Bản án số 281/2025/DS-PT ngày 24/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 281/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 281/2025/DS-PT ngày 24/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 281/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thi L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Hồng.
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị My My, ông Nguyễn Duy Thuấn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 7 năm 2025 ti trsở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 228/2025/TLPT-DS ngày 04/6/2025 về việc
Tranh chấp di sản thừa kế”. Do bản án dân sthẩm số 40/2025/DS-ST ngày
11/4/2025 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (nay là Tòa
án nhân dân Khu vực 1 - Đắk Lắk) bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm số 273/2025/QĐXX-PT ngày 01/7/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa
số: 262/2025/QĐ-PT ngày 15/7/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị L, sinh năm 1954; Địa chỉ: Thôn B, H, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của Nguyễn Thị L là: Mai Thị Ngọc A,
sinh năm 1995; Địa chỉ: 27 T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là phường B, tỉnh Đắk
Lắk); Có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là: Luật sư Đặng Ngọc
H - Văn phòng L1; Địa chỉ: 27 T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là phường B, tỉnh
Đắk Lắk); Vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Khắc T, sinh năm 1956; Địa chỉ: 101 N, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Nguyễn Khắc T1, sinh năm 1949; Địa chỉ: Thôn I, xã H, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Vắng mặt.
3.2 Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; Địa chỉ: 81B H, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk (nay là phường B, tỉnh Đắk Lắk); Vắng mặt.
3.3 Nguyễn Thị H1, sinh năm 1963; Đa chỉ: Thôn I, H, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
3.4 Ông Nguyễn Khắc D1, sinh năm 1966; Địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
3.5 Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1968; Địa chỉ: 123 N, xã H, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 281/2025/DS-PT
Ngày 24 - 7 - 2025
“V/v: Tranh chấp di sản thừa kế”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo uỷ quyền của những người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Khắc D1, bà Nguyễn Thị
H1, Nguyễn Thị Y là: Mai Thị Ngọc A, sinh năm 1995; Địa chỉ: 27 T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là phường B, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
3.6 Thành Kim N, sinh năm 1969; Địa chỉ: 101 N, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk (nay là phường T, tỉnh Đắk Lắk); Có mặt.
4. Người kháng cáo:
4.1 Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L; Có mặt.
4.2 Bị đơn ông Nguyễn Khắc T; Có mặt.
4.3 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Thành Kim N; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị L người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn bà Mai Thị Ngọc A, cùng trình bày:
Ông Nguyễn Khắc T2, sinh năm 1914 (đã mất năm 2000) Nguyễn Thị
D2, sinh năm 1925 (đã mất năm 2023) có với nhau 07 người con, gồm:Nguyễn
Thị L, sinh năm 1954; ông Nguyễn Khắc T, sinh năm 1956; ông Nguyễn Khắc T1,
sinh năm 1949; Nguyễn Thị D sinh năm: 1958; Nguyễn Thị H1, sinh năm 1963;
ông Nguyễn Khắc D1, sinh năm 1966, bà Nguyễn Thị Y, sinh m 1968.
Vào năm 1988, ông T2 D2 mua được 01 căn nhà ti địa chỉ 107 L, phường
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. thời điểm đó, ông T người được bố mtin tưởng,
bản thân ông T2 lúc đó đã già yếu, để phòng sau này vướng thừa kế phức tạp cũng
như để thuận tiện khai báo nộp các loại thuế, phí cho cơ quan nhà nước nên đã đ
cho ông Nguyễn Khắc T đứng tên gp giấy tờ nhà đất trên. Do đó, bố mẹ đã để cho
vợ chồng ông T là người đứng ra ký kết các giấy tờ mua bán tài sản nđất nêu trên
với chủ đất ông Lê Xuân P, Phạm Thị N1, nên mới phát sinh thêm Giấy Đơn
xin mua bán nhà, đất ngày 09/07/1990. Căn cứ vào các giấy tờ ông T, N đã
đứng ra xác lp, sau đó ông T được xét duyệt cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hợp pháp.
Sau khi mua xong nhà và đất, ông T2, D2 cho con gái là Nguyễn Thị H1 ra
bán quán phê được gần một năm thì H1 đi lấy chồng, cháu gái Nguyễn Thị Kim
D3 (con gái của ông Nguyễn Khắc T1) tiếp tục đến bán quán phê tại đây.
Một thời gian sau cháu cháu D3 về S học may, không còn ở đây nữa thì đến lượt ông
T1 ông T đến bán gạo thu mua phê hạt. Một thời gian sau, ông T1 không
buôn bán nữa thì vợ con ông T mới chính thức đến ở và tiếp tục buôn bán. Việc ông
T khai rằng gia đình ông ở trên đất ngay sau khi mua đất là không đúng sự thật.
Về giấy tmua bán nhà đất trên, ông Nguyễn Khắc T đã cung cấp tại Tòa án 02
giấy sang nhượng đất gồm: Giấy sang nhượng đất thổ ngày 19/10/1992 nội
dung Nguyễn Thị D2 mua đất của ông Nguyễn D4 Đơn xin mua bán nhà,
đất ngày 09/07/1990 có nội dung vợ chồng ông Nguyễn Khắc T mua căn nhà 107 L.
Từ đó, ông T cho rằng tại Giấy xác nhận nhà ngày 16/09/2012 ông T trong
xác nhận để xác nhận đt mua của ông Nguyễn D4, còn đất tại 107 L
(trước số 87B L) của vợ chồng ông T nhận chuyển nhượng. Lời khai này của
ông T không đúng sự tht, bi lẽ: Đối với Giấy sang nhượng đất thổ ngày
19/10/1992 có nội dung Nguyễn Thị D2 mua đất của ông Nguyễn D4: Lô đt
3
này tại H mua năm 1992, sau đó đã thực hiện tách thửa, tách thành các Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất riêng biệt từ năm 1995 và năm 2003 cụ thể: Thửa đất tại địa
chỉ số 123 N tách năm 1995, thửa đất tại số nhà 125-127 N tách năm 2003. Do đó,
không thể chuyện như ông T trình bày đến năm 2012, bà L đưa giấy sang
nhượng này cho ông T yêu cầu ký vào giấy trắng để tiếp tục làm giấy tờ nhà đất
mà bà D2 mua từ năm 1992 cho mẹ.
Theo tài liệu Đơn xin mua bán nhà, đất ngày 09/07/1990 nội dung vợ
chồng Ông Nguyễn Khắc T mua căn nhà H L: Thực chất lô đất này là do ông T2, bà
D2 bỏ tiền mua đất (trả 22,5 chỉ vàng), các con không có ng sức đóng góp gì vào
khối tài sản này. Thời điểm đó chỉ cóNguyễn Thị L Nguyễn Thị Y đã lập
gia đình thì riêng, còn lại vợ chồng ông T, vợ chồng ông Nguyễn Khắc T1, ông
Nguyễn Khắc D1, Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị H1, cùng một số người cháu nội
đều đang sinh sống cùng với bố mẹ tại xã H.
Mặt khác, nếu thực sự đt của vchồng ông T tđến năm 2012 ông T đã
không ký, ghi rõ họ tên trên Giấy xác nhận nhà ngày 16/09/2012 để xác nhận lại nội
dung đt tại 107 L, phường T, thành phố B tài sản của mẹ. Chưa kể Giấy xác
nhận này còn có đầy đủ chữ ký, chữ viết của tt cả những người con khác trong gia
đình. Giấy xác nhận nhà ngày 16/09/2012: Giấy này được lập ngay tại cuộc họp gia
đình, sau khi tuyên bố thống nhất nội dung thì tất cả anh chị em trong gia đình
đều nhận. Giấy vở học sinh 02 tờ, 04 trang, được viết bằng mực một màu cùng
một thời điểm, khôngsự sửa chữa, tẩy xóa, giả mạo. Do đó, hoàn toàn kng có
việc đưa giấy trắng cho ông T và các anh em khác ký trước rồi về ghi nội dung sau,
ông T cũng không cung cấp được tài liêu, chứng cứ nào chứng minh mình bị lừa như
đã trình bày. Ngoài ra, chữ viết ghi nội dung tại Giấy xác nhận nhà là của Nguyễn
Thị Y không phải của L như lời ông T trình bày. Ngay sau khi kết thúc cuộc họp,
ông T đã giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 910772 cấp lần
đầu ngày 21/03/2007 cho hộ ông Nguyễn Khắc T cho mẹ mình giữ đến năm 2022
khi già yếu thì giao lại cho L tiếp tục giữ Giấy xác nhận nhà ngày 16/09/2012
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 910772 cấp lần đầu ngày 21/03/2007
nhằm đảm bảo tài sản nêu trên của bố mẹ sẽ không bị gia đình ông T thực hiện các
hành vi chuyển dịch tài sn như chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho người khác...
Điều này thêm chứng minh cho việc đất là tài sản của bố mẹ, nếu không vợ chồng
ông T không thể đưa bản chính Giấy CNQSDĐ cho mẹ gitrong suốt nhiều m
qua. Mãi đến khi đưa vụ án ra Tòa án giải quyết, trong quá trình Tòa án thu thập tài
liệu tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thì mới phát hiện ông T đã làm thủ tục
báo mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất nêu tn từ năm 2015,
đến hiện tại thì được biết ông T đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 692592 ngày 07/9/2022 đứng tên ông
Nguyễn Khắc T Thành Kim N. Điều này thêm minh chứng cho việc ông T giao
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mNguyễn Thị D2 giữ
có thật, ý định muốn chiếm đoạt tài sản làm của riêng là có thật và ý định đó bt đầu
từ năm 2015 cho đến nay. Do đó, hoàn toàn có đủ căn cứ cho thấy tài sản là nhà đất
tại A L, phường T, thành phố B là tài sn của ông T2 và bà D2.
Trong quá trình giải quyết vụ kiện ông Nguyễn Khắc T luôn khai báo gian dối.
Trong thời gian đầu giải quyết vụ án, ông T luôn tránh né việc tham gia tố tụng cho
4
đến khi Lương thực H2 thủ tục giám định chữ ký, chữ viết của ông T tại Giấy xác
nhận nhà ngày 16/09/2012 và đã được xác định là đúng chữ ký, chữ viết của ông t
ông mới lên Tòa. Do đó, yêu cầu phản tố của ông T và yêu cầu độc lập của bà N về
việc đề nghị Tòa án tuyên hủy Giấy xác nhận nhà đngày 16/9/2012 không căn
cứ. Đề nghị tòa án bác yêu cầu phản tố yêu cầu độc lập này của ông T N,
công nhận đây di sản của ông T2 D2 để chia cho 07 người con, mỗi phần
đều bằng nhau.
Nguyễn Thị L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết:
Công nhận tài sản Căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng: 348m²:
nhà 02 tầng (Gồm 01 tầng trệt, 01 tầng lừng 01 tng lầu xây khoảng năm 1988,
Nhà kết cấu: Móng cột khung dầm, mái tông cốt thép, tường xây gạch sơn
nước nền lát gạch Ceramic và quyền sử dụng đất số DG 692592 cấp ngày 07/9/2022
đứng tên ông Nguyễn Khắc T và và bà Thành Kim N thuộc thửa đất số 69, tbản đồ
số 20, diện tích 139,2m². Nhà và đất tọa lạc tại 107 L, thành phố B di sản của ông
Nguyễn Khắc T2Nguyễn Thị D2 để lại. Đồng thời phân chia di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất tài sn trên đất nêu trên cho 07 người thừa kế theo pháp luật
là: Bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D,
Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, bà Nguyễn Thị Y, mi người được hưởng
01 phần tài sản giá trị bằng nhau.
2. Quá trình tham gia tố tụng bị đơn ông Nguyễn Khắc T trình bày:
Ông Nguyễn Khắc T2, sinh năm 1914 (đã mất năm 2000) Nguyễn Thị
D2, sinh năm 1925 (đã mất năm 2023) có 07 người con gồm: Bà Nguyễn Thị L, sinh
năm 1954; ông Nguyễn Khắc T, sinh năm 1956; ông Nguyễn Khắc T1, sinh năm
1949; Nguyễn Thị D sinh năm: 1958; Nguyễn Thị H1, sinh năm 1963; ông
Nguyễn Khắc D1, sinh năm 1966, bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1968.
Năm 1990 vợ chồng ông T, bà N có nhận chuyển nhượng căn nhà tại địa chỉ A
L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk của ông Lê Xuân P và bà Phạm Thị N1 (đều đã chết)
có xác nhận quyền sở hữu nhà của Sở X ngày 12/10/1990. Lê Xuân P là chủ nhà có
viết giấy cam kết mua bán nhà đồng thời m giấy biên nhận số tiền đặt cọc, trong
giấy này có chữ của ông Xuân P (là người nhận tiền) và của ông Nguyễn Khắc
T (người giao tiền). Ngoài ra còn có chữ ký của người làm chứng là bà Đinh Thị Q;
Địa chỉ: Số nhà 123 Y, tổ dân phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Từ m 1990 gia đình ông sinh sống, làm ăn độc lập tại căn nhà này không liên
quan đến cá nhân nào khác. Vào tháng 7 năm 2023 Nguyễn Thị L cùng các ông
Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, bà
Nguyễn Thị Y đã câu kết với nhau làm một tờ giấy A4 có chữ của những người
nay điểm chỉ của mẹ Nguyễn Thị D2. Ông T tưởng giấy này cam
kết lô đất khác ở xã H, thành phố B chứ không phải ký giấy cam kết căn nhà tại địa
chỉ 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là của mẹ ông T là bà Nguyễn Thị D2. Những
chứng cứ xác nhận căn ntại địa chỉ 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuộc quyền
sở hữu của gia đình vợ chồng ông đã được Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp,
ông đã cung cấp cho tòa án. Đến nay, bà L cùng những người có quyền và nghĩa vụ
liên quan tn không hđưa ra được những chứng cứ để chứng minh căn nhà trên do
ông Nguyễn Khắc T3 Nguyễn Văn D5 mua nên đã to ra những chưng cứ giả,
không đúng sự thật. Ông T không đồng ý với những lời khai này yêu cầu khởi
5
kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị L Công nhận Căn nhà xây cấp 3, tổng diện
tích sàn xây dựng khoảng: 348m²: nhà 02 tầng(Gồm 01 tầng trệt, 01 tầng lửng và 01
tầng lầu xây khoảng m 1988, Nhà kết cấu: Móng cột khung dầm, mái là tông
cốt thép, tường xây gạch sơn nước nền lát gạch Ceramic quyền sử dụng đất số DG
692592 cấp ngày 07/9/2022 đứng tên ông Nguyễn Khắc T và bà Thành Kim N thuộc
thửa đất số 69, tbản đồ s20, din tích 139,2m². Nhà đất tọa lạc tại 107 L, thành
phố B là của ông Nguyễn Khắc T2- sinh năm 1914(đã mất 2000) và bà Nguyễn Thị
D2; sinh năm: 1925(đã mất năm 2023) để lại. Đồng thời phân chia di sản thừa kế là
Căn nhà xây cấp 3 trên cho 07 người thừa kế theo pháp luật là: Nguyễn Thị L,
ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1,
ông Nguyễn Khắc D1, Nguyễn Thị Y, mỗi người được hưởng 01 phần tài sản giá
trị bằng nhau.
Ngày 11/11/2024, ông Nguyễn Khắc T yêu cầu phản tố vi nội dung: Đề
nghị Tòa án tuyên hủy giấy xác nhận nhà ngày 16/9/2012.
3. Quá trình tham gia tố tụng người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Thành Kim N trình bày:
Bà là vợ của bị đơn ông Nguyễn Khắc T, nhà đất ti số 107 L, phường T, thành
phố B, tỉnh Đăk Lăk (trước kia là số 87B L, phường T, thị xã B) thuộc quyền sở hữu,
sử dụng hợp pháp của vợ chồng bà, đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ
cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số DG 692592, ngày 07/09/2022 đứng tên vợ chồng ông bà là Nguyễn Khắc
T Thành Kim N. Nguồn gốc nhà đất trên do vợ chồng ông mua từ năm 1990
từ vợ chồng ông Xuân P Phạm Thị N1, được Sở X chứng nhận ngày
12/10/1990. Nhà đất vợ chồng ông bà mua bán hoàn toàn hợp pháp và được quan
nhà nước chứng nhận. Hiện nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L căn cứ vào Giấy xác
nhận nhà ngày 16/09/2012 có nội dung xác nhận n nhà tại số A L của cụ Nguyễn
Thị D2 để yêu cầu công nhận căn nhà tại A L là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Khắc
T2 cụ Nguyễn Thị D2 để lại yêu cầu phân chia di sản thừa kế hoàn toàn
không sở, trái pháp luật. Giấy xác nhận nhà ngày 16/09/2012 không phải do cụ
Nguyễn Thị D2 viết, có nội dung hoàn toàn lừa dối, không có thật, không có giá trị
để xác nhận căn nhà tại số 107 L là của cụ Nguyễn Thị D2, do vậy trái pháp luật.
Ngày 11/11/2024, bà N yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án giải quyết: Tuyên
hủy Giấy xác nhận nhà đề ngày 16/09/2012 nội dung xác nhận căn nhà 107 L,
phường T là của cụ Nguyễn Thị D2.
4. Quá trình tham gia tố tụng những người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan gồm ông Nguyễn Khắc T1; Nguyễn Thị D; Nguyễn Thị H1; ông
Nguyễn Khắc D1; Nguyễn Thị Y và người đại diện theo ủy quyền bà Mai Thị
Ngọc A, cùng trình bày:
Ông T1, D, H1, ông D1 Y đều thống nhất với ý kiến trình bày
yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị L về việc yêu cầu Tòa án: Công nhận tài sản
Căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng: 348m²: nhà 02 tầng (Gồm
01 tầng trệt, 01 tầng lừng và 01 tầng lầu xây khong năm 1988, N2 kết cấu: Móng
cột khung dầm, mái bê tông cốt thép, tường xây gạch sơn nước nền lát gạch
Ceramic quyền sử dụng đất số DG 692592 cấp ngày 07/9/2022 đứng tên ông
Nguyễn Khắc T Thành Kim N thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 20, diện
6
tích 139,2m². Nhà và đất tọa lạc tại 107 L, thành phố B di sản của ông Nguyễn
Khắc T2 Nguyễn Thị D2 để lại. Đồng thời phân chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất tài sản trên đất nêu trên cho 07 người thừa kế theo pháp luật là:
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D,
Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, Nguyễn Thị Y, mỗi người được hưởng 01
phần tài sản giá trị bằng nhau.
Không thống nhất với yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Khắc T và yêu cầu độc
lập của bà Thành Kim N về việc tuyên hủy Giấy xác nhận nhà đề ngày 16/09/2012.
Tại bản án Dân sự thẩm số 40/2025/DS-ST ngày 11/4/2025 của Toà án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L về việc:
- Công nhận căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng: 348m²:
nhà xây 02 tầng (Gồm: 01 tầng trệt, 01 tầng lửng 01 tầng lầu xây khoảng năm
1988, Nhà kết cấu: Móng cột khung dầm, mái là tông cốt thép, tường xây gạch,
sơn nước nền lát gạch Ceramic thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 20, diện tích
139,2m² đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 692592 ngày
07/9/2022 nhà đất tọa lạc tại 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk của ông Nguyễn
Khắc T2 - sinh năm 1914 (đã mất 2000) và Nguyễn Thị D2; sinh năm: 1925 (đã
mất năm 2023) để lại.
- Chia di sản thừa kế căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng:
348m²; nhà xây 02 tầng (Gồm: 01 tầng trệt, 01 tng lửng và 01 tầng lầu xây khoảng
năm 1988, Nhà có kết cấu: Móng cột khung dầm, mái là bê tông cốt thép, tường xây
gạch, sơn nước nền lát gạch Ceramic quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 69, tờ
bản đồ số 20, diện tích 139,2m² nđất tọa lạc tại 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Giá trị nhà và đất có giá là: 14.147.609.413 đồng.
Xác định hàng thừa kế thứ nhất gồm có 07 người: Bà Nguyễn Thị L; sinh năm:
1954, ông Nguyễn Khắc T- sinh năm: 1956, ông Nguyễn Khắc T1, sinh năm: 1949,
Nguyễn Thị D, sinh năm: 1958, bà Nguyễn Thị H1; sinh năm: 1963, ông Nguyễn
Khắc D1; sinh năm: 1966, bà Nguyễn Thị Y; sinh năm 1968.
- Chia cho ông Nguyễn Khắc T 02 phần; Giá là: 3.536.902.354 đồng.
- Chia Nguyễn Thị L; sinh năm: 1954, ông Nguyễn Khắc T1; sinh năm: 1949,
Nguyn Thị D, sinh năm: 1958, bà Nguyễn Thị H1; sinh năm: 1963, ông Nguyễn
Khắc D1; sinh năm: 1966, bà Nguyễn Thị Y; sinh năm 1968: mỗi người 01
phần:1.768.451.177 đồng.
Giao căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng: 348m²: nhà 02
tầng(Gồm: 01 tầng trệt, 01 tầng lửng và 01 tầng lầu xây khoảng năm 1988, Nhà
kết cấu: Móng cột khung dầm, mái là tông cốt thép, tường xây gạch, sơn nước,
nền lát gạch Ceramic và thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 20, diện tích 139,2m² đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 692592 ngày 07/9/2022 nhà,
đất tọa lạc ti 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho ông Nguyễn Khắc T sở hữu,
quản lý, sử dụng.
Nhà đất tứ cận: Phía Đông giáp đường L, Phía Tây giáp đường luồng cạnh
số nhà E P, Phái Nam giáp các thửa số 68 và nhà bà Vũ Thụ Phúc T4; Phía Bắc giáp
thửa số 64 và đất nhà ông T5. Nhà và đất tọa lạc tại 107 L, TP B, tỉnh Đắk Lắk.
7
Ông Nguyễn Khắc T được quyền liên hệ với cơ quan thẩm quyền để làm thủ
tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
- Ông Nguyễn Khắc T trách nhiệm bù gtrị di sản thừa kế cho Nguyễn
Thị L; sinh năm: 1954, ông Nguyễn Khắc T1; sinh năm: 1949, Nguyễn Thị D;
sinh năm: 1958, Nguyễn Thị H1; sinh năm: 1963, ông Nguyễn Khắc D1; sinh
năm: 1966, Nguyễn Thị Y; sinh năm 1968 mỗi người số tiền: 1.768.451.177 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Khắc T yêu cầu
độc lập người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Thành Kim N về việc Hủy giấy
xác nhận nhà ngày 16/9/2012.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng
cáo theo quy định.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 21/4/2025 nguyên đơn Nguyễn Thị L kháng
cáo một phần Bản án thẩm số: 40/2025/DS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2025 của Toà
án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đề nghị cấp phúc sửa bán án thẩm theo
hướng tiến hành định giá lại tài sn và phân chia lại di sản thừa kế theo quy định đối
với nhà đất tại số 107 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuộc thửa đất số 69,
tờ bản đồ số 220, diện tích 139,2 m
2
đất ở tại đô thị, chia đều cho 07 người thừa kế
gồm: Bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1, bà Nguyễn Thị
D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1 Nguyễn Thị Y mỗi người được
hưởng một phần tài sản giá trị bằng nhau.
Ngày 22/4/2025, bị đơn ông Nguyễn Khắc T kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự
sơ thẩm số: 40/2025/DS-ST ngày 11 tháng 14 năm 2025 của Toà án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng bác
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và hủy bản án để xét xử lại theo đúng quy định của
pháp luật.
Ngày 22/4/2025, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Thành Kim N
kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2025/DS-ST ngày 11 tháng 4 năm
2025 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đnghị cấp
phúc thẩm xét xử lại theo hướng không chấp nhận nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L hủy bản án đxét xử lại theo quy định của pháp
luật.
Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, ngày 25/6/2025 bị đơn ông Nguyễn
Khắc T người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thành Kim N có đơn thay đổi
nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn Nguyễn Thị L giữ nguyên đơn khởi kiện nội dung kháng cáo; Bị
đơn ông Nguyễn Khắc T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Thành Kim N
giữ nguyên các nội dung kháng cáo.
Quan điểm của Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Đk Lắk:
8
Về tố tụng: Trong quá trình Tòa án thụ giải quyết tại cấp phúc thẩm, Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và đương sự đã cơ bản chấp hành đúng các
quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk đề nghị Hội đồng xét xử tạm
ngưng phiên tòa để tiến hành định glại tài sản theo yêu cầu của nguyên đơn để đảm
bảo quyền li cho các đương sự đưa thêm người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan vào tham gia tố tụng là người đang thuê lại nhà tại số 107 L, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk theo lời khai của ông Nguyễn Khắc T. Do đề nghị tạm ngưng
phiên tòa nên đại din VKSND tỉnh Đắk Lắk không phát biểu về nội dung gii quyết
vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét, giải quyết theo trình
tự phúc thẩm.
Trước khi mở phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn có đơn đề nghị hoãn phiên tòa, tuy nhiên vì phiên tòa mở lại lần thứ 2 và lý do
đề nghị hoãn phiên tòa không căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận
đơn đề nghị hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với yêu cầu hoãn phiên tòa của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và
nguyên đơn, cũng như người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H1
tại phiên tòa, thấy rằng phiên tòa mở lại lần thứ 2, các đương sự đã được tống đạt
văn bản hợp lthông qua người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa các đương sự đều mặt tại phiên tòa,
nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn và đề nghị hoãn phiên tòa theo quy định
tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
L, thấy rằng:
[2.1] Về nguồn gốc tài sản là quyền sử dụng đất tài sản gắn liên tn đất thuộc
thửa đất số 69, tờ bản đồ s20, diện tích 139,2m² nhà đất tọa lạc tại 107 L, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk, thì thấy:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L, cũng như bị đơn ông Nguyễn Khắc T và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận nhà đất nêu trên có nguồn gốc
nhận chuyển nhượng tông Xuân P Phạm Thị N1 (đều đã chết) vợ chồng
cụ Nguyễn Khắc T2 và cụ Nguyễn Thị D2 (đều đã chết) chỉ 07 người con ruột
như danh sách đã nêu trên. Ngoài ra không có con nuôi và con riêng nào khác.
Xét ý kiến của nguyên đơn cho rằng việc nhận chuyển nhượng thực chất là do
do bố mẹ ông Nguyễn Khắc T2 và Nguyễn Thị D2 dùng vàng của mình để nhận
chuyển nhượng từ năm 1988 với số vàng 22,5 chỉ, nhưng do tin tưởng con nên để
ông Nguyễn Khắc T đứng ra nhận chuyển nhượng, làm thủ tục giấy tờ. Tuy nhiên,
nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ông T2, bà D2
người nhận chuyển nhượng vào năm 1988 của vợ chồng ông Xuân P bà
9
Phạm Thị N1. Căn cứ các tài liệu chứng cứ gồm: Giấy cam kết mua bán nhà, đề ngày
13/7/1990 (BL 279-280) đơn xin mua bán nhà lập ngày 9/7/1990 (BL 121-122)
thì căn cứ xác định người nhận chuyển nhượng nhà đt tại 87B đường L (nay
107 L), thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (BL số 162) là bị đơn ông Nguyễn Khắc T và bà
Thành Kim N. Sau khi nhận chuyển nhượng thì ngày 20/5/1994 ông Nguyễn Khắc
T T6 kim N được Sở xây dựng Ủy ban nhân dân tỉnh Đ cấp giấy phép xây dựng
nhà tại địa chỉ số 87B đường L (BL 166), đến ngày 21/03/2007 thì ông Nguyễn
Khắc T được UBND thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đt số AH
910772 đều mang tên hộ ông Nguyễn Khắc T tại thửa đất số 69, tờ bn đồ số 220,
diện tích 139,2 m
2
, địa chỉ: 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (BL số 162). Gia đình
Ông Nguyễn khắc T đã sử dụng đất và tài sản gn liền trên đất liên tục, công khai và
ổn định trên 30 năm không ai tranh chấp. Việc quan thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận QSDĐ giấy phép xây dựng sửa chữa nhà cho hộ Ông Nguyễn Khắc
T và Thành Kim N thì ông Nguyễn Khắc T2Nguyễn Thị D2 và các người
quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ việc đều biết nhưng không có ý kiến hay phản
đối gì.
Căn cứ Án lệ s03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao tng qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-
CA06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Thì thấy, ông T và
bà N là người trực tiếp thực hiện việc nhận chuyển nhượng đất từ ông P và bà N1 từ
năm 1990. Ông T, bà N là người tiến hành kê khai, sửa chữa nhà, sử dụng đất và đến
ngày 21/03/2007 thì được UBND thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AH 910772 mang tên hộ ông Nguyễn Khắc T tại thửa đất số 69, tờ bản đồ số
220, diện tích 139,2 m
2
, địa chỉ: 107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nhưng Nguyễn
Khắc T2, bà Nguyễn Thị D2 các người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ
việc đều biết nhưng không ý kiến phản đối gì. Hiện tại ông Nguyễn Khắc T,
Thành Kim N người đứng tên, quản sử dụng quyền sử dụng đất nêu trên (Nội
dung này có tính tương đồng với nội dung của Án lệ nói trên). Ngoài ra, căn cứ Điều
236 Bộ luật dân sự năm 2015 thì ông T, N là người nhận chuyển nhượng đt
đã sử dụng ổn định từ năm 1990 trên 30 năm đối với bất động sản nên quyền chiếm
hữu tài sản của vợ chồng ông T, bà N được pháp luật công nhận.
[2.2] Đối với Giấy xác nhận nđề ngày 16/9/2012, Hội đồng xét xphúc thẩm
thấy rằng, ông Nguyễn Khắc T thừa nhận chký, chữ viết tại mặt thứ 4 của giấy c
nhận, tuy nhiên không thừa nhận các nội dung tại các mặt thứ 1,2,3. Xét mặt thứ 4
của trang giấy chữ ký của ông Nguyễn Khắc T, tuy nhiên mặt giấy thứ 4 này hoàn
toàn tách bạch những mặt giấy trước, tại các mặt giấy 1,2,3 chứa đựng nội dung xác
nhận căn nhà số 107 L của D2 thì không chữ xác nhận của từng thành
viên trong gia đình trong mỗi mặt giấy, mặt khác Giấy xác nhận thỏa thuận này không
được công chng, chứng thực nội dung nên không thcoi nguồn chứng cứ xác
định nội dung thỏa thuận trong giấy xác nhận nhà này căn cứ pháp lý. Ngoài ra,
tại thời điểm xác lập giấy vào ngày 16/9/2012 thì căn nhà tại số 107 L được cơ quan
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đứng tên hộ ông Nguyễn Khắc T, do đó bản thân
ông T không quyền tự định đoạt tài sản nhà đất tại 107 L, việc ông T xác
nhận nêu trên khi chưa ý kiến đồng ý hay thỏa thuận khác của đồng sở hữu (bà
Thành Kim N các thành viên trong hộ gia đình) là vi phạm về quyền chiếm hữu,
sử dụng định đoạt về tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 27, 28
10
Luật hôn nhân gia đình năm 2000 và Điều 217, 219, 222, 223 của Bộ luật dân sự năm
2005.
[3]. Từ những phân tích, nhận định tại các mục [2.1], [2.2], cũng như Án lệ số
03/2016 nêu trên, có đủ căn cứ để khẳng định quyền sử dụng đt và tài sản gắn liền
trên đẩt thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 20, diện tích 139,2m² nhà đất tọa lạc tại
107 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn Khắc
T và bà Thành Kim N.
Do đó, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị L về việc công
nhận tài sản là Căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng khoảng: 348m²: nhà
02 tầng (Gồm 01 tầng trệt, 01 tầng lừng 01 tầng lầu xây khoảng năm 1988, nhà
có kết cấu: Móng cột khung dầm, mái là bê tông cốt thép, tường xây gạch sơn nước
nền lát gạch Ceramic và quyền sử dụng đất số DG 692592 cấp ngày 07/9/2022 đứng
tên ông Nguyễn Khắc T và Thành Kim N thuộc thửa đất số 69, tờ bn đồ số
20, diện tích 139,2m². Nhà và đất tọa lạc tại 107 L, thành phố B di sản của ông
Nguyễn Khắc T2 Nguyễn Thị D2 để lại. Đồng thời yêu cầu phân chia di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất tài sn trên đất nêu trên cho 07 người thừa kế theo
pháp luật gồm: Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1,
Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, Nguyễn Thị Y, mỗi
người được hưởng 01 phần tài sản giá trị bằng nhau không căn cứ để chấp nhận.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Giấy xác nhận đề ngày 16/9/2012 chữ
ký của ông Nguyễn Khắc T, cũng như việc ông Nguyễn Khắc T và bà Thành Kim N
thừa nhận ông T, bà N có ký giấy cam kết ngày 10/10/2008 giữa ông Nguyễn Khắc
T, bà Thành Kim N và ông Nguyễn Khắc T1 đối với nội dung cam kết: “Căn nhà và
đất tại A N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuộc quyền quản lý của ông Nguyễn Khắc
T1 và căn nhà đất tại A L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là đồng sở hữu của
ông Nguyễn Khắc T1 ông Nguyễn Khắc T ông Nguyễn Khắc T Thành
Kim N đã giao 02 bản gốc Giấy chứng nhn quyền sử dụng đất trên cho ông Nguyễn
Khắc T1 cầm giữ” việc Nguyễn Thị L người nắm giữ Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để từ đó xác định căn nhà và đất tọa lạc tại 107 L, thành phố B là di sản
của ông Nguyễn Khắc T2 Nguyễn Thị D2 để lại tiến hành chia thừa kế
không đảm bảo quy định của pháp luật.
[4] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị L không được chấp
nhận nđã phân tích nhận định trên, nên xét kháng cáo của nguyên đơn và đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk về việc tạm ngưng phiên tòa để tiến hành định
giá lại tài sản là không cần thiết. Cũng như, xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
đề nghị phân chia lại di sản thừa kế theo quy định đối với nhà đất tại số 107 L, phường
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 220, diện tích 139,2
m
2
đất tại đô thị, chia đều cho 07 người thừa kế gồm: Nguyễn Thị L, ông Nguyễn
Khắc T, ông Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn
Khắc D1 và bà Nguyễn Thị Y mỗi người được hưởng một phần tài sản giá trị bng
nhau là không có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.
[5] Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Khắc T và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan Thành Kim N căn cứ cần chấp nhận. Do đó, cần sửa toàn bộ
Bản án dân sự sơ thẩm 40/2025/DS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân
dân thành phố Buôn Ma, tỉnh Đắk Lắk theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
11
khởi của nguyên đơn Nguyễn Thị L, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông
Nguyễn Khắc T và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà
Thành Kim N.
[6]. Về chi phí tố tụng:
[6.1]. Về chi phí tng cầu giám định chữ ký, chviết: Bị đơn ông Nguyễn Khắc
T phải chịu 6.000.000 đồng tiền chi phí trưng cầu giám định chký, chữ viết.
Nguyễn Thị L được nhận lại số tiền 6.000.000 đồng này sau khi thu được tông
Nguyễn Khắc T.
[6.2] Về chi phí xem xét thẩm định định giá tài sản: Do yêu cầu khởi kiện
không được chấp nhận toàn bộ nên nguyên đơn bà Nguyễn Thị L phải chịu toàn bộ
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 3.000.000 đồng. L đã nộp
và chi phí xong tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[7]. Về án phí dân sự thẩm và án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án thẩm
nên án phí hình sự sơ thẩm và phúc thẩm được xác định lại như sau:
Nguyên đơn Nguyễn Thị L người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên
miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
Bị đơn ông Nguyễn Khắc T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thành
Kim N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả
cho Thành Kim N số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai số 0012427 ngày
22/11/2024 và 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai số 0001382 ngày 05/5/2025 tại Chi
cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột (nay Phòng thi hành án Khu vực
1).
Những người quyền lợi nghĩa vliên quan gồm ông Nguyễn Khắc T1,
Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, Nguyễn Thị Y không
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 Bộ luật ttụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Khắc T người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Thành Kim N; Sửa toàn bộ Bản án dân sự thẩm 40/2025/DS-
ST ngày 11 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Đắk Lắk).
[2]. Áp dụng Điều 217,219,222, 223 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều
221,223,236 Bộ luật Dân snăm 2015; Điều 27, 28 Luật hôn nhân gia đình năm
2000; Điều 167 Luật đất đai; Án lệ số 03/2016/AL được Hi đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016; Điều 12, Điều 26, Điều
29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH12 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án;
Tuyên xử:
[2.1]. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị L, về việc: Công nhận tài sản là Căn nhà xây cấp 3, tổng diện tích sàn xây dựng
khoảng: 348m²: N02 tầng (Gồm 01 tầng trệt, 01 tầng lừng 01 tầng lầu xây
12
khoảng năm 1988, Nhà kết cấu: Móng cột khung dầm, mái tông cốt thép,
tường xây gạch sơn nước nền lát gạch Ceramic và quyền sử dụng đất số DG 692592
cấp ngày 07/9/2022 đứng tên ông Nguyễn Khắc T và bà Thành Kim N thuộc thửa
đất số 69, tờ bản đồ số 20, diện tích 139,2m². Nhà và đt tọa lạc tại 107 L, thành ph
B di sản của ông Nguyễn Khắc T2 Nguyễn Thị D2 để li. Đồng thời phân
chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên trên đất nêu trên cho 07
người thừa kế theo pháp luật gồm: Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Khắc T, ông
Nguyễn Khắc T1, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Khắc D1, bà
Nguyễn Thị Y, mỗi người được hưởng 01 phần tài sản giá trị bằng nhau.
[2.2] Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Khắc T yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thành Kim N:
Tuyên giấy xác nhận ngày 16/09/2012 nội dung xác nhận căn nhà 107 L,
phường T là của cụ Nguyễn Thị D2 là vô hiệu (không có giá trị pháp lý).
[2.3] Về chi phí trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết: Bị đơn ông Nguyễn Khắc
T phải chịu 6.000.000 đồng tiền chi phí trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết.
Nguyễn Thị L được nhận lại số tiền 6.000.000 đồng này sau khi thu được tông
Nguyễn Khắc T.
[2.4] Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Nguyễn Thị L phải
chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 3.000.000 đồng.
L đã nộp chi phí xong tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 - Đắk Lắk).
[2.5]. Về án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm:
- Min toàn bộ án phí dân sthẩm và án phí dân sự phúc thẩm cho bà Nguyễn
Thị L.
- Ông Nguyễn Khắc T Thành Kim N không phải chịu án phí dân sự
thẩm án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho Thành Kim N số tiền 300.000
đồng đã nộp tại Biên lai số 0012427 ngày 22/11/2024 300.000 đồng đã nộp tại
Biên lai số 0001382 ngày 05/5/202 5tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn
Ma Thuột (nay là Phòng thi hành án Khu vực 1).
Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Tòa Phúc thẩm TAND
Tối cao tại Đà Nẵng;
- Viện KSND tỉnh Đắk Lắk; (đã ký)
- Phòng thi hành án Khu vực 1;
- Tòa án nhân dân Khu vực 1;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ. Nguyễn Văn Hồng
Tải về
Bản án số 281/2025/DS-PT Bản án số 281/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 281/2025/DS-PT Bản án số 281/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất