Bản án số 335/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 335/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 335/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 335/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 335/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 335/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bác toàn bộ đơn kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 335/2025/DS-PT
Ngày: 31/7/2025
V/v: “Tranh chấp về di sản thừa kế,
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho
con hoặc xác định con cho cha, mẹ”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Lệ Trang
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Ký
Bà Đỗ Thị Nhung
- Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Phạm Thanh Tùng – Thư ký
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Đình Thắng - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 264/2024/TLPT-DS ngày 30/10/2024 về
việc:“Tranh chấp về di sản thừa kế, Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc
xác định con cho cha, mẹ”
Do bản án dân sự sơ thẩm số 57/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Vĩnh Cửu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 274/2024/QĐ-PT ngày
15/11/2024, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 777/2024/QĐ-PT ngày
10/12/2024, Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 52/2024/QĐ-PT ngày
31/12/2024, Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 365/2025/QĐPT-DS ngày
07/5/2025, Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 372/2025/TB-TA ngày
07/5/2025, Thông báo dời lịch xét xử phúc thẩm số 497/2025/TB-TA ngày
29/5/2025, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 456/2025/QĐPT-DS ngày
05/6/2025, Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 437/2025/TB-TA ngày
04/7/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Cao Thị Kim O, sinh năm 1990 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương, nay là xã T, Thành phố Hồ
Chí Minh;
Người đại diện theo ủy quyền của bà O: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm
1998; Địa chỉ thường trú: Thôn B, xã H, huyện K, nay là xã K, tỉnh Đắk Lắk; Địa
chỉ liên hệ: Số C, TTH09, phường T, Quận A, nay là phường T, Thành phố Hồ Chí
Minh (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Cao Minh N, sinh năm 1972 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ E, ấp B, xã H, huyện V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai.
2.2. Ông Cao Minh T1, sinh năm 1973 (vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ E, ấp B, xã H, huyện V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của ông N, ông T1: Ông Vũ Ngọc Á, sinh
năm 1980; Địa chỉ: Số A, tổ A, khu phố H, phường P, thành phố B, nay là phường
P, tỉnh Đồng Nai (có mặt).
3. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Cao Thị P, sinh năm 1980
Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện H, nay là xã H, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Bà Cao Thị H, sinh năm 1981
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, nay là xã H, tỉnh Thanh Hóa.
3.3. Ông Cao Xuân T2, sinh năm 1982
Địa chỉ: Số nhà G, đường A, tổ I, phường H, thành phố P, nay là phường P,
tỉnh Gia Lai.
3.4. Bà Bùi Thị N1, sinh năm 1981
Địa chỉ: Tổ E, ấp B, xã H, huyện V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N1: Ông Vũ Ngọc Á, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số nhà A, tổ A, khu phố H, phường P, Thành phố B, nay là phường P, tỉnh
Đồng Nai (có mặt).
3.5. Bà Trần Thị N2, sinh năm 1947;
Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện H, nay là xã H, tỉnh Thanh Hóa.
3.6. Bà Lê Thị Q, sinh năm 1953 (đã chết)
Địa chỉ: thôn I, xã I, huyện Đ, nay là xã I, tỉnh Gia Lai.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Q:
- Ông Cao Xuân T2, sinh năm 1982 (vắng mặt)
Địa chỉ: Số nhà G, đường A, tổ I, phường H, thành phố P, nay là phường P,
tỉnh Gia Lai.
- Ông Lê Văn M, sinh năm 1976 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn I, xã I, huyện Đ, nay là xã I, tỉnh Gia Lai.
3.7. Bà Vũ Thị H1, sinh năm 1954
Địa chỉ: Tổ E, ấp B, xã H, huyện V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P, bà H, ông T2, bà N2, bà H1: Bà
Cao Thị Kim O, sinh năm 1990; Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương;
nay là xã T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
3.8. Bà Lê Thị T3, sinh năm 1942
Địa chỉ: Tổ E, ấp B, xã H, huyện V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T3: Ông Vũ Ngọc Á, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số nhà A, tổ A, H, P, thành phố B, nay là phường P, tỉnh Đồng Nai (có
mặt).
3.9. Ngân hàng N5 (vắng mặt)
Địa chỉ liên hệ: Ngân hàng N5 - Chi nhánh V, khu phố B, thị trấn V, huyện
V, nay là xã T, tỉnh Đồng Nai; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tấn L –
Phó Giám đốc Ngân hàng N5 – Chi nhánh V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử, cũng
như tại phiên tòa, phía nguyên đơn trình bày, tranh luận:
Ông Cao Minh Nguyên S năm 1941, mất ngày 21/09/2017 theo Trích lục
khai tử số 154/TLKT-BS ngày 26 tháng 9 năm 2017 của UBND xã H, huyện V,
tỉnh Đồng Nai. Ông Cao Minh N3 có tất cả sáu người con gồm: bà Cao Thị Kim O,
bà Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2, ông Cao Minh N và ông Cao Minh
T1. Quá trình chung sống của ông Cao Minh N3 từ lúc bắt đầu lập gia đình đến khi
mất như sau:
- Từ năm 1972 đến năm 1978: Ông Cao Minh N3 sống chung với bà Lê Thị
Tất . Trong thời gian chung sống giữa ông và bà có hai người con chung là Ông
Cao Minh N và ông Cao Minh T1.
- Từ năm 1979 đến năm 1981: Ông Cao Minh N3 sống chung với bà Trần
Thị N2, có đăng ký kết hôn cho đến nay tại huyện H, tỉnh Thanh Hóa (hiện tại đã
bị thất lạc). Trong thời gian chung sống giữa ông và bà N2 có hai người con chung
là bà Cao Thị P và bà Cao Thị H.
- Từ năm 1982 đến năm 1983: Ông Cao Minh N3 sống chung với bà Lê Thị
Quy .1 Trong thời gian chung sống giữa ông và bà có một người con chung là ông
Cao Xuân T2.
Từ năm 1985 đến năm 2000: Ông Cao Minh N3 sống chung với bà Vũ Thị
H1. Trong thời gian chung sống giữa ông bà có một người con chung là bà Cao Thị
Kim O.
Khi mất, ông Cao Minh N3 để lại di sản gồm: Diện tích đất 13.586m
2
thuộc
thửa đất số 09, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai và số tiền
gửi tiết kiệm 1.500.000.000đ (Một tỷ năm trăm triệu đồng) tại Ngân hàng N5 - Chi
nhánh V.
Nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết: Chia di sản thừa kế của ông N3 để
lại theo quy định pháp luật gồm thửa đất số 9, tờ bản đồ số 21, xã H; thửa đất số
28, 29, tờ bản đồ số 21 (cũ), nay thuộc thửa số 153, tờ bản đồ số 17, xã H và số
tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N5 – Chi nhánh V.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà O tự nguyện rút yêu cầu chia thửa đất số
9, tờ bản đồ số 21 và thửa đất số 153, tờ bản đồ số 17, cùng địa chỉ: xã H, huyện V.
Chỉ yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế là số tiền 1.500.000.000đ và tiền lãi theo
quy định là chia đều làm 06 phần cho 06 người con của ông N3 gồm: bà Cao Thị
Kim O, bà Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2, ông Cao Minh N và ông
Cao Minh T1.
* Quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Cao Minh N, ông Cao Minh T1 và là người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T3, bà Bùi Thị N1 là ông Vũ Ngọc Á
trình bày:
Cha của ông N và ông T1 là ông Cao Minh N3, sinh năm 1941 (đã chết ngày
21/09/2017 theo Giấy chứng tử số: 154/TLKT-BS ngày 26/9/2017 của UBND xã
H, huyện V, tỉnh Đồng Nai). Mẹ của ông N và ông T1 là bà Lê Thị T3, hiện đang
sinh sống tại: tổ E, ấp B, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Ông Cao Minh N3 và bà Lê Thị Tất kết H2 với nhau ngày 26/09/1969. Việc
kết hôn diễn ra trong thời gian cha mẹ ông N, ông T1 nhập ngũ tham gia kháng
chiến chống Mỹ cứu nước tại Đ, Ban xây dựng 67, đóng quân tại tỉnh Quảng Bình.
Sau khi kết hôn, ông N3 và bà T3 tiếp tục tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và đến tháng 10/1970, ông N3 và bà T3 được đơn vị cho giải ngũ về địa
phương tại xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa sinh sống. Do kinh tế, gia đình khó
khăn nên vào năm 1979-1980, để phát triển kinh tế nên ông N3 và bà T3 đã chuyển
toàn bộ gia đình vào làm ăn và sinh sống tại ấp B, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai
và từ đó đến nay gia đình ông N, ông T1 sống chung ở đây.
Sau khi kết hôn, ông N3 và bà Tất S1 được 02 người con là ông N và ông
T1. Ngoài ông N, ông T1 thì ông N3 và bà T3 không còn bất kỳ người con chung,
cũng như con riêng nào khác. Điều này đã được cha ông N, ông T1 là ông Cao
Minh N3 xác nhận bằng văn bản, và để đảm bảo giá trị pháp lý cũng như xác nhận
ý chí của mình, ông Cao Minh N3 đã yêu cầu UBND xã H xác nhận văn bản này
cho mình vào ngày 12/12/2012.
Nay qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý, bị đơn
có đơn phản tố yêu cầu Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xác định
bà Cao Thị Kim O không phải là con của ông Cao Minh N3.
Căn cứ pháp lý cho yêu cầu: Theo quy định của Khoản 2 Điều 89 Luật hôn
nhân gia đình số: 52/2014/QH13 quy định về việc xác định con “Người được nhận
là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là
con mình”. Hiện nay bà Cao Thị Kim O xác định ông N3 là bố bà O là không có
căn cứ, vì ngày 12/12/2012, ông Cao Minh N3 đã có giấy xác nhận là ngoài ông N,
ông T1 thì bố mẹ ông N, ông T1 không có bất kỳ người con nào khác, kể cả con
nuôi, con ngoài giá thú. Giấy xác nhận này đã được UBND xã H, huyện V xác
nhận ngày 13/12/2012.
Theo quy định tại Điều 88 Luật hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13 quy
định về việc xác định cha, mẹ quy định: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc
do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được
sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là
con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”. Tuy nhiên, bố của ông N, ông T1
là ông Cao Minh N3 và mẹ của bà Cao Thị Kim O không có bất kỳ quan hệ hôn
nhân nào. Ngoài việc không có quan hệ hôn nhân thì đến thời điểm này bà O cũng
không có bất kỳ chứng cứ nào chứng minh mối quan hệ cha con với ông Cao Minh
N3 theo quy định tại Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng
11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hộ tịch: “Chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại
khoản 1 Điều 25 và khoản 1 Điều 44 của Luật hộ tịch gồm một trong các giấy tờ,
tài liệu sau đây: 1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan
khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con,
quan hệ mẹ con. 2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này
thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối
quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em
là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm
chứng”. Ngoài ra, mẹ bà O là bà Vũ Thị H1 đã có chồng, vì ngoài bà O thì bà H1
còn có 01 người con sinh năm 1980 tên Nguyễn Thị H3. Theo quy định tại Điều 92
Luật Hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13 quy định về việc xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp người có yêu cầu chết: “Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác
định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có
quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết”. Hiện nay
bố của ông N, ông T1 là ông Cao Minh N3 đã chết, do đó ông N, ông T1 là con sẽ
thực hiện yêu cầu này thay cho bố ông N, ông T1.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Hôn nhân gia đình số
52/2014/QH13 quy định về Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con: “2.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có
tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường
hợp quy định tại Điều 92 của Luật này”.
Theo quy định tại khoản 10 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự số
92/2015/QH13 quy định những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án: “Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ”.
Do vậy, ông N và ông T1 yêu cầu Toà án xác định bà Cao Thị Kim O không
phải là con của ông Cao Minh N3.
* Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê
Thị T3 trình bày:
Tháng 2/1968, bà nhập ngũ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thuộc
Đoàn 559 Ban xây dựng 67, đóng quân tại tỉnh Quảng Bình. Trong thời gian công
tác trong đơn vị, bà có quen ông Cao Minh N3. Sau một thời gian tìm hiểu và yêu
nhau, ông bà xin phép đơn vị và hai bên gia đình làm lễ kết hôn với nhau. Do trong
thời chiến nên việc kết hôn chỉ do đơn vị đứng ra tổ chức và làm nhà hạnh phúc
cho vợ chồng bà, việc kết hôn diễn ra vào ngày 26/09/1969. Tháng 10/1970, vợ
chồng bà được đơn vị cho giải ngũ về địa phương tại xã H, huyện H, tỉnh Thanh
Hóa sinh sống.
Trong thời gian sống chung, vợ chồng bà sinh được hai người con là Cao
Minh T1, sinh năm 1977 và Cao Minh N, sinh năm 1975. Do kinh tế gia đình khó
khăn nên từ năm 1979 đến năm 1980, vợ chồng bà đã chuyển toàn bộ gia đình vào
làm ăn và sinh sống tại ấp B, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai và từ đó đến nay gia
đình bà sống chung ở đây.
Trong thời gian sống chung, bà và ông Cao Minh N3 tạo lập được khối tài
sản gồm: Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 09, tờ bản đồ 21, xã H, huyện V, tỉnh
Đồng Nai, diện tích khoảng 13.586m
2
. Diện tích đất này trước đây khoảng
18.986m
2
, nhưng vào tháng 6/2017, vợ chồng bà đã chuyển nhượng 5.400m
2
cho
người khác với giá chuyển nhượng là 2.600.000.000đ, nên nay chỉ còn lại
13.586m
2
. Sau khi cho ông T1 và ông N tiền để làm ăn, vợ chồng bà còn gửi lại
tiền mặt khoảng 1.500.000.000đ tại Ngân hàng N5 – Chi nhánh V. Do nhu cầu sửa
sang nhà cửa, vợ chồng bà đã thế chấp khoản tiết kiệm này để đảm bảo cho khoản
vay 200.000.000đ tại Ngân hàng này. Hiện nay số tiền 1.500.000.000đ vẫn đang
gửi tại đây.
Ngoài ra, ông bà còn có tài sản chung là quyền sử dụng đất thuộc thửa số
153, tờ bản đồ 17, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai, diện tích khoảng 17.000m
2
.
Các quyền sử dụng đất trên đã được vợ chồng bà kê khai đăng ký quyền sử
dụng đất từ năm 2007, nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hiện nay các biên nhận đăng ký quyền sử dụng đất đã bị thất lạc. Nguồn gốc diện
tích đất này trước đây do gia đình bà khai phá và nhận khoán đất chưa có rừng để
gây trồng rừng sản xuất của Lâm Trường H. Nhưng do tuổi cao sức yếu, nên
khoảng từ những năm 1997 thì vợ chồng bà đã giao lại cho ông T1 và ông N cùng
vợ canh tác. Trên các thửa đất này hiện nay đã trồng cây điều và các cây khác.
Toàn bộ các cây trồng này do ông T1 và ông N trồng và chăm sóc. Ngoài cây
trồng, hiện trên thửa đất số 09, tờ bản đồ 21 có xây dựng căn nhà cấp 4, trước đây
là nhà lá đơn sơ, nhưng sau này ông T1 và ông N đã bỏ tiền ra xây dựng lại và bà
cùng gia đình ông T1, ông N đang sống chung tại đây.
Ông Cao Minh N3 chết vào tháng 9/2017 và không để lại di chúc, bà Cao
Thị Kim O cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khởi kiện các con
của bà là ông Cao Minh T1 và ông Cao Minh N để yêu cầu chia các tài sản thừa kế
gồm: số tiền mặt 1.500.000.000đ đang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N5 – Chi Nhánh
V; Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 09, tờ bản đồ 21, xã H, huyện V, tỉnh Đồng
Nai, diện tích khoảng 13.586m
2
; Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 153, tờ bản đồ
17, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai, diện tích khoảng 17.000m
2
. Bà không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị Kim O cùng những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, vì toàn bộ các tài sản trên là tài sản riêng của vợ chồng bà tạo
lập trong thời gian sống chung, chứ không phải tài sản của ông Cao Minh T1 và
ông Cao Minh N.
Đối với số tiền mặt 1.500.000.000đ đang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N5 –
Chi nhánh V, đây là tiền do vợ chồng bà bán đất mà có.
Đối với các diện tích đất do vợ chồng bà khai phá và nhận khoán đất chưa có
rừng để gây trồng rừng sản xuất của Lâm Trường Hiếu L1, do tuổi cao sức yếu,
nên khoảng từ những năm 1996-1997 thì vợ chồng bà đã giao lại cho ông T1 và
ông N cùng vợ sử dụng canh tác. Như vậy, ông T1 và ông N không có quyền sở
hữu và định đoạt với các quyền sử dụng đất này mà chỉ có quyền đối với các tài
sản trên đất là cây trồng và nhà đang ở.
Trong thời gian sống chung với ông N3, bà và ông N3 chỉ có 02 con chung
là Cao Minh T1 và Cao Minh N, ngoài ra không có con chung nào khác, bà cũng
không biết việc ông N3 có con riêng bên ngoài. Như vậy, việc yêu cầu chia di sản
thừa kế của bà Cao Thị Kim O cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan là không có căn cứ pháp luật, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Trần Thị N2 trình bày:
Bà và ông Cao Minh N3, sinh năm 1941 chung sống với nhau từ năm 1979.
Đến năm 1982, khi về chung sống với ông N3 thì bố mẹ ông N3 đã chết, tài sản
của ông N3 có hai gian nhà tại thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Bà và ông
N3 có tổ chức đám cưới, có sự chứng kiến của cơ quan đoàn thể trong xã và bà con
hàng xóm. Bà và ông N3 có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã H theo quy định của
pháp luật. Nhưng trong quá trình thời gian đã lâu, giấy tờ bị thất lạc nên không còn
giấy đăng ký kết hôn của bà và ông N3.
Hôn nhân giữa bà và ông N3 là tự nguyện, từ đó đến nay ông bà đã có 02
con chung tên là Cao Thị P, sinh ngày 08/01/1980 và Cao Thị H, sinh ngày
16/09/1981 tại thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình chung
sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn nên năm 1982 ông N3 vào Nam làm
ăn để phát triển kinh tế. Sau đó bà được biết ông N3 có qua lại với bà Lê Thị Q ở
xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa và có một con chung tên là Cao Xuân T2 sinh năm
1982. Ông N3 và bà Q không có đăng ký kết hôn. Hiện nay mẹ con bà Q đang sinh
sống tại Gia Lai. Đầu năm 1983, ông N3 có vào xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai sinh
sống lập nghiệp cho đến khi chết ngày 26/9/2017.
Trong thời gian năm 1985 đến năm 2000, vì xa vợ con, nên ông N3 có qua
lại với bà Vũ Thị H1 tại xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai và có một con chung, tên là
Cao Thị Kim O sinh năm 1990, nhưng cũng không có đăng ký kết hôn. Từ năm
2001, ông N3 sống độc thân, không còn chung sống với ai. Bà và các con thỉnh
thoảng có vào thăm ông N3.
Trước khi về chung sống với bà, ông N3 đã chung sống với bà Lê Thị T3 từ
năm 1972 đến năm 1978, ông N3 và bà T3 có 02 con chung tên là Cao Minh N,
sinh năm 1972 và Cao Minh T1, sinh năm 1973. Do trong cuộc sống ông N3 và bà
T3 không hợp nhau nên đã ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh
Thanh Hóa. Ngoài những người con nêu trên, ông N3 không còn người con nào
khác.
Nay qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị Kim O, bà đồng ý.
Bà không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
* Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê
Thị Quy trình B:
Bà và ông Cao Minh N3 có quan hệ qua lại với nhau từ năm 1982 đến năm
1983, trong thời gian này bà với ông N3 có một con chung tên là Cao Xuân T2,
sinh ngày 27/10/1982. Trong thời gian bà và ông N3 chung sống với nhau, bà có
biết ông Cao Minh N3 có chung sống với bà Lê Thị T3, sinh năm 1942, chung
sống từ năm 1972 đến năm 1978, giữa ông N3 và bà T3 có 02 con chung là Cao
Minh N, sinh năm 1972 và Cao Minh T1, sinh năm 1973, giữa ông N3 và bà T3 có
đăng ký kết hôn hay không thì bà không rõ.
Từ năm 1979 đến năm 1981, ông N3 có chung sống như vợ chồng với bà N2
thì bà có nghe nói ông N3 với bà N2 có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, H, Thanh
Hóa và có 02 con chung là Cao Thị P sinh năm 1980 và Cao Thị H, sinh năm 1981.
Cuối năm 1983, ông N3 bỏ vào sinh sống ở tỉnh Đồng Nai. Sau khi ông N3
mất, bà mới biết là ông cư trú ở xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Bà được biết năm 1985 đến năm 2000, ông N3 có chung sống với bà Vũ Thị
H1 ở xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai và có 01 con chung là Cao Thị Kim O, sinh
năm 1990.
Từ năm 2001 đến na,y ông N3 sống độc thân không ở với ai cho đến khi
chết vào ngày 26/09/2017. Ngoài những người con trên thì ông N3 không còn
người con nào khác. Bố mẹ ông N3 đã chết từ lâu.
Nay, đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị Kim O thì bà
đồng ý, bà không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
bà Trần Thị N2, bà Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2, bà Lê Thị Q, bà
Vũ Thị H1 là bà Cao Thị Kim O trình bày:
Các ông, bà là vợ và con của ông Cao Minh N3, ông Cao Minh N3 đã chết
vào năm 2017. Ông N3 có tất cả 04 người vợ và 06 người con. Nay bà O có đơn
yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của ông N3 làm 06 phần cho 06 người con của
ông N3 thì các ông bà đều đồng ý; đối với các bà là vợ của ông N3 thì các bà
không yêu cầu gì, không tranh chấp gì trong vụ án. Số tài sản này là do ông N3 và
bà H1 tạo lập lên, nay bà H1 cũng không yêu cầu gì, đề nghị Tòa án chia đều cho
06 người con của ông N3. Đối với bà T3, là vợ cả của ông N3 cho rằng số tài sản
này do ông N3 và bà T3 tạo dựng là không đúng sự thật.
* Quá trình tham gia tố tụng, người đại diện hợp pháp của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng N5 - Chi nhánh V là ông Nguyễn Tấn L
trình bày:
Ông Cao Minh N3 có gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N5 – Chi nhánh V số tiền
1.500.000.000đ, đồng thời ông N3 cũng vay số tiền 200.000.000đ và lấy số tiền
gửi để đảm bảo, nay số tiền vay đã thanh toán hết, số tiền gửi của ông N3 hiện tại
cả gốc và lãi tính đến ngày 11/9/2024 là 2.001.180.314đ (gồm tiền gốc là
2.000.150.114đ và tiền lãi là 1.030.200đ).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Vĩnh Cửu:
Căn cứ vào các Điều 88, 89, 90 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điều 609, 612, 649, 650, 651, 652 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Tranh chấp về di
sản thừa kế”.
Ông Cao Minh T1, ông Cao Minh N, ông Cao Xuân T2, bà Cao Thị H, bà
Cao Thị P và bà Cao Thị Kim O mỗi người được hưởng 333.530.052đ (ba trăm ba
mươi ba triệu năm trăm ba mươi nghìn không trăm năm mươi hai đồng)
(2.001.180.314đ : 6 = 333.530.052đ).
Các ông, bà có tên nêu trên có quyền liên hệ với Ngân hàng N5 – Chi nhánh
V hoặc Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu để làm thủ tục nhận số tiền nêu
trên và lãi phát sinh nếu có.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Cao Minh T1 và ông Cao Minh
N về việc “Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ”.
- Đình chỉ yêu cầu chia thửa đất số 9, tờ bản đồ số 21 và thửa đất số 153, tờ
bản đồ số 17, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
- Về án phí: Bà O, ông T2, ông N, ông T1, bà H, bà P có nghĩa vụ nộp án phí
dân sự sơ thẩm mỗi người là 16.676.502đ (mười sáu triệu sáu trăm bảy mươi sáu
nghìn năm trăm lẻ hai đồng) (của số tiền mỗi người được hưởng 333.530.052đ).
Ông Cao Minh T1 và ông Cao Minh N mỗi người phải chịu 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) về phần yêu cầu không được chấp nhận, được trừ vào phần tạm
ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0004973 ngày 06/4/2021 và Biên lai thu
tiền số 0004977 ngày 08/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu.
Đối với Bà Cao Thị Kim O được trừ vào phần tạm ứng án phí đã nộp là
31.500.000đ - 16.676.502đ. Hoàn trả cho bà O số tiền là 14.823.498đ (mười bốn
triệu tám trăm hai mươi ba nghìn bốn trăm chín mươi tám đồng) tại Biên lai thu
tiền số 000830 ngày 27/12/2017 và số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn
đồng) tại Biên lai thu tiền số 004524 ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Vĩnh Cửu.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo
theo luật định.
Ngày 11/9/2024, ông Cao Minh T1, ông Cao Minh N, bà Lê Thị T3 có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai sửa bản
án sơ thẩm theo hướng: Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Cao Minh T1, ông Cao
Minh N, tuyên bà Cao Thị Kim O, Cao Thị H, Cao Thị P, Cao Xuân T2 không
phải con của ông Cao Minh N3; Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị
Kim O về việc chia thừa kế số tiền 1.500.000.000đ của ông Cao Minh N3.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng
Nai phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử cấp
phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý
vụ án đến khi xét xử và tại phiên tòa. Các đương sự tham gia phiên tòa thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Quan điểm của KSV đối với nội dung kháng cáo:
+ Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm không vi phạm nghiêm trọng.
+ Về đường lối: Việc bà Cao Thị T4, ông Cao Minh N, ông Cao Minh T1
cho rằng bà Cao Thị Kim O, bà Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2 không
phải là con của ông Cao Minh N3 là không có căn cứ vì: Tại biên bản xác minh
ngày 20/3/2018 tại UBND xã H, huyện V của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh cửu có
nội dung: “Chúng tôi được biết ông Cao Minh N3 có khoảng 06 người con là anh
Cao Minh N, sinh năm 1972; anh Cao Minh T1, sinh năm 1977, hiện nay ở tổ E ấp
B, H, V, Đồng Nai; chị Cao Thị Kim O, sinh năm 1990, hiện nay đang ở huyện B,
tỉnh Bình Dương; anh Cao Xuân T2 hiện ở thành phố P, tỉnh Gia Lai; 02 người
con còn lại thì chúng tôi không biết họ tên, chỉ biết đang sinh sống ngoài tỉnh
Thanh Hóa… Khi ông N3 chết vào ngày 21/9/2017, vào ngày đám tang của ông
N3 thì chúng tôi thấy có 04 người con của ông N3 thì chúng tôi thấy có 04 người
con của ông N3 là anh T1, anh N, chị O, anh T2 về đưa tang và có bà H1 (mẹ chị
O) đến đưa tang ông N3” (BL 116, 117).
Tại Đơn đề nghị xác nhận ngày 20/8/2018 của bà Trần Thị N2 thể hiện: “Tôi
và ông Cao Minh N3 chung sống với nhau từ năm 1979 đến năm 1982 tại thôn P,
xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình sinh sống, tôi và ông N3 có hai
con chung tên là Cao Thị P, sinh năm 1980, Cao Thị H, sinh năm 1981, đều trú tại
huyện H, tỉnh Thanh Hóa, có xác nhận của Công an xã H, huyện H, tỉnh Thanh
Hóa” (BL 221). Tại bản sơ lược lý lịch của ông T2 ngày 10/7/2013 thể hiện bố đẻ
là ông Cao Minh N3, sinh năm 1941, có xác nhận của Đảng Ủy Công ty B1 ngày
23/7/2013 (BL 98-101).
Mặt khác, ông Cao Minh N, ông Cao Minh T1 còn cho rằng giấy khai sinh
của bà Cao Thị Kim O, bà Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2 đều sửa lại,
đăng ký lại sau khi phát sinh tranh chấp là không có cơ sở vì: Giấy khai sinh của
ông T2 bị thất lạc, được thể hiện tại tờ khai đăng ký lại giấy khai sinh ngày
13/7/2017 và Công văn số 52/CV-UBND của UBND xã I ngày 14/9/2018 (BL
242, 243); giấy khai của bà P, bà H, theo Công văn số 41/CV-UBND ngày
03/7/2018 của UBND xã H xác nhận: “Cao Thị P1, sinh ngày 08/01/1980, theo
giấy khai sinh số 68/2013 do UBND xã H cấp ngày 15/4/2013 và bà Cao Thị H,
sinh ngày 16/9/1981, theo giấy khai sinh số 67/2013 do UBND xã H cấp ngày
15/4/2013, cả hai đều đăng ký khai sinh lại theo đúng quy định 158 và các văn bản
hướng dẫn thi hành” (BL 194); đối với giấy khai sinh của bà Cao Thị Kim O, theo
tờ khai đăng ký việc thay đổi, cải chính bổ sung hộ tịch ngày 31/10/2017 về việc
cải chính năm sinh của người cha từ năm 1947 thành năm 1941 nên UBND huyện
V đã ra Quyết định số 6412/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 về việc thu hồi giấy khai
sinh số 145, quyển 01/1994 do UBND xã T cấp cho công dân Cao Thị Kim O. Tại
Tờ trình số 153/TTr-PTP ngày 31/10/2017 về việc Cấp trích lục cải chính hộ tịch
cho công dân và ra thông báo số 1340/TB-UBND về việc cải chính phần khai về
năm sinh của người cha đối với công dân Cao Thị Kim O (BL 451-455).
Ngoài ra, ông Cao Minh N, ông Cao Minh T1 còn cho rằng các ông Cao H4,
bà Cao Thị H5, ông Cao Q1 là anh em ruột với ông Cao Minh N3 xác định ông N3
chỉ có vợ là bà Lê Thị T3 và hai người con ông N4, ông T1, được xác nhận của
UBND xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An là không phù hợp vì qua các tài liệu chứng cứ
có trong hồ sơ thể hiện: Từ năm 1972 đến năm 1978, ông N3 sống với bà Lê Thị
T3, sinh được 02 người con là ông Cao Minh N3, ông Cao Minh T1; năm 1979 đến
năm 1981, ông N3 sống với bà Trần Thị N2, sinh được hai người con bà Cao Thị
P, Cao Thị H; năm 1982 đến 1983 ông N3 sống với bà Lê Thị Q, sinh đươc một
người con anh Cao Xuân T2; từ năm 1985 đến năm 2017, ông N3 sống với bà Vũ
Thị H1, có 01 người con bà Cao Thị Kim P1. Trong quá thời gian sống với bà T3,
bà N2, bà Q, bà H1 đều không có đăng ký kết hôn và sinh sống ở nhiều tỉnh khác
nhau.
Từ những phân tích nêu trên, có đủ căn cứ xác định bà Cao Thị Kim O, bà
Cao Thị P, bà Cao Thị H, ông Cao Xuân T2 là con của ông Cao Minh N3. Do đó,
việc bà Cao Thị Kim O yêu cầu chi tài sản thừa kế là số 1.500.000.000đ của ông
Cao Minh N3 đang gửi tiết kiện tại Ngân hàng N5 – Chi nhánh huyện V là có cơ
sở.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Không chấp nhận
kháng cáo của bà Lê Thị T3, ông Cao Minh N, ông Cao Minh T1; Giữ nguyên Bản
án sơ thẩm số 57/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh
Cửu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các đương sự làm trong thời hạn luật
định, ông T1 và ông N đã đóng tạm ứng án phí đầy đủ, bà T3 được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Một số người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét
xử vắng mặt những người này theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án, kháng cáo của các đương sự: Bà Cao Thị Kim O đề
nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cha bà là ông Cao Minh N3 ra làm 06 phần
bằng nhau. Ông Cao Minh N và ông Cao Minh T1 cho rằng ông Cao Minh N3 chỉ
có một người vợ duy nhất là bà Lê Thị T3 và hai người con là anh T1 và anh N,
ngoài ra ông N3 không có bất cứ người vợ hay người con nào khác, bà Cao Thị
Kim O không phải là con của ông N3, nên không có quyền yêu cầu chia di sản
thừa kế của ông N3, đề nghị Tòa án tuyên bố bà Cao Thị Kim O không phải là con
của ông Cao Minh N3.
Xét thấy:
- Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác nhận của địa
phương, giấy khai sinh của 04 người con, hồ sơ lý lịch Đảng của ông T2 đều thể
hiện ông Cao Minh N3 là cha của ông T2, bà O, bà H, bà P. Do đó, cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Cao Minh T1 và Cao Minh N về việc
“Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ”, yêu cầu
Toà án xác định bà Cao Thị Kim O không phải là con của ông Cao Minh N3 là có
cơ sở. Tại cấp phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông N, ông T1 và bà T3 cũng
không yêu cầu Tòa án giám định ADN để xác định chung huyết thống giữa ông N
và bà O vì cho rằng đương sự đã tham khảo các trung tâm giám định ADN tại Việt
Nam và được biết việc giám định chung huyết thống giữa anh trai và em gái khi
không có nguồn đối chứng (là anh chị em ruột của ông N3) là không thể thực hiện
được.
Theo xác nhận của địa phương cũng như các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ
sơ thể hiện: Ông Cao Minh N3 chung sống như vợ chồng với 04 người vợ, bao
gồm: Lê Thị T3, Trần Thị N2, Lê Thị Q và Vũ Thị H1. Những người vợ này đều
không có giấy đăng ký kết hôn, thời gian ông N3 chung sống với 04 người vợ này
đều trước ngày 03/01/1987 nên được coi là hôn nhân thực tế. Đối với bà Trần Thị
N2, bà Lê Thị Q và bà Vũ Thị H1 đều đồng ý theo yêu cầu của bà O là chia đều di
sản thừa kế của ông N3 cho 06 người con của ông N3, các bà không có yêu cầu gì.
Đối với bà Lê Thị T3 trình bày trong thời gian sống chung giữa bà với ông Cao
Minh N3, ông bà tạo lập được số tài sản là thửa đất số 9, tờ bản đồ số 21 và thửa
đất số 153, tờ bản đồ số 17, xã H, cùng số tiền 1.500.000.000đ gửi tại Ngân hàng.
Tuy nhiên, ngoài lời khai thì bà T3 không có chứng cứ chứng minh. Trong khi đó,
theo xác nhận của UBND xã H thì từ tháng 5/1979 đến tháng 3/1983, ông Cao
Minh N3 đã chung sống như vợ chồng với bà Trần Thị N2 tại xã H, huyện H, tỉnh
Thanh Hóa và có 2 người con chung là Cao Thị P, Cao Thị H (BL 194). Từ năm
1983 đến khi ông N3 chết, ông Nguyên sinh S2 tại xã H, huyện V, Đồng Nai và
chung sống như vợ chồng với bà Vũ Thị H1 từ năm 1985 đến năm 2000, có 01 con
chung là Cao Thị Kim O. Bà Lê Thị T3 từ trước đến nay không hề sinh sống, cũng
không đăng ký thường trú hay tạm trú tại địa phương (BL 118). Vì vậy, bà T3 cho
rằng tài sản này do bà và ông N3 tạo dựng lên khối tài sản này là không có cơ sở
để chấp nhận. Áp dụng Án lệ số 41/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao thì hôn nhân thực tế giữa bà T3 và ông N3 cũng đã chấm dứt nên bà T3
cũng không có quyền hưởng di sản thừa kế ông N3 để lại.
Bà Vũ Thị H1 đề nghị Tòa án chia đều cho 06 người con của ông N3, bà
không yêu cầu gì khác. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Cao Thị Kim O: chia phần di sản của ông Cao Minh N3 là số tiền tiết kiệm
đang gửi tại Ngân hàng N5 – Chi nhánh V làm 06 phần bằng nhau cho 06 người
con là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông Cao Minh T1, ông
Cao Minh N, bà Lê Thị T3 trình bày: Cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ
tục tố tụng do bà Q đã chết trước khi Tòa án xét xử sơ thẩm nhưng Tòa án vẫn để
bà O làm người đại diện cho bà Q tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung, số tiền 1.500.000.000đ gửi Ngân hàng là tiền bán đất của ông N3 và
ông N chứ không phải của một mình ông N3. Do đó, đề nghị hủy bản án sơ thẩm,
giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại. Hội đồng xét xử xét thấy:
- Bà Q khi còn sống đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà O và không có yêu
cầu độc lập hay ý kiến gì khác. Sau khi bà Q chết, người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bà Q là ông Cao Xuân T2 và ông Lê Văn M đều thống nhất với ý kiến
bà Q đã trình bày, không có yêu cầu gì khác. Do đó, không cần thiết phải hủy bản
án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại.
- Đối với nội dung ông Á cho rằng số tiền gửi Ngân hàng là tiền bán đất của
ông N3 và ông N chứ không phải của một mình ông N3: tại phiên tòa hôm nay,
ông Á nộp cho Hội đồng xét xử 01 bản Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 09/6/2017 để chứng minh vấn đề này. Tuy nhiên, Hợp đồng chuyển
nhượng mà ông Á nộp cho Tòa án chỉ là bản photo, không có công chứng, chứng
thực (do ông N không giữ bản chính). Hơn nữa, trong Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất có ghi rõ người chuyển nhượng đất là ông Cao Minh N3, còn
ông Cao Minh N chỉ là người thừa kế chứ không phải là người chuyển nhượng.
Thời điểm này (ngày 09/6/2017), ông Cao Minh N3 chưa chết nên cũng chưa phát
sinh quyền thừa kế của ông Cao Minh N. Do đó, số tiền chuyển nhượng
2.500.000.000đ chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng nói trên không
thể xác định là tài sản chung của ông N3 và ông N.
Từ những phân tích trên cho thấy, ông Cao Minh T1, ông Cao Minh N, bà
Lê Thị T3 có đơn kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh nên
không có cơ sở chấp nhận.
[3] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Cao
Minh N và ông Cao Minh T1 phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm, được trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Bà Lê Thị T3 được miễn án phí.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự:
Bác toàn bộ đơn kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu.
Căn cứ các Điều 88, 89, 90 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều
609, 612, 649, 650, 651, 652 của Bộ luật dân sự năm 2015; Án lệ số 41/2021 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Tranh chấp về di
sản thừa kế”.
1.1. Ông Cao Minh T1, ông Cao Minh N, ông Cao Xuân T2, bà Cao Thị H,
bà Cao Thị P và bà Cao Thị Kim O mỗi người được hưởng 333.530.052đ (ba trăm
ba mươi ba triệu năm trăm ba mươi nghìn không trăm năm mươi hai đồng).
1.2. Các ông, bà có tên nêu trên có quyền liên hệ với Ngân hàng N5 – Chi
nhánh V hoặc Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu (nay là Phòng Thi hành
án dân sự Khu vực 3 – tỉnh Đồng Nai) để làm thủ tục nhận số tiền nêu trên và lãi
phát sinh nếu có.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Cao Minh T1 và Cao Minh N
về việc “Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ”.
3. Đình chỉ yêu cầu chia thửa đất số 9, tờ bản đồ số 21 và thửa đất số 153, tờ
bản đồ số 17, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
4. Về án phí:
4.1. Án phí sơ thẩm: Bà O, ông T2, ông N, ông T1, bà H, bà P có nghĩa vụ
nộp án phí dân sự sơ thẩm mỗi người là 16.676.502đ (mười sáu triệu sáu trăm bảy
mươi sáu nghìn năm trăm lẻ hai đồng).
Ông Cao Minh T1 và ông Cao Minh N mỗi người phải chịu 300.000đ (ba
trăm nghìn) về phần yêu cầu không được chấp nhận được trừ vào phần tạm ứng án
phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0004973 ngày 06/4/2021 và Biên lai thu tiền số
0004977 ngày 08/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu (nay là
Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 3 - tỉnh Đồng Nai).
Đối với Bà Cao Thị Kim O được trừ vào phần tạm ứng án phí đã nộp là
31.500.000đ - 16.676.502đ. Hoàn trả cho bà O số tiền là 14.823.498đ (mười bốn
triệu tám trăm hai mươi ba nghìn bốn trăm chín mươi tám đồng) tại Biên lai thu
tiền số 000830 ngày 27/12/2017 và số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn
đồng) tại Biên lai thu tiền số 004524 ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Vĩnh Cửu (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 3 – tỉnh Đồng Nai).
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Cao Minh N và ông Cao Minh T1 mỗi người
phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0009924 và 0009925 ngày
17/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu (nay là Phòng Thi
hành án dân sự Khu vực 3 – tỉnh Đồng Nai). Bà Lê Thị T3 được miễn án phí.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND khu vực 3 – Đồng Nai;
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- Phòng THADS khu vực 3 – Đồng Nai;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Lệ Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm