, cụ Đ1 để lại nữa, nên yêu cầu khởi kiện ca nguyên
đơn là không có căn cứ để chấp nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo ca nguyên đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà T3 và bà H2. Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DSST ngày 13/5/2024
ca Toà án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Thanh N và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Thanh H2, Nguyễn Thị Thanh T3 có đơn kháng
cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định
kháng cáo là hợp lệ.
2. Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
2.1. Xác định thời hiệu thừa kế và hàng thừa kế.
Cụ Nguyễn Văn Q (Đ1) sinh năm 1927, chết năm 2014 và cụ Nguyễn Thị C2,
sinh năm 1933, chết năm 2007. Hai cụ sinh được 06 người con gồm:
- Ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1957 (chết năm 2021);
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960;
- Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962;
- Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1965;
- Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1968;
- Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1971;
Ông Q1 có vợ là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 và có các con là chị Nguyễn
Thị Vân A1, sinh năm 1990; anh Nguyễn Xuân A2, sinh năm 1993, hiện đang ở cùng
địa chỉ tại nhà bà L.
Thời điểm mở thừa kế ca cụ Nguyễn Văn Q (Đinh) được xác định là năm 2014,
cụ Nguyễn Thị C2, được xác định là năm 2007. Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện ngày
20/01/2022 yêu cầu chia thừa kế di sản ca cụ Q, cụ C2. Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân
sự năm 2015 và yêu cầu ca bị đơn về việc áp dụng thời hiệu, xác định nguyên đơn
khởi kiện còn trong thời hiệu khởi kiện.
Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015, xác định hàng thừa kế thứ nhất ca cụ
Q, cụ C2 là bà N, ông C, bà Đ, bà H2, bà T3, ông Q1 (chết 2021 có vợ là bà L và các
con là chị Vân A1 và anh Xuân A2).
2.2 Về nguồn gốc các thửa đất số 58 và 59, tờ bản đồ số 30, tại địa chỉ phường
P, quận T, thành phố Hà Nội.
Căn cứ vào thông tin do UBND phường P, UBND quận T và Văn phòng đăng
ký đất đai quận T cung cấp; căn cứ vào hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, trong đó có các tài liệu là Biên bản phân loại hồ sơ ca Hội đồng kê khai đăng ký
nhà ở và đất ở phường P xét duyệt ngày 19/9/2001, có cơ sở xác định, nguồn gốc hai
11
thửa đất trên cụ Đ1 được UBND xã cấp đổi năm 1977 với diện tích 360m
2
đất (không
có giấy tờ), cụ Đinh T5 san lấp thêm 187m
2
đất trước năm 1980. Sau năm 1980, cụ
Đinh lấn thêm 31m
2
ao phía Đông nên tổng diện tích thửa đất tăng lên là 578m
2
. Năm
1988, cụ Đ1 phân chia đất cho 02 người con trai là ông Nguyễn Văn Q1 được 300m
2
,
ông Nguyễn Văn C được 278m
2
. Bản đồ địa chính năm 1994 thể hiện, phần diện tích
278m
2
là thửa số 58, tờ bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn C sử dụng; phần diện tích
300m
2
là thửa số 59, tờ bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn Q1 sử dụng (BL 185).
Trên cơ sở việc phân chia ca cụ Đ1, cụ C2 cũng như việc ghi nhận thông tin
trong bản đồ địa chính. Ông Q1 và ông C sử dụng đất ổn định, liên tục, đã nộp thuế
sử dụng đất và thực hiện việc kê khai cấp Giấy chứng nhận, ngày 04/7/2003 UBND
quận T đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa đất số 58, tờ
bản đồ số 30 cho ông Nguyễn Văn C và vợ là bà Nguyễn Thị T2 và thửa đất số 59 tờ
bản đồ số 30 cho ông Nguyễn Văn Q1 và vợ là bà Nguyễn Thị L. Việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thuộc trường hợp sử dụng đất ổn định, lâu dài
liên tục theo quy định tại Điều 33, 34, 35 Luật đất đai năm 1993, phù hợp với quy
định tại Điều 95, 101 Luật Đất đai năm 2013.
Năm 2006, 2007 UBND quận T có Quyết định thu hồi và cấp lại Giấy chứng
nhận đối với thửa đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn Q1 và vợ là bà Nguyễn Thị L;
ông Nguyễn Văn C và vợ là bà Nguyễn Thị T2, do thay đổi về diện tích đất được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 2017, ông Q1, bà L tặng cho hai con là anh Nguyễn Xuân A2 và chị
Nguyễn Thị Vân A1 một phần thửa đất số 59 tờ bản đồ số 30 nêu trên. Các bên đã
thực hiện th tục đăng ký biến động, ngày 24/4/2017 Sở T6 cấp Giấy chứng nhận cho
anh Nguyễn Xuân A2 thửa đất số 59-1, tờ bản đồ số 30, diện tích 58.0m
2
;
chị Nguyễn
Thị Vân A1 thửa đất số 59-2, tờ bản đồ số 30, diện tích 58.0m
2
; ông Nguyễn Văn Q1
và bà Nguyễn Thị L thửa đất số 59, tờ bản đồ số 30, diện tích 184.0m
2
.
Việc nguyên đơn cho rằng, phần diện tích 360m
2
đất được cấp cho cụ Đ1 là đất
giãn dân cấp cho 09 nhân khẩu gồm vợ chồng cụ Đ1, mẹ và các con ca cụ Đ1. Phần
diện tích đất 180m
2
tăng thêm là đất rau xanh cũng được cấp trên tiêu chuẩn ca các
nhân khẩu trong gia đình. Tuy nhiên xem xét tài liệu, chứng cứ do cơ quan quản lý
đất đai ca địa phương cung cấp thì không có tài liệu nào thể hiện các thửa đất nêu
trên là đất cấp giãn dân hay đất rau xanh cho các đối tượng như trình bày ca bà N
cũng như trình bày ca bà H2 và bà T3. Phía nguyên đơn cũng không cung cấp được
12
cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho trình bày ca mình là có cơ sở. Do
vậy không có căn cứ xác định thửa đất trên được cấp theo tiêu chuẩn cấp đất giãn dân
và đất rau xanh như trình bày ca nguyên đơn.
Đối với việc nguyên đơn cho rằng, không có căn cứ chứng minh có việc cụ Đ1,
cụ C2 tặng cho hai người con trai là ông Q1, ông C các thửa đất trên vào năm 1988
như lời khai ca bà L vợ ông Q1 và lời khai ca ông C (chia cho ông C 278m
2
, chia
cho ông Q1 300m
2
). Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều trình bày
ông Q1 và ông Cầu là người xây dựng nhà ở và công trình trên đất; khi còn sống hai
cụ ở cùng với gia đình ông C trên thửa đất này. Tại thời điểm gia đình ông C, bà T2
và ông Q1, bà L kê khai làm th tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu
năm 2001, đến năm 2003 vợ chồng ông Q1, ông C mới được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thời điểm này cả hai cụ còn sống. Năm 2006 UBND quận T có
quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần thứ hai vào năm 2007, thời điểm này cụ Đ1 và cụ C2 vẫn còn
sống, những người trong hàng thừa kế thứ nhất là bà N, bà Đ, bà H2 và bà T3 đều
biết ông C, ông Q1 xây dựng nhà ở và công trình trên đất nhưng không ai có ý kiến
phản đối gì. Do vậy có cơ sở xác định trình bày ca bị đơn về việc được cụ Đ1, cụ C2
phân chia đất từ khi hai cụ còn sống. Bản đồ địa chính năm 1994 đã thể hiện, phần
diện tích 278m
2
là thửa số 58, tờ bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn C sử dụng; phần
diện tích 300m
2
là thửa số 59, tờ bản đồ số 30 do ông Nguyễn Văn Q1 sử dụng. Vợ
chồng ông C và vợ chồng ông Q1 đã nộp thuế sử dụng đất từ nhiều năm nay, thực
hiện kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, các thửa đất
trên đã được định đoạt từ khi các cụ còn sống nên không còn là di sản thừa kế ca cụ
C2, cụ Đ1 để lại nữa. Yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế
theo pháp luật là không có cơ sở và không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là có
căn cứ, phù hợp với quy định ca pháp luật.
Đối với đề nghị ca Luật sư đề nghị được triệu tập một số người có liên quan
đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xét thấy quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn không có yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông
Nguyễn Văn Q1 và vợ là bà Nguyễn Thị L và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T2. Tại phiên tòa phúc thẩm người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp ca nguyên đơn cũng trình bày: tại phiên tòa sơ thẩm
nguyên đơn đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không được Tòa
13
án cấp sơ thẩm chấp nhận...như vậy cần xác định, yêu cầu hy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có liên quan đến thẩm quyền giải quyết, nếu có yêu cầu bổ sung
thì yêu cầu này phải được thực hiện trước thời điểm tiếp cận chứng cứ và hòa giải.
Mặt khác như nhận định ở nội dung trên, việc chuyển quyền sử dụng đất từ cụ Đinh
cụ Chắt sang cho vợ chồng ông C, vợ chồng ông Q1 phù hợp với quy định ca pháp
luật và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, do vậy Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét và giải quyết là đúng quy định ca pháp luật.
Từ những phân tích trên xác định, kháng cáo ca bà N, bà H2 và bà T3 là
không có cơ sở chấp nhận.
Phát biểu ca đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với
nhận định ca Hội đồng xét xử.
3. Về án phí:
Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn - bà Nguyễn Thị
Thanh N phải chịu án phí theo quy định ca pháp luật. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm
tính án phí chưa chính xác nên cần sửa lại. Cụ thể, nguyên đơn chỉ yêu cầu chia di
sản thừa kế là đất ở có diện tích 570m
2
(do người để lại di sản không còn tài sản,
công trình nào xây dựng trên đất).
Căn cứ vào Biên bản định giá ngày 14/7/2023, Hội đồng định giá chỉ định giá
đối với diện tích đất không nằm trong chỉ giới giải phóng mặt bằng dự án mở rộng
ngõ C, đường A, phường P, quận T, Hà Nội, theo đó giá trị quyền sử dụng đất là
100.000.000 đồng/m
2
. Căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 20/12/2023 tại UBND
phường P, quận T, Hà Nội xác định, diện tích đất bị thu hồi để thực hiện dự án là
110m
2
, phần diện tích này Hội đồng định giá không tiến hành định giá. Như vậy yêu
cầu khởi kiện liên quan đến phần diện tích đất được định giá là 460m
2
x
100.000.000đ/m
2
= 46.000.000.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện không được chấp
nhận nên án phí được xác định là 154.000.000 đồng.
Do sửa án sơ thẩm nên bà N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà
H2, bà T3 không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 611, 612 ca Bộ luật dân sự năm 2015;
14
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 ca Uỷ ban Thường vụ
Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2024/DS-ST, ngày 13/5/2024 ca Tòa án nhân dân
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội về phần án phí.
Tuyên xử:
1. Xác định Thửa đất số 58, 59, tờ bản đồ số 30 tại địa chỉ Tổ A cụm B,
phường P, quận T, Hà Nội không phải là di sản thừa kế ca cụ Nguyễn Văn Q (tức
Đ1) và cụ Nguyễn Thị C2.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện ca bà Nguyễn Thị Thanh N đối
với bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp
luật di sản ca cụ Nguyễn Văn Q (Đ) và cụ Nguyễn Thị C2.
3. Về án phí
- Bà Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 154.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm
và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 41.000.000 đồng
tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà N đã nộp theo Biên lai số 32764, ngày 08 tháng 4
năm 2022 và 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số
0002547 ngày 27/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ. Số tiền án phí
bà Nguyễn Thị Thanh N còn tiếp tục phải nộp là 112.700.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Thanh H2 và bà Nguyễn Thị Thanh T3 không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm. Trả lại cho bà H2 và bà T3 mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án
phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0002601 và 0002602 ngày
30/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Ch toạ phiên toà
15
Trần Thị Thu Nam
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm