Bản án số 60/2024/DS-ST ngày 10/12/2024 của TAND huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 60/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 60/2024/DS-ST ngày 10/12/2024 của TAND huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bến Cầu (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 60/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chuyển nhượng QSD đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẾN CẦU
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 60/2024/DS-ST
Ngày: 10-12-2024.
V/v “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vui.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Hải;
2. Ông Lê Văn Rẽn.
- Thư phiên tòa: Thị Kim Tươi Thư Tòa án nhân dân
huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh tham
gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Thảo Nguyên - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu,
xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 77/2022/TLST- DS ngày 27
tháng 10 năm 2022 về Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2024/QĐST-DS ngày 04 tháng
11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Thành D, sinh năm 1970 Văn Thị Đ, sinh
năm 1966. Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D Đ: Nguyễn Thị L, sinh
năm 1960. Địa chỉ: Khu phố D, Phường B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh (theo văn
bản ủy quyền ngày 28/10/2022).
- Bị đơn: Ông Phạm Công L1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp L, L, huyện
B, tỉnh Tây Ninh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Thành N, sinh năm 1976.
2. Bà Phạm Thị Mỹ T, sinh năm 1978.
3. Ông Phạm Thành C, sinh năm 1980.
2
4. Ông Phạm Thành T1, sinh năm 1989.
Cùng địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh.
5. Bà Võ Thị Đ1, sinh năm 1949 (đã chết).
Người thừa kế địa vị tố tụng của bà Đ1:
5.1. Ông Phạm Công L1, sinh năm 1984.
5.2. Ông Phạm Thành N, sinh năm 1976.
5.3. Bà Phạm Thị Mỹ T, sinh năm 1978.
5.4. Ông Phạm Thành C, sinh năm 1980.
5.5. Ông Phạm Thành T1, sinh năm 1989.
Cùng địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh.
6. Ông Trần Quang T2, sinh năm 1978. Địa chỉ: Khu phố A, phường C,
thành phố T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T2: Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm
1984. Địa chỉ: Số G, đường P, khu phố A, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây
Ninh (theo văn bản ủy quyền ngày 01/12/2023).
7. Bà Đặng Thị H, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây
Ninh.
8. Anh Hoàng Đức H1, sinh năm: 1987.
9. Chị Hồ Thị Ngự T4, sinh năm 1987.
Cùng địa chỉ: Số I, tỉnh l7, ấp X, A, huyện C, thành phố Hồ Chí
Minh.
Bà L, ông L1, ông T3, bà H, anh H1 và ch T4 có mt; còn li vng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông D Đ yêu cầu ông Phạm Công L1 tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng đất ngày 10/6/2017 phần đất diện tích 135 m
2
, một phần thửa
đất số 694, tờ bản đồ số 18, tọa lạc ấp L, L, huyện B, tỉnh Tây Ninh (tương
ứng một phần thửa đất số 1676/134 m
2
, tờ bản đồ số 18 VN2000). Đồng thời,
yêu cầu hủy: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/9/2022 giữa
ông Phạm Công L1 với ông Trần Quang T2; hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất ngày 12/12/2022 giữa ông Trần Quang T2 với bà Đặng Thị H. Cụ thể:
Năm 2017 ông D và Đ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (gọi tắt
QSDĐ) của Đ1 diện tích khoảng 135 m
2
thửa đất s694, tờ bản đồ số 18
(ngang 04 mét, dài hết đất), tứ cận: Phía Đông giáp Phạm Thành D; Phía Tây
giáp Thị Đ1; Phía Nam giáp đường nông thôn; Phía Bắc giáp Ngô Thanh K
giá 20.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng hai bên làm giấy tay 05
người con của bà Đ1 đều tên, hai bên đã giao nhận tiền đất xong, tuy
3
nhiên chưa tiến hành làm thủ tục sang tên. Do đất trũng nên vợ chồng ông D đã
đổ đất cao lên bằng đường, xây hàng rào lưới B40 xung quanh đất, xây nvệ
sinh sử dụng ổn định từ năm 2017 đến nay. Trong thời gian sử dụng đất, ông
D đã yêu cầu bà Đ1 các thành viên trong gia đình tiến hành làm thủ tục
chuyển nhượng nhưng do đất không đủ diện tích tách thửa nên ông D đồng ý
mua thêm nhưng bên Đ1 không đồng ý. Năm 2021, Đ1 chết, những người
thuộc hàng thừa kế thống nhất cho ông L1 được quyền QSDĐ diện tích 884,1
m
2
, thửa 694, tờ bản đồ số 18 và được cấp giấy chứng nhận QSD đất số
CS06270 ngày 06/01/2022. Sau đó, ông D yêu cầu ông L1 làm thủ tục tách
thửa nhưng ông L1 không thực hiện đã chuyển nhượng cho người khác. Do
đó, vợ chồng ông D yêu cầu ông L1 người thừa hưởng tài sản của Thị
Đ1 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nêu trên.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn t yêu cầu
khởi kiện đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ngày
23/9/2022 giữa ông Phạm Công L1 với ông Trần Quang T2; hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/12/2022 giữa ông Trần Quang T2 với
Đặng Thị H. Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.
- Bị đơn ông Phạm Công L1 trình bày: Ông không đồng ý theo yêu cầu
khởi kiện của ông D và Đ. Ông là con ruột của ông Phạm Thành T5 và bà
Thị Đ1, ông thừa nhận ngày 10/6/2017 gia đình ông có chuyển nhượng quyền sử
dụng đất như lời trình bày của ông D Đ. Thời điểm chuyển nhượng thì
phần đất do cha mẹ ông đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ, còn việc mẹ ông
vợ chồng ông D làm thủ tục như thế nào thì ông không biết. Khi chuyển
nhượng, có địa chính của UBND xã L đến đo đạc diện tích chuyển nhượng, phía
vợ chồng ông D cấm trụ rào và sử dụng tkhi nhận chuyển nhượng cho đến
nay.
Sau khi chuyển nhượng cho vợ chồng ông D, ông có mua lại phần đất này
của mẹ ông, nhưng do mông chết năm 2021 nên các anh em làm thủ tục
thừa kế để lại cho một mình ông đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
diện tích 884,1m
2
. Khi làm thủ tục sang tên thì ông tự đi làm giấy tờ, không tiến
hành đo đạc lại nhưng đã trừ ra phần đất mà gia đình ông đã chuyển nhượng cho
vợ chồng ông D. Sau đó, ông nhu cầu chuyển nhượng nên ông giao cho ông
Vương Trần V làm tất cả các thủ tục tách thửa để chuyển nhượng diện tích
884,1 m
2
, giai đoạn này nnước thu hồi một phần để làm đường, diện tích
còn lại ông hợp đồng chuyển nhượng cho ông Trần Quang T2, Vương Trần
V, phần đất chuyển nhượng là từ hàng rào vợ chồng ông D đang sử dụng hướng
về phía Tây. Ông xác định diện tích ông chuyển nhượng không bao gồm phần
đất đã chuyển nhượng cho ông D và bà Đ.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người thừa kế địa vị tố tụng
của Đ1: Phạm Thành N, Phạm Thị Mỹ T, Phạm Thành C Phạm Thành T1
trình bày: Ông bà thừa nhận khi còn sống mẹ ruột là bà Đ1 ông bà có chuyển
4
nhượng cho ông D, Đ phần đất như ông D, Đ trình bày. Sau khi Đ1
chết tất cả anh chị em thống nhất cho ông L1 được quyền sử dụng phần đất
884,1m
2
bao gồm cả phần đất gia đình đã chuyển nhượng cho ông D bà Đ.
Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của ông D Đ, ông giao cho ông L1 toàn
quyền quyết định. Ngoài ra không ý kiến gì khác.
Do bận công việc nên ông bà có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Trần Quang T2 trình bày: Ngày 23/9/2022, ông T2 nhận chuyển
nhượng QSDĐ từ ông Phạm Công L1 thửa đất số 1642/399,5 m
2
(tương ứng
một phần thửa đất 694/844,1 m
2
) tờ bản đồ số 18, tọa lạc ấp L, L, huyện B,
tỉnh Tây Ninh, giá trị ghi trong hợp đồng 300.000.000 đồng. Hợp đồng
chuyển nhượng được công chứng tại Văn phòng C1, hai bên đã giao đất tiền.
Khi chuyển nhượng, ông T2 đến xem đất được ông L1 chỉ vị trí từ hàng
rào B40 trở ra, không tiến hành đo đạc thực tế. Sau đó, ông T2 tách thành 03
thửa 1676, 1677, 1678 đã chuyển nhượng 03 thửa cho người khác, trong đó
chuyển nhượng cho H thửa đất số 1676/134 m
2
. Hiện tại ông T2 không còn
quyền sử dụng phần đất nào nên ông không đồng ý hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo yêu cầu của ông D bà Đ.
Tại phiên tòa, đại diện theo y quyền của ông T2 trình bày, việc chuyển
nhượng cho ông D Đ đã vi phạm về mặt hình thức nội dung. phần đất
do ông T5 đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ nhưng khi ông T5 chết chưa làm
thủ tục khai nhận thừa kế nên Đ1 chuyển nhượng cho ông D Đ không
đúng quy định của pháp luật, việc mua bán không thể hiện số thửa đất tờ bản
đồ, hơn nữa khi làm thủ tục sang tên cho ông L1 gia đình ông D không ngăn cản
việc chuyển nhượng quyền sdụng đất cho ông T2 đảm bảo đúng quy định
của pháp luật. Do đó, lỗi là do ông L1, để đảm bảo quyền lợi của người thứ ba
ngay tình đề nghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa Đ1 với ông D
Đ vô hiệu.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Thị H trình bày:
Ngày 12/12/2022, nhận chuyển nhượng QSDĐ từ ông Trần Quang T2 thửa
đất số 1676/134 m
2
, tờ bản đồ số 18, tọa lạc ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh,
giá trị ghi trong hợp đồng 100.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng được
công chứng tại Văn phòng C1, đã giao đủ tiền cho ông T2 ông T2 đã giao
đất cho bà. Khi chuyển nhượng, đến xem đất thấy cấm trụ ranh (bê
tông) thành 06 phần đất bắt đầu từ phía hàng rào B40, thửa đất 1676 nhận
chuyển nhượng nằm ngoài hàng rào B40. không nhờ quan thẩm quyền
đo đạc thực tế khi đó đất đã được cấp sổ hồng. Ông T2 chỉ cho phần đất
chuyển nhượng nằm bên phía ngoài hàng rào đo sang 05m đất trống, không
canh tác hay công trình trên đất. Do đó, không đồng ý hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/12/2022 giữa bà với ông Trần Quang
T2. đã nhận chuyển nhượng hoàn toàn hợp pháp, đã được cấp giấy chứng
5
nhận QSDĐ hiện tại đã chuyển nhượng cho người khác. Còn vợ chồng
ông D nhận chuyển nhượng bằng giấy tay nên không có tính pháp lý.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Đức H1 chị Hồ
Thị Ngự T4 trình bày: Ngày 29/9/2023 vợ chồng anh nhận chuyển nhượng
QSDĐ của bà H diện tích 134 m
2
, thửa đất số 1676, tờ bản đồ số 18, tọa lạc ở ấp
L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh, giá 320.000.000 (ba trăm hai chục triệu) đồng,
hợp đồng chuyển nhượng công chứng chứng thực tại Văn phòng C2, hai bên
đã tiến hành giao đất giao tiền xong, hiện tại vợ chồng anh đã được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ vào ngày 09/10/2023. Trước khi nhận chuyển nhượng, anh
chị nhờ người quen đến xem đo đạc phần đất đủ diện tích theo giấy đất
(chiều ngang mặt đường đất 05 mét, chiều dài hết đất), hơn nữa 01 cạnh
xây hàng rào, vị tđất tính từ hàng rào đo qua nên khi kết hợp đồng không
nhờ quan thẩm quyền tiến hành đo đạc. Do đó, anh chị không đồng ý hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng giữa anh chị với bà H mà yêu cầu được
quyền sử dụng phần đất đã nhận chuyển nhượng, vì hai bên đã tiến hành chuyển
nhượng theo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng anh với H
vô hiệu thì anh chị yêu cầu bà H trả lại giá trị đất thực tế tại thời điểm giải quyết
tranh chấp.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư những
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân
sự. Tuy nhiên vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 Bộ
luật Tố tụng dân sự, tuy nhiên, việc vi phạm này không làm ảnh hưởng đến nội
dung vụ án nên sẽ tổng hợp kiến nghị chung.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 129 của Bộ
luật dân sự; Điều 167, 188 Luật Đất đai năm 2013; Điều 147, 157, 165, 217 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành D và bà Văn Thị Đ
về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đối với ông Phạm Công
L1.
Ông D Đ được quyền sử dụng phần đất diện tích diện tích 116,5
m
2
, thuộc thửa đất số 1676, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện B,
tỉnh Tây Ninh.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất ngày 23/9/2022 giữa ông Phạm Công L1 với ông Trần Quang
T2; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/12/2022 giữa ông
Trần Quang T2 với bà Đặng Thị H.
6
3. Về án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng khác: Các đương sự phải
chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Ông N, bà T, ông C và ông T1 có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với Điều 227 của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Qua xem xét thẩm định tại chỗ phần đất diện tích thực tế 116,5 m
2
,
thuộc thửa đất số 1676, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây
Ninh. Phần đất trị giá 182.500.000 (một trăm tám mươi hai triệu) đồng.
Tài sản trên phần đất: 12 trụ rào lưới B40, 01 nhà vệ sinh, 01 hầm bioga,
01 sân phơi lúa, đất được san lắp cao 0,5m. Trị giá 65.891.000 (sáu ơi lăm
triệu tám trăm chín mươi mốt nghìn) đồng.
Tổng tài sản tranh chấp giá trị 248.391.000 (hai trăm bốn mươi tám
triệu ba trăm chín mươi mốt nghìn) đồng.
Ngoài ra các đương sự thống nhất không còn tài sản nào khác trên đất.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của ông D và bà Đ:
[3.1] Khi còn sống vào năm 2005 ông Phạm Thành T5 Thị Đ1
đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 884,1 m
2
, thửa đất số
694, tờ bản đồ 18, tọa lạc ấp L, L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Ông T5 và bà Đ1
chung sống 05 người con: Phạm Thành N, Phạm Thị Mỹ T, Phạm Thành C,
Phạm Công L1Phạm Thành T1.
[3.2] Các bên đều thừa nhận vào năm 2017 sau khi ông T5 chết, bà Đ1
các con của Đ1 chuyển nhượng cho ông D Đ diện tích khoảng 135
m
2
, thuộc một phần thửa đất số 694, tờ bản đồ số 18 (ngang 04 mét, dài hết đất),
tứ cận: Phía Đông giáp Phạm Thành D; Phía Tây giáp Thị Đ1; Phía Nam
giáp đường nông thôn; Phía Bắc giáp Ngô Thanh K với giá 20.000.000 đồng.
Hai bên đã giao nhận tiền và đất xong, tuy nhiên chưa tiến hành làm thủ tục sang
tên. Sau khi Đ1 chết, các anh em thống nhất cho ông L1 được quyền sử dụng
toàn bộ thửa đất số 694. Xét thấy, mc giấy bán đất không tuân th v mt
hình thức nhưng hai bên đu tha nhn vic chuyển nhượng vào năm 2017,
đã giao nhận tiền và đất xong. Sau đó ông D, bà Đ đã quản lý s dng, tiến hành
xây các công trình khác trên đt trong quá trình s dng không ai tranh chp.
Do đó, Hội đồng xét x cn công nhn hiu lc ca hợp đồng chuyển nhượng
gia Đ1 các con ca Đ1 vi ông D Đ phần đất nêu trên phù
hợp theo quy định tại Điều 129 ca B lut Dân s.
[3.3] Xét lời trình bày của ông L1, ông cho rằng phần đất ông làm thủ tục
nhận thừa kế đã chuyển nhượng cho người khác không bao gồm phần đất đã
chuyển nhượng cho ông D, bà Đ. Xét thấy, theo tài liệu chứng cứ có trong h
7
thể hiện, giấy chứng nhận QSDĐ ngày 06/9/2005 cấp cho ông Phạm Thành T5,
Thị Đ1 giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông L1 ngày 06/01/2022 đều
thể hiện diện tích 884,1 m
2
, không thay đổi; tại biên bản xác minh Văn phòng
đăng đất đai tỉnh T - Chi nhánh huyện B (BL số 75): Phần đất mà bà Đ1
chuyển nhượng cho ông D và Đ đã được ông L1 chuyển nhượng cho ông T2,
ông T2 chuyển nhượng cho bà H và bà H chuyển nhượng cho anh H1 chị T4.
Do đó, lời trình bày của ông L1 là không có căn cứ.
[4] Xét yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 23/9/2022
giữa ông Phạm ng L1 ông Trần Quang T2; hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ ngày 12/12/2022 giữa ông Trần Quang T2 với Đặng Thị H hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 29/9/2023 giữa bà Đặng Thị H với ông Hoàng
Đức H1, Hồ Thị Ngự T4: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217 của Bộ
luật Tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết. Hơn nữa, trong quá trình tố tụng các bên
không đơn khởi kiện nên không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này các
đương sự có tranh chấp sẽ được xem xét thụ lý giải quyết bằng vụ án khác.
[5] Xét đề nghị của người đại diện theo ủy quyền của ông T2: Mặc dù ông
T5 Đ1 đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ nhưng sau khi ông T5 chết thì bà
Đ1 những người thuộc hàng thừa kế của ông T5 đã đồng ý cùng nhau
giấy chuyển nhượng đất cho ông D, Đ như đã phân tích tại mục [3.2]. Do
đó, đề nghị của người đại diện theo ủy quyền của ông T2 không căn cứ
chấp nhận.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát căn cứ nên Hội đồng xét
xử chấp nhận.
[7] Án phí chi phí tố tụng khác: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông D và bà Đn ông L1 phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 129 của Bộ luật dân sự; Điều 167, 188 Luật Đất đai
năm 2013;
Căn cứ vào Điều 147, 157, 165 và Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 12 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án,
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Thành D Văn Thị Đ
v tranh chp hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất đối với ông Phạm
Công L1.
8
Ông D và Đ được quyền sdụng phần đất diện tích 116,5 m
2
, thuộc
một phần thửa đất số 1676, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại ấp L, L, huyện B, tỉnh
Tây Ninh. Tứ cận:
Hướng Bắc giáp thửa đất số 695 dài 26,12 mét.
Hướng Nam giáp thửa đất số 1676 và 1677 dài 26,52 mét.
Hướng Tây giáp thửa đất số 680 dài 5,33 mét.
Hướng Đông giáp đường đất dài 3,65 mét.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để tiến hành thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù
hợp với phần quyết định của bản án này.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ ngày 23/9/2022 giữa ông Phạmng L1ông Trần Quang T2;
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 12/12/2022 giữa ông Trần Quang T2 với
Đặng Thị H.
3. Về án phí: Buộc ông Phạm Công L1 phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn)
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Phạm Thành D Văn Thị Đ tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0022844 ngày 27-10-
2022 và 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng theo biên lai thu s0012017 ngày 08-
11-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc ông L1 phải chịu 5.000.000 (năm triệu) đồng
tiền chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản. Ghi nhận ông
D và Đ đã nộp và chi phí xong nên ông L1 có nghĩa vụ nộp lại để trả cho ông
D và bà Đ.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự quyền
kháng cáo theo trình tphúc thẩm n Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Riêng
đương sự vắng mặt quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi nh theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tây Ninh;
- Phòng KTNV&THA.TAND tỉnh;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND huyện Bến Cầu;
- Chi cục THADS huyện Bến Cầu;
- Các đương sự;
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Lưu bộ phận;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Vui
Tải về
Bản án số 60/2024/DS-ST Bản án số 60/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 60/2024/DS-ST Bản án số 60/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất