Bản án số 146/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 146/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 146/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 146/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị N về việc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 146/2025/DS-PT
Ngày: 31-7-2025
V/v: “Tranh chấp di sản thừa kế
yêu cầu hủy Quyết định biệt của
cơ quan, tổ chức”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Ông Đặng Ngọc Bình
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên Thư Tòa án, Toà án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh m Đồng: Ngô Hoàng Thanh
Hải – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 31 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét x
phúc thẩm công khai vụ án thụ s251/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 11 năm
2024 về tranh chấp: “Di sản thừa kế yêu cầu hủy Quyết định biệt của
quan, tổ chức”.
Do Bản án Dân sự thẩm số 118/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu
vực 3 - Lâm Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 529/2024/QĐ-PT ngày 02
tháng 12 năm 2024; Thông báo về việc mở phiên a xét xử phúc thẩm vụ án Dân
sự số 137/TB-TA ngày 07 tháng 7 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Hà Thị N, sinh năm: 1968; cư trú tại thôn P, xã T, tỉnh Lâm
Đồng; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Đinh Văn S, sinh năm:
1974; địa chỉ liên hệ: số E, đường P, tổ A, D, tỉnh Lâm Đồng Luật của
Công ty L2, Chi nhánh tỉnh L Đoàn Luật sư Thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Vợ chồng ông Văn T, sinh năm: 1974, Phạm Thị T1, sinh
năm: 1974; cư trú tại thôn Đ, xã T, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
2
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Nguyễn Duy T2, sinh năm:
1991; địa chỉ liên hệ: số A, đường N, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh Luật sư của Công ty L3 - Đoàn Luật sư Thành phố H; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan:
1. Ông Văn T3, sinh năm: 1971; trú tại thôn Đ, T, huyện T, tỉnh
Thái Bình; vắng mặt.
2. Thị V, sinh năm: 1964; trú tại thôn Đ, T, huyện T, tỉnh Thái
Bình; vắng mặt.
3. Ông Văn T4, sinh năm: 1954; trú tại thôn Đ, T, huyện T, tỉnh
Thái Bình; vắng mặt.
4. Ông Văn T5, sinh năm: 1966; trú tại thôn Đ, T, huyện T, tỉnh
Thái Bình; vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: Chủ tịch Ủy ban nhân dân T, tỉnh
Lâm Đồng; vắng mặt.
6. Xí nghiệp dâu tằm tơ tháng T6; địa chỉ: số C, Quốc lộ B, thôn Đ, Phường C
B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Công G, là người đại diện theo pháp luật
(Giám đốc xí nghiệp); vắng mặt.
- Người kháng cáo: Vợ chồng ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1 Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 25/10/2022 của bà Hà Thị N, lời trình
bày tại các bản tự khai trong quá trình tham gia tố tụng tại giai đoạn thẩm
của chị Phạm Huyền T7, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thì: Cha,
mẹ Thị N cụ Văn S1, cụ Bùi Thị L sinh được 07 người con gồm: ông
Văn T4, Thị V, ông Văn T8 (chết từ năm 1966 khi còn nhỏ), ông
Văn T5, Thị N, ông Văn T3, ông Văn T; hiện còn lại 06 người con.
Cha, mẹ bà N sống ly thân từ khi các con còn nhỏ.
Tháng 3/1992 Nhà nước chính sách đưa dân T, huyện T, tỉnh Thái
Bình vào huyện L, tỉnh Lâm Đồng xây dựng kinh tế mới, trong đó có gia đình bà N
gồm mN cụ Bùi Thị L, N em trai ông Văn T. Khi vào huyện L,
ba mcon N được nghiệp dâu tằm tơ tháng T6 giao khoán cho diện tích đất
trồng dâu khoảng 06 sào, hai mảnh đất diện tích 5.592m
2
tại thôn Đ, Đ,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, khi giao đất thì nghiệp ghi nhầm họ của
mẹ N là Nguyễn Thị L1. Ba mcon bà N đã làm nhà gỗ trên diện tích đất
khoảng hơn 02 sào, nay căn nhà này tọa lạc trên diện tích đất thuộc thửa 69, tờ bản
đồ số 3, xã Đ.
3
Quá trình sử dụng, năm 1995 ông Văn T chuyển nhượng diện ch đất
2.900m
2
tại thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng cho ông Quang V1, ông V1
chuyển nhượng cho ông, Thư K hiện Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1996 cụ
L1 chuyển nhượng diện tích đất chiều ngang 10m mặt đường nhựa, chiều sâu
hết lô đất cho ông Đinh Văn Q T; năm 2000 ông T chuyển nhượng cho ông
Trần Văn S2 20m mặt đường nhựa, chiều sâu hết lô đất; năm 2005 cụ L1 ông T
chuyển nhượng tiếp 05m mặt đường nhựa, chiều sâu hết đất cho ông Trần Văn
S2; tất cả đều thuộc thửa 69, tờ bản đồ số 03, Đ; chỉ còn lại diện tích đất
chiều ngang khoảng 08m, chiều sâu hết lô đất thuộc thửa 69, tờ bản đồ số 03, xã Đ,
trên đất 01 căn nhà gỗ. Năm 2005 cụ L1 về B nên đã giao cho bà N quyết định
của Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc thu hồi đất của nghiệp đối với các hộ đã
hoàn thành nghĩa vụ tài chính giao cho Ủy ban nhân dân huyện L cấp quyền sử
dụng đất. Khi giao quyết định trên thì cụ L1 nói với N phần đất còn lại của
bà. Tuy nhiên, ông T vẫn là người quản lý, sử dụng diện đất này.
Sau khi được giao giấy tờ, N không đăng ký kê khai để được cấp quyền sử
dụng đất. Năm 2019 cha của N chết; năm 2022 cụ L1 chết, cả hai đều không để
lại di chúc. Sau khi mẹ N chết thì lên Đ xuất trình quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh L thu hồi đất của nghiệp đối với các hộ đã hoàn thành nghĩa
vụ tài chính giao cho Ủy ban nhân dân huyện L để hỏi vthủ tục đăng khai
quyền sử dụng đất thì được Ủy ban nhân dân Đ trả lời là diện tích đất chiều
ngang khoảng 08m, chiều sâu hết đất thuộc thửa 69, tờ bản đồ số 03 Đ đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1.
N đã gọi cho ông Văn T lên làm việc nhưng ông T không lên. N
làm đơn đề nghị nhưng Ủy ban nhân dân Đ không giải quyết thông báo trả
lời đơn cho bà. Sau đó N nhờ anh em trong gia đình thương lượng giải quyết
với ông T nhưng ông T không đồng ý.
Nay N đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế do cụ Bùi Thị
L (Nguyễn Thị L1) đlại quyền sử dụng đất 453,4m
2
thuộc thửa đất số 69, tờ
bản đồ số 3 Đ thành hai phần bằng nhau cho bà Thị Nông Văn T. Bà
N đồng ý giao toàn bquyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất cho ông
Văn T, Phạm Thị T1 quản lý, sử dụng và yêu cầu bị đơn phải thanh toán lại cho
N giá trị bằng tiền theo kết quả thẩm định giá của Công ty cổ phần T10. Do
trong phần diện tích đất 453,4m
2
thuộc thửa 69, tbản đồ số 3 Đ 87,5m
2
đất
lộ giới nên N đồng ý trừ giá trị phần đất lộ giới này, chỉ yêu cầu ông T phải
thanh toán cho bà số tiền 1.060.000.000đ. Do không yêu cầu chia bằng hiện vật
nên bà N xin rút yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng số BE966335 do Ủy
ban nhân dân huyện L cấp ngày 15/6/2011 đối với diện tích đất 330m
2
thuộc thửa
đất số 69, tờ bản đồ số 3 xã Đ cho vợ chồng ông T, bà T1.
- Theo lời trình bày của ông Văn T thì: thống nhất với lời trình bày của
nguyên đơn về hàng thừa kế thứ nhất của cha là cụ Hà Văn S1, mẹ là cụ Bùi Thị L.
4
Năm 1992 ông mẹ ông (cụ L) chị gái bà N vào huyện L, tỉnh Lâm
Đồng làm kinh tế mới. Khi vào huyện L, nghiệp dâu tằm tháng T6 giao
khoán cho ba mẹ con diện tích đất trồng dấu khoảng trên 10.000m
2
tại thôn Đ,
Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng với tổng số tiền đầu tư là hơn 5.000.000đ do Xí nghiệp
bỏ ra, ba mẹ con ông nghĩa vụ canh tác trả dần số tiền đầu trên cho
nghiệp. Thời hạn giao khoán từ năm 1994 đến hết năm 1996. Sổ giao khoán do mẹ
ông cụ Bùi Thị L đứng tên chủ hộ nhận giao khoán chịu trách nhiệm trả tiền
đầu tư cho Xí nghiệp.
Ngoài diện tích đất trên, nhà nước giao cho ba mẹ con ông diện tích đất
khoảng 30m mặt đường liên xã, trên đất nnước dựng hai gian nhà gỗ để ở.
Đến năm 1995 N đi lấy chồng, mẹ ông cũng về quê khoảng năm 1995 1996.
Sau khi mẹ ông về quê, ông đi làm ăn nơi khác. Khoảng năm 1996 bà N và ông T3
đến chỗ ông làm nói ông chuyển nhượng phần đất ở để gửi tiền về cho mẹ ông xây
nhà, bán quán ngoài B. Ông đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất ở khoảng 30m
mặt đường liên xã, trên đất nhà nước dựng hai gian nhà gỗ cho ông V1 được
5.000.000đ, ông gửi toàn bộ số tiền nay về cho cụ L xây nhà, bán quán. Còn phần
diện tích đất khoảng 10.000m
2
đất trồng dâu cho nghiệp, trả lại cả s giao
khoán. Đến khoảng năm 1999 ông quay về Đ làm ăn, c này ông hỏi Đội
trưởng nghiệp dâu tằm tháng T6 về diện tích đất cụ L đã trả lại cho
nghiệp t họ cho biết đã giao khoán cho 02 thửa người khác, còn lại khoảng
1.700m
2
chưa giao khoán cho ai thì ông xin nhận lại để làm và có trách nhiệm hoàn
thành công nợ cho nghiệp là khoảng hơn 2.000.000đ, ông D đưa cho ông sổ
giao khoán. Cũng khoảng năm 1999 2000 thì ông trả tiền công nợ cho đội trưởng
của nghiệp ông Xuân D số tiền khoảng 2.000.000đ. Ông không nhận hóa
đơn, chứng từ từ ông D. Trong năm 2000, ông mua căn nhà gỗ giá 3.000.00
dựng trên đất (hiện căn nhà gỗ thửa đất số 69, tờ bản đồ số 3 Đ) đđón m
ông vào cưới vợ cho ông.
Cùng năm 2000 ông cưới Phạm Thị T1 làm vợ, vợ chồng ông cùng cụ L
sống trong căn nhà gỗ đến năm 2001. Năm 2001 ông bị bệnh nên mẹ ông chuyển
nhượng 20m mặt đường cho ông Nguyễn Văn S3 để lấy tiền trả nợ tiền chữa bệnh
cho ông. Còn lại 13m mặt đường, đến năm 2005, mẹ ông đòi về quê thì vợ chồng
ông đưa mẹ ông số tiền 11.000.000đ nhưng sau đó mông thay đổi ý kiến,
mẹ ông đòi dỡ một phần căn nhà gỗ để chuyển nhượng 06m mặt đường nhưng ông
không đồng ý, ông chỉ đồng ý chuyển nhượng 05m mặt đường.
Sau đó, mẹ ông làm đơn gửi xã Đ yêu cầu giải quyết, sau khi xã động viên mẹ
ông thì mẹ ông đồng ý chuyển nhượng 05m mặt đường cho ông Quang V1 với
giá 25.000.000đ, ông người giấy làm thủ tục còn tiền mẹ ông người giữ
mang về quê. Diện tích còn lại khoảng 08m mặt đường, ông vợ Phạm Thị
T1 đăng ký kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BE966335 ngày 15/6/2011 đối với diện tích đất 330m
2
thuộc thửa
đất số 69, tờ bản đồ s3 Đ. Việc khai về nguồn gốc viết cam kết việc
5
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải do ý chí của ông do địa
chính hướng dẫn chthực tế do ông hoàn thành nghĩa vụ tài chính với
nghiệp nên thuộc trường hợp được cấp quyền sử dụng đất. Năm 2019 cha của ông
chết; năm 2022 mẹ của ông chết, cả hai đều không để lại di chúc. Do vậy, diện tích
đất trên không phải là di sản thừa kế của cụ L để lại nên ông không đồng ý với toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của bà N.
Khi mông qua đời, ông người lo ma chay cho mẹ ông, tuy nhiên ông xác
định việc lo ma chay cho mẹ ông trách nhiệm của ông nên trong vụ án này ông
không yêu cầu Tòa án xem xét vấn đề này.
- Bà Phạm Thị T1 thống nhất ý kiến trình bày của ông T.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 118/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024; Toà án nhân dân
huyện Lâm Hà, tỉnh m Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 Lâm Đồng)
đã xử:
Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Thị N vviệc “Tranh chấp vthừa kế tài
sản” với bị đơn vợ chồng ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1.
Chia di sản thừa kế do cụ Bùi Thị L để lại diện tích đất 453,4m
2
(gồm
85,7m
2
đất nằm trong lộ giới, 100m
2
đất ONT, 267,7m
2
đất CLN) thuộc thửa đất số
thửa đất số 69, tờ bản đồ số 3 Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng cho Thị N
được hưởng 40% di sản tương ứng với số tiền 848.320.000đ, ông Văn T
được hưởng 60% di sản tương ứng với số tiền là 1.272.480.000đ.
Giao cho ông Văn T được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất 453,4m
2
(gồm 85,7m
2
đất nằm trong lộ giới, 100m
2
đất ONT, 267,7m
2
đất CLN) thuộc thửa
đất số 69, tờ bản đồ s3 Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng (có họa đồ đo đạc hiện
trạng thửa đất kèm theo).
Đối với diện tích đất 85,7m
2
nằm trong lộ giới thuộc một phần thửa đất số
thửa đất số 69, tờ bản đồ số 3 Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, ông Văn T được
tạm giao sdụng nhưng không được gây cản trở an toàn giao thông, phù hợp với
quy định của Luật Đất đai, đồng thời phải chấp hành việc xử lý hoặc thu hồi khi
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Buộc ông Hà Văn T phải thanh toán cho bà Hà Thị N số tiền 848.320.000đ.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
để đăng ký biến động đất đai theo quy định của Luật Đất đai hiện hành.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 24/9/2024 vợ chồng ông Văn T, bà Phạm Thị T1 đơn kháng cáo
đề nghị hủy Bản án sơ thẩm.
6
Tại phiên tòa,
Vợ chồng ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1 vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Thị N không đồng ý với kháng cáo của bđơn chỉ yêu cầu ông T
thanh toán cho bà 700.000.000đ là giá trị kỷ phần thừa kế mà bà được nhận.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị không chấp
nhận kháng cáo của vợ chồng ông T, T1; ghi nhận sự tự nguyện của N về
việc đồng ý nhận số tiền 700.000.000đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: Đề nghị chấp nhận
một phần kháng cáo của vợ chồng ông T, T1; xác định lại kỷ phần ông T
được hưởng 70% tổng giá trị tài sản thừa kế, còn kỷ phần của N 30% tổng
giá trị tài sản thừa kế.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của vợ chồng ông Văn T,
Phạm Thị T1; thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều
271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét
xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Qua xem xét kháng cáo của vợ chồng ông Văn T, Phạm Thị T1 t
thấy rằng:
[2.1] Xét về hàng thừa kế: Vợ chồng cụ Hà Văn S1 và cụ Bùi Thị L sinh được
07 người con chung gồm: ông Văn T4, Thị V, ông Văn T8 (đã chết
năm 1966, không vcon), ông Văn T5, Thị N, ông Văn T3, ông
Văn T. Ngoài ra giữa hai cụ không con riêng hay con nuôi nào khác. Cụ S1
chết năm 2019, cL chết năm 2022; cả hai đều không để lại di chúc.
Bị đơn cùng những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đều
thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về mối quan hệ huyết thống những
người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ S1 cụ L; thời điểm chết của
những người này, không tranh chấp về hàng, diện thừa kế. Do đó, căn cứ Điều
92 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì đây là những tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ông Văn
T4, Thị V, ông Văn T5, Thị N, ông Văn T3, ông Văn T
những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ L, cụ S1.
[2.2] Xét về di sản thừa kế: Diện tích đất 453,4m
2
thuộc thửa đất số 69, tờ bản
đồ số 3 tại Đ, huyện L (nay T), tỉnh Lâm Đồng được y ban nhân dân
7
huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số BE 966335 ngày 15/6/2011 cho vợ chồng ông Văn T,
Phạm Thị T1; diện tích được cấp là 330m
2
.
Cả bà N, ông T đều xác định nguồn gốc diện tích đất trên được Xí nghiệp dâu
tằm tháng T6 giao khoán cho cụ Nguyễn Thị L1, sinh năm 1937, số nhân khẩu
03 người ở T, huyện T, tỉnh Thái Bình để trồng dâu nuôi tằm vào năm 1992. Hộ cụ
L1 sử dụng diện tích đất này đến ngày 12/3/2001 thì Ủy ban nhân dân tỉnh L ban
hành Quyết định thu hồi để giao cho Ủy ban nhân dân huyện L quản lý. Đến ngày
22/03/2011 vợ chồng ông T, bà T1 có đơn xin đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nvà tài sản gắn liền với đất, đối với 330m
2
đất
trồng cây lâu năm (CLN), thuộc thửa đất số 69, thuộc tờ bản đồ địa chính số 03
Đ, nguồn gốc sử dụng đất được khai nhận chuyển nhượng của hộ Nguyễn
Thị L1. Trên sở này Ủy ban nhân dân huyện L đã cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bị đơn.
N cho rằng vào năm 2005 cụ L1 về Bắc nên giao cho bà quyết định của
Ủy ban nhân dân tỉnh L thu hồi đất của nghiệp đối với các hộ đã hoàn thành
nghĩa vụ tài chính giao cho Ủy ban nhân dân huyện L cấp quyền sdụng đất
nói với bà N phần đất còn lại của cụ L1. Tuy nhiên, thực tế ông T vẫn
người quản lý, sử dụng diện tích đất này. Sau khi cha, mẹ chết, bà có lên xã Đ xuất
trình quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh L thu hồi đất của nghiệp đối với các
hộ đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính giao cho Ủy ban nhân dân huyện L để hỏi về
thủ tục đăng khai quyền sử dụng đất tđược biết diện tích đất trên đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, T1 nên các bên
mới phát sinh tranh chấp.
[2.3] Xét thấy: Theo lời khai của ông Phạm Công G, Giám đốc Xí nghiệp dâu
tằm tháng T6 thì: “Vào năm 1992 nghiệp dâu tằm tháng 8 giao khoán
cho Nguyễn Thị L1, sinh năm 1937, số nhân khẩu 3 người T, T, Thái Bình
diện tích thửa 69, tbản đồ số 03 tại Đ, L, Lâm Đồng đtrồng dâu nuôi tằm.
Khi giao nhận giao diện tích đất 2.692m
2
giao cho bà L1. Quá trình nhận giao
khoán đất L1 người thực hiện các khoản tiền phải đóng tiền đầu vườn
dâu cho xí nghiệp. Hộ bà L1 sử dụng diện tích đất giao khoản đến ngày 12/3/2001
thì bị Ủy ban nhân dân tỉnh L thu hồi đất để giao cho Ủy ban nhân dân huyện L
quản lý, tại thời điểm thu hồi đất, L1 người hoàn thành công nợ tiền đầu
đối với xí nghiệp”. Ông T cho rằng ông là người hoàn thành công nợ với xí nghiệp;
đồng thời xuất trình “Sổ theo dõi thanh toán công nợ” để chứng minh. Tuy nhiên,
người đứng tên và người ký cam kết trong sổ thanh toán này đều thể hiện là cụ Bùi
Thị L. Ngoài ra, ông T ng không xuất trình được bất kỳ, tài liệu chứng cứ để
chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có căn cứ để xem xét.
[2.4] Bên cạnh đó, theo lời trình bày của ông Nguyễn Đình T9, nguyên là cán
bộ địa chính xã Đ thì: “Vào khoảng tháng 4/2011 ông T, bà T1 liên hệ địa chính
8
Đ để đăng ký khai quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 330m
2
thuộc thửa
số 69, tờ bản đồ số 03 xã Đ, khi đó ông là cán bộ địa chính xã Đ đã yêu cầu ông T,
T1 cung cấp giấy tờ liên quan đến việc đăng khai quyền sử dụng đất, tại
thời điểm đăng ký kê khai, ông T trình bày nguồn gốc thửa đất số 69, tờ bản đồ số
03, Đ do mẹ ông Nguyễn Thị L1 chuyển nhượng cho ông với gia
10.000.000đ nhưng do suất ông T đã làm mất giấy tờ chuyển nhượng nên ông
hướng dẫn cho ông T viết giấy cam kết về việc chuyển nhượng đất đai...”. Như
vậy, khi ông Thống K1 lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
không đúng với nguồn gốc đất.
[2.5] Mặc dù, ông T cung cấp các tài liệu biên lai thu thuế nhà đất năm
2002, 2003, 2004, 2005, 2010, 2011. Tuy nhiên, do ông T người trực tiếp quản
lý, sử dụng đất nêu trên cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thuế nhà, đất của ông
T phù hợp với thực tế. Đồng thời qua xác minh tại Chi cục thuế huyện L thì
không xác định được các biên lai thu thuế do ông T cung cấp thu thuế nhà, đất
cho diện tích đất cụ thnào; các biên lai thu thuế này cũng không căn cứ để
chứng minh ông T, bà T1 là người có quyền sử dụng đất hợp pháp từ trước cho đến
nay.
[2.6] vậy, sở để xác định thực tế giữa cụ L1 ông T không việc
chuyển nhượng diện tích đất 453,4m
2
thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 3 xã Đ, huyện
L, tỉnh Lâm Đồng cũng như ông T cũng không chứng minh được việc cấp quyền
sử dụng là do ông hoàn thành nghĩa vụ với xí nghiệp. Do đó cần xác định đâydi
sản thừa kế của cL1 để lại là có căn cứ.
[2.7] Quá trình giải quyết vụ án, N xin được nhận di sản thừa kế bằng giá
trị, đồng thời đơn xin rút yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho vợ chồng ông T, T1. Xét thấy hiện nay di sản này bị đơn đang quản lý, sử
dụng nên cấp sơ thẩm đã chia cho bà N di sản thừa kế của cụ L1 bằng giá trị là phù
hợp.
Theo chứng thẩm định giá tài sản thì diện tích 453,4m
2
(trong đó 85,7m
2
đất lộ giới, 100m
2
đất ONT, 267,7m
2
đất cây lâu năm) thuộc thửa 69, tờ bản đồ số
3 xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng có giá trị là 2.120.800.000đ.
Xét thấy, trong khoảng thời gian dài từ khoảng năm 2005 đến nay diện tích
đất là di sản thừa kế đều do ông T canh tác, sử dụng, gìn gữ, làm tăng giá trị quyền
sử dụng đất. Đồng thời, các đồng thừa kế khác trong vụ án cũng đơn từ chối
nhận di sản nên cần ghi nhận. Do đó, Tòa án cấp thẩm đã xác định kỷ phần của
ông T nhiều hơn của bà N là 60% và 40% là có căn cứ.
Tại phiên tòa hôm nay, N tự nguyện nhận số tiền kỷ phần thừa kế
được nhận là 700.000.000đ. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự, không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên cần ghi nhận.
9
Cũng tại phiên tòa, bị đơn chỉ yêu cầu hủy án thẩm, không yêu cầu tính lại
giá trị và công sức đóng góp nên không đề cập.
[3] Từ những phân tích trên, cần chấp nhận một phần kháng cáo của vợ chồng
ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1 để tuyên xử theo hướng đã nhận định.
[4] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, N yêu cầu xem xét
thẩm định tại chỗ, đo vẽ thẩm định giá tài sản chi phí hết 19.633.840đ (nguyên
đơn đã nộp tạm ứng và được quyết toán xong). Xét thấy việc xem xét thẩm định tại
chỗ, đo vẽ, thẩm định giá tài sản là cần thiết cho việc giải quyết vụ án và do chia di
sản của cụ L1 để lại cho nguyên đơn bị đơn nên cần buộc mỗi bên phải chịu ½
chi phí này là có căn cứ. Cụ thể: Buộc ông T có trách nhiệm trả lại cho bà N số tiền
9.816.920đ.
[5] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên vợ chồng ông
Văn T, Phạm Thị T1 không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm. Các đương sự
phải chịu án phí Dân sự thẩm tương ứng với giá trị kỷ phần thừa kế được nhận;
cụ thể: Thị N phải chịu 32.000.00án pDân sự thẩm, ông Văn T
phải chịu 54.624.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 609, 612, 613, 649, 650, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 7 Điều 27, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của vợ chồng ông Văn T, Phạm Thị
T1; sửa Bản án sơ thẩm số 118/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024 của Toà án
nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lâm
Đồng).
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị N vviệc: “Tranh chấp di sản
thừa kế” với vợ chồng ông Hà Văn T, Phạm Thị T1.
1.1. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Văn S1 cụ Bùi Thị L gồm:
Ông Văn T4, Thị V, ông Văn T5, bà Thị N, ông Văn T3, ông
Hà Văn T.
1.2. Xác định diện tích đất 453,4m
2
(gồm 85,7m
2
nằm trong lộ giới, 100m
2
đất
ONT, 267,7m
2
đất CLN) thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 3 Đ, huyện L, tỉnh Lâm
Đồng di sản thừa kế của cụ Bùi Thị L để lại, giá trị 2.120.800.000đ (hai tỷ
một trăm hai mươi triệu tám trăm nghìn đồng).
10
1.3. Buộc ông Hà Văn T nghĩa vụ thanh cho bà Thị N số tiền
700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng).
1.4. Vợ chồng ông Văn T, Phạm Thị T1 được quyền quản lý, sử dụng
đất diện tích 367,7m
2
(trong đó 100m
2
đất ONT, 267,7m
2
đất CLN thuộc
thửa số 69, tờ bản đsố 3 Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng (nay T, tỉnh Lâm
Đồng).
1.5. Tạm giao vợ chồng ông Hà Văn T, bà Phạm Thị T1 quản lý, sử dụng diện
tích đất 85,7m
2
nằm trong lộ giới. Khi Nhà nước chủ trương thu hồi thì thực
hiện theo quy định của Luật Đất đai.
2. Vợ chồng ông Văn T, Phạm Thị T1 được quyền liên hệ với quan
Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký biến động theo quy định của Luật
Đất đai.
(Có họa đồ đo đạc hiện trạng sdụng đất do Công ty trách nhiệm hữu hạn A
thực hiện ngày 08/3/2024 kèm theo).
3. Về chi phí tố tụng:
Thị N và ông Hà Văn T mỗi bên phải chịu 9.816.920đ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, đo vẽ và thẩm định giá tài sản.
Buộc ông Văn T trách nhiệm trả lại cho N số tiền 9.816.920đ (chín
triệu tám trăm mười sáu nghìn chín trăm hai mươi đồng).
4. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Bà Hà Thị N phải chịu 32.000.000đ án phí Dân sự sơ thẩm; được trừ vào số
tiền 4.175.000đ tạm ứng án phí Dân sthẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0010830 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự
huyện Lâm (nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng). N
còn phải nộp 27.825.000đ án phí Dân sự sơ thẩm còn thiếu.
+ Ông Văn T phải chịu 54.624.000đ án phí Dân sự thẩm; được trừ vào
số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005000 ngày 30/9/2024 của Chi cục Thi hành án Dân
sự huyện Lâm Hà (nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng). Ông
T còn phải nộp 54.324.000đ án phí Dân sự sơ thẩm còn thiếu.
- Án phí phúc thẩm: Vợ chồng ông T, T1 không phải chịu án phí Dân sự
phúc thẩm. T1 được nhận lại số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc
thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004999 ngày
30/9/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà (nay Phòng Thi hành
án Dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng).
5. Về nghĩa vụ thi hành án:
11
Kể tngày Bản án hiệu lực pháp luật kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, Ktr, Ttr & THA (01);
- TAND khu vực 3 – Lâm Đồng (01);
- THADS tỉnh Lâm Đồng (01);
- Các đương sự (09);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 146/2025/DS-PT Bản án số 146/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 146/2025/DS-PT Bản án số 146/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất