Bản án số 58/2019/HSST ngày 03/10/2019 của TAND huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 58/2019/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 58/2019/HSST
Tên Bản án: | Bản án số 58/2019/HSST ngày 03/10/2019 của TAND huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hậu Lộc (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
Số hiệu: | 58/2019/HSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/10/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẬU LỘC
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 58/2019/HSST
Ngày: 03/10/2019
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC - TỈNH THANH HÓA
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Xuân Chuyên
Ông Trịnh Tiến Thanh
Ông Trịnh Công Kiều
-Thư ký phiên tòa: Bà Trương Mỹ Dung - Thư ký Tòa án
Tòa án nhân dân Hện Hậu Lộc.
-Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hậu Lộc tham gia phiên tòa.
Bà Nguyễn Thị Huyền Chung – Kiểm sát viên
Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Hện Hậu L xét xử
sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2019/HSST ngày 02/8/2019,
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/ 2019/QĐXX-HSST ngày 19/ 8/2019,
Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2019/QĐHPT-HSST ngày 29/8/2019; Quyết
định hoãn phiên tòa số: 07/2019/QĐHPT-HSST ngày 27/9/2019 đối với bị cáo:
*Họ và tên: Phạm Văn H- Tên gọi khác : Không - Giới tính: Nam.
Sinh năm 1996. Nơi đăng ký HKTT: Thôn H B, xã H L, Huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hoá. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề
nghiệp: Lao động tự do.Trình độ học vấn: 6/12.Tiền án, tiền sự: Không. Họ tên
bố: Phạm Văn H (đã chết). Họ tên mẹ: Phạm Thị V (đã chết). Gia đình có 03
anh, chị em, bị cáo là con thứ 03. Vợ, con: Chưa.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2018 đến ngày 03/4/2018 được
thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Đến ngày 21/12/2018 bị bắt tạm
giam và giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa cho đến nay. Bị cáo có
mặt tại phiên tòa.
*Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trịnh Thị T – Công ty luật TNHH N
Ch – Đoàn Luật sư Thanh Hóa. (có mặt tại phiên tòa)
* Người làm chứng :
1. Anh Đồng Văn H - Sinh năm: 1996 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn M T, xã M L, Huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh hóa.
2. Anh Nguyễn Văn T - Sinh năm: 1995 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn L Tr, xã H L, Huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
2
3. Anh Hoàng Văn D - Sinh năm: 1996 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn T H, xã H L, Huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2011, Phạm Văn H tự ý đi Trung Quốc lao động trái phép, từ đó
đã nhiều lần H từ Việt Nam đi sang Trung Quốc để làm thuê. Khoảng tháng
01/2016, khi H đang đi lao động ở tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc thì có Đồng
Văn H, sinh năm 1996 ở thôn M T, xã M L, Hện Hậu L; Nguyễn Văn T, sinh năm
1995 ở thôn L Tr, xã H L, Hện Hậu L và Hoàng Văn D, sinh năm1996 ở Thôn T H, xã
H L, Hện Hậu L gọi điện thoại qua mạng xã hội facebook cho Phạm Văn H để nói
cHện và hỏi thăm công việc của H bên Trung Quốc. H trả lời hiện đang làm đánh cá
thuê cho chủ tàu người Trung Quốc lương khoảng 10 triệu đến 15 triệu một tháng,
công việc ổn định, chủ tàu đối xử tốt, nếu D, H, T ở Việt Nam không có việc làm thì
sang Trung Quốc, H xin việc cho. D, H, T đã nhờ H chỉ đường và hướng dẫn cách
sang Trung Quốc nơi H đang làm thuê. H đồng ý nhận lời và thống nhất với H, D, T
khi qua biên giới sang Trung Quốc sẽ có người môi giới Trung Quốc đưa đến nơi ở và
làm việc của H ở Trám Phô, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, H sẽ liên hệ với người
môi giới để tìm việc làm trên các tàu cá cho H, D, T. Sau đó, H dặn H, T, D mang
theo đồ dùng cá nhân và mỗi người mang khoảng 4 triệu đồng làm chi phí đi đường.
Phạm Văn H nói với H, D, T bắt xe lên Quán Dốc, Hện Hậu L, tỉnh Thanh Hóa sau đó
chờ bắt xe đến Thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, và đi đến bến sông nơi giáp
ranh biên giới Việt Nam và Trung Quốc để lên đò, vượt qua sông trốn sang Trung
Quốc, H đã gọi điện thoại cho người môi giới là người Trung Quốc mà H đã sắp xếp
từ trước đến đón H, D, T ở bờ sông giáp biên giới, sau đó lên xe mô tô đi khoảng 3km
đến 4km thì đến bến xe khách. Người môi giới sắp xếp xe cho H, D, T đi đến tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc nơi H đang ở và làm việc. Sau đó, Phạm văn H đã liên hệ
với chủ tàu đánh cá tìm việc làm cho H, D, T tại đây. Sau khi sang Trung Quốc làm
việc, đến khoảng tháng 6 năm 2016 H, H, D và T về Việt Nam.
Đến tháng 8 năm 2016 (tức tháng 7/2016 âm lịch), khi H đang ở nhà thì H, D, T
tiếp tục nói với Phạm Văn H nhờ H trực tiếp đưa từ Việt Nam sang Trung Quốc để
lao động tiếp. H nhận lời đồng ý và nói với H, D, T không pH mang theo giấy tờ hay
làm thủ tục gì, chỉ chuẩn bị đồ dùng cá nhân và mỗi người chuẩn bị 4 triệu đồng nH H,
D, T chỉ góp được tổng số tiền là 5.000.000đ ( năm triệu đồng) làm chi phí để đi
đường và đưa cho H giữ để chi phí trên đường đi, số tiền còn thiếu H thống nhất với
H, D, T là H sẽ bù vào cho đủ để đi sang Trung Quốc, khi sang Trung Quốc làm việc
có lương thì H, D, T sẽ trả đủ cho H. Sau khi thống nhất xong, H hẹn mọi người 16
giờ ngày 14/8/2016 tập trung ở bến xe xã M L, Hện Hậu L để đi. Đúng hẹn, 16 giờ
ngày 14/8/2016 H cùng D, H, T tập trung tại bến xe xã M L, Hện Hậu L. Tại đây,
Phạm Văn H đã thuê một chiếc xe taxi chở H, D, H, T lên Quán Dốc đường Quốc lộ
3
1A thuộc địa phận xã Triệu L, Hậu L, tỉnh Thanh Hóa để đón xe đi ra thành phố Móng
Cái, tỉnh Quảng Ninh. H đã trả cho taxi số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Đến
khoảng 18 giờ cùng ngày H bắt xe khách chạy tuyến Nghệ An – Móng Cái, tỉnh
Quảng Ninh và cùng H, D, T lên xe để đi đến thành phố Móng Cái, khi đó H tự trả
tiền vé xe của mình là 300.000 đồng, còn H, D, T tự trả tiền vé xe. Khoảng 05 giờ
sáng ngày 15/8/2016, khi đến Thành phố Móng Cái, H cùng H, D, T vào ăn sáng
tại một quán bún phở gần cổng bến xe. Sau đó, H đã liên hệ với một người phụ nữ
ở khu vực bến xe khách để đưa H, D, H, T trốn sang Trung Quốc với chi phí 3
triệu đồng tiền Việt Nam cho một người (bao gồm tiền đi đò qua sông Ka Long,
tiền đi xe ôm và xe khách trong nội địa Trung Quốc cho đến nơi làm việc của H là
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc). H đã trả cho người phụ nữ môi giới này 12 triệu
đồng. Người phụ nữ này đã dẫn H, H, D và T ra ngoài khu vực bến xe khách và
bàn giao cho một người đàn ông, người này đã đưa H, D, H, T ra bến sông Ka
Long, đi tHền qua sông Ka Long trốn sang Trung Quốc, sau đó đi xe ôm khoảng
03 đến 04km để đón xe khách đi sâu vào nội địa Trung Quốc. Đến tối ngày
15/8/2016, H, D, H, T đến cảng Trám Phô, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc . Tại
đây, H dẫn H, D, T đi xin việc làm thuê tại các tàu cá. Phạm Văn H đi biển đánh cá
thuê khoảng hơn một tháng thì về Việt Nam, còn H, D, T tiếp tục làm đến ngày
28/12/2016 thì bị công an Trung Quốc bắt giữ, đến ngày 28/3/2017 H, D, T được
thả về Việt Nam.
Ngày 02/3/2018 Phạm Văn H đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Hện
Hậu L đầu thú và khai báo về việc đã tổ chức đưa Đồng Văn H, Nguyễn Văn T,
Hoàng Văn D xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc lao động.
Theo lời khai của Đồng Văn H, Nguyễn Văn T và Hoàng Văn D là những
người đã được H đưa đi trốn sang Trung Quốc lao động, xác định: do ở quê không
có việc làm ổn định, thu nhập thấp nên vào tháng 01/2016 và tháng 8/2016 (tức
khoảng tháng 7/2016 âm lịch), Phạm Văn H đã hai lần tổ chức cho Đồng Văn H,
Nguyễn Văn T và Hoàng Văn D trốn sang Trung Quốc lao động trái phép.
Ngày 08/3/2018 Cơ quan CSĐT Công an Hện Hậu L đã quyết định khởi
tố vụ án hình sự số 22/CSĐT và Quyết định khởi tố bị can số 39/CSĐT đối với
Phạm Văn H về tội “tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại
khoản 2 Điều 349 BLHS. Ngày 03/8/2018, Cơ quan CSĐT công an Hện Hậu L
đã kết luận điều tra vụ án, cHển hồ sơ đến VKSND Hện Hậu L để truy tố bị can
Phạm Văn H về tội “tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 349BLHS. Ngày 10/9/2018, Tòa án nhân dân Hện Hậu L
xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo Phạm Văn H 05 năm 06 tháng tù giam.
Ngày 07/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm và quyết
định hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại với lý do vi phạm thẩm quyền
điều tra. Ngày 28/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân Hện Hậu L ra Quyết định
cHển vụ án hình sự đến Cơ quan ANĐT công an tỉnh Thanh Hóa để điều tra lại
theo thẩm quyền.
4
Quá trình điều tra lại, bị cáo Phạm Văn H không thừa nhận hành vi phạm
tội của mình, nH căn cứ vào chứng cứ tài liệu thu thập được trong hồ sơ đủ cơ
sở để khẳng định Phạm Văn H đã thực hiện hành vi tổ chức đưa người khác trốn
đi nước ngoài.
Theo lời khai của Phạm Văn H tại cơ quan CSĐT Công an Hện Hậu L:
khoảng tháng 8/2016 cùng thời gian H tổ chức cho Đồng Văn H, Nguyễn Văn T,
Hoàng Văn D và Đồng Văn Công, sinh năm 1995, trú tại thôn Chiến Thắng, xã
Ngư L, Hện Hậu L, tỉnh Thanh Hóa trốn sang Trung Quốc lao động. Tuy nhiên,
tại cơ quan CSĐT Công an Hện Hậu L, Đồng Văn Công khai nhận không có
việc Phạm Văn H tổ chức cho Công trốn đi Trung Quốc. Việc Công trốn đi
Trung Quốc là do một người phụ nữ tên là Bùi Thị Tuyến, sinh năm 1974, ở
thôn Nam Vượng, xã Ngư L, Hện Hậu L, hiện nay lấy chồng và đang sinh sống
bên Trung Quốc hướng dẫn chỉ đường cho Đồng Văn Công trốn sang Trung
Quốc và Công đã đi cùng ngày, cùng xe với H, H, D, T từ Thanh Hóa đến thành
phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh vào tháng 8/2016. Do đó, Cơ quan ANĐT
Công an tỉnh Thanh Hóa không có cơ sở để xử lý về hành vi này đối với Phạm
Văn H.
Theo lời khai của Nguyễn Văn T và Hoàng Văn D, tháng 01/2016 trốn
sang Trung Quốc cùng với T còn có anh Sơn ở H L; khoảng tháng 8/2016 trốn
sang Trung Quốc cùng với D còn có anh Hiếu ở Ngư L. Tuy nhiên, quá trình
điều tra xác định, Phạm Văn H không tổ chức đưa anh Sơn và anh Hiếu trốn
sang Trung Quốc. Do đó, cơ quan ANĐT Công an tỉnh Thanh Hóa không đủ cơ
sở để xử lý hành vi này.
Đối với người phụ nữ ở khu vực bến xe khách thành phố Móng Cái, tỉnh
Quảng Ninh là người môi giới đã liên hệ với người đàn ông cũng ở khu vực này
đưa H, H, D, T vượt biên trốn sang Trung Quốc thì Phạm Văn H không biết tên,
tuổi, địa chỉ cụ thể của hai người này. Do đó, cơ quan ANĐT Công an tỉnh
Thanh Hóa không đủ cơ sở để xác M, làm rõ và xử lý đối với hai đối tượng này.
Đối với người môi giới bên Trung Quốc mà H đã liên hệ trước và sắp xếp
để đưa H, D, T sau khi vượt biên sang Trung Quốc đến chỗ ở và làm việc của H
vào tháng 01/2016 thì H không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể ở đâu. Do đó, Cơ
quan ANĐT Công an tỉnh Thanh Hóa không đủ cơ sở để xác M, làm rõ và xử lý
đối tượng này.
Đối với hành vi của các anh Đồng Văn H, Nguyễn Văn T và Hoàng Văn D
đã hai lần trốn sang Trung Quốc lao động là vi phạm quy định của pháp luật về
xuất cảnh, vì vậy cần phải xử lý hành chính về hành vi này. Tuy nhiên hành vi
của các anh H, T và D xảy ra từ tháng 8/2016, tính đến nay đã hết thời hiệu xử
lý vi phạm hành chính (theo Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012).
5
Vì vậy giao cho chính quyền địa phương nơi các đối tượng cư trú tuyên truyền,
giáo dục phòng ngừa vi phạm.
*Tại bản cáo trạng số: 59/CT- VKS-P1 ngày 01 tháng 8 năm 2019 của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội “Tổ
chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.
*Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Văn H khai báo toàn bộ hành vi đã thực
hiện như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hậu Lộc vẫn giữ nguyên quyết
định truy tố bị cáo Phạm Văn H như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử
áp dụng điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ luật hình sự năm 2015.
*Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi
nước ngoài "
*Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 349; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 BLHS năm 2015.
*Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H từ 05 đến 06 năm tù (được trừ đi 01 tháng
03 ngày tạm giữ tạm giam trước đó). Thời hạn tù được tính từ ngày 21/12/2018.
*Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn, lúc thực hiện
hành vi phạm tội không có mục đích vụ lợi, thu nhập không ổn định nên không
áp dụng hình phạt bổ sung.
*Quan điểm của Luật sư bào chữa của bị cáo Phạm Văn H: Bị cáo mồ côi
cả cha và mẹ từ nhỏ, không được học hành chu đáo, nhận thức pháp luật hạn
chế, nên đã hướng dẫn cho bạn bè cùng sang Trung Quốc lao động cùng với
mình, sau khi nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã
đến cơ quan Công an để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, trong
quá trình tại ngoại bị cáo đã tố giác để cơ quan CSĐT Công an Hện Ngọc Lặc
phát hiện bắt một nhóm người phạm tội đánh bạc, nên đề nghị HĐXX áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều
54 BLHS xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được
hưởng án treo để bị cáo được về cùng gia đình mà tu dưỡng rèn luyện bản thân
trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội sau này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Trong giai đoạn điều tra và truy tố, Cơ quan điều tra Công
anh tỉnh Thanh Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa;
Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục như ban hành các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý
6
kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cơ
bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa và lời khai của người làm
chứng cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở
kết luận: Phạm Văn H trốn sang Trung Quốc làm ăn từ năm 2011 đến năm 2016
H thường xuyên đi về Việt Nam nên H biết rất rõ đường đi lối lại, cũng như
cách thức đi từ Việt Nam sang Trung Quốc. Do đó ngày 08/01/2016 Phạm Văn
H dùng điện thoại hướng dẫn cho các anh H, anh D, anh T sang Trung Quốc;
Lần thứ hai vào ngày 14/8/2016 sau khi bảo các anh H, anh D, anh T chuẩn bị
quần áo, thuốc men và tiền, H trực tiếp đi cùng các anh H, anh D, anh T từ bến
xe M L qua biên giới tỉnh Quảng Ninh sang Trung Quốc.
Hành vi mà bị cáo Phạm Văn H thực hiện đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội
“Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài ” đúng quy định tại điểm b khoản 2
Điều 275 Bộ luật hình sự (năm 1999). NH theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội và khoản 3
Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 (theo hướng có lợi cho bị cáo) thì hành vi nêu
trên của Phạm Văn H bị khởi tố theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ
luật hình sự (năm 2015).
Như vậy Cáo trạng số: 59/CT- VKS-P1 ngày 01/8/ 2019 của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội: “ Tổ chức cho
người khác trốn đi nước ngoài ” theo quy định tại khoản điểm b khoản 2 Điều
349 Bộ luật hình sự(năm 2015) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo
thực hiện:
Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm
cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản
lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh. Hành vi của bị cáo là
những yếu tố tạo nên sự mất ổn định về an ninh trật tự tại khu vực biên giới hai
nước. Vì vậy, cần pH xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc
điểm nhân thân của bị cáo thấy rằng:
Sau khi phạm tội, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật
nên bị cáo đã đến Cơ quan Công an Huyện Hậu Lộc đầu thú. Trong quá trình
điều tra cũng như tại phiên toà mặc dù nhận thức chưa đầy đủ về pháp luật nH bị
cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội; Ngày 25/7/2018 (trong thời gian tại ngoại)
bị cáo đã phát hiện và tố giác để Cơ quan CSĐT Công an Hện Ngọc Lặc bắt một
nhóm người đánh bạc. Đây được xem là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình
7
sự “ Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm phát hiện tội
phạm” nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải
chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Phạm Văn H sinh ra và lớn lên được gia đình nuôi ăn học hết lớp 6/12 sau
đó nghỉ học và lao động tự do tại địa phương. Bị cáo đang còn trẻ nH không
chịu tìm công việc chân chính để lao động mà trốn sang Trung Quốc và tổ chức
cho người khác sang Trung Quốc trái phép để lao động mà ngay từ những năm
2011 đã thường xuyên thực hiện việc trốn sang Trung Quốc trái phép cũng như
việc tổ chức cho những người khác trốn sang Trung Quốc để lao động trái phép
cần được xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Trên cơ sở đánh giá toàn diện tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi
phạm tội cũng như đặc điểm nhân thân của bị cáo. Để đạt được mục đích giáo
dục riêng và phòng ngừa chung , nên cần pH cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã
hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở
thành người dân lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với số tiền 5.000.000 đ (năm triệu đồng) mà các anh H, D, T góp
được tuy có đưa cho Phạm Văn H số tiền này chủ yếu phục vụ cho việc đi lại,
sinh hoạt, tàu xe, tiền đò từ Việt Nam sang Trung Quốc cho những người cùng
đi. Bị cáo không được hưởng lợi nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn, lúc thực
hiện hành vi phạm tội không có mục đích vụ lợi, thu nhập không ổn định nên
không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
* Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 349; Điểm s , t khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 38 Bộ luật hình sự (năm 2015).
Điều 136; Điều 331; 333; 337 Bộ luật tố tụng hình sự.
Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày
30/12/2016 về án phí và Lệ phí Tòa án.
* Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “ Tổ chức cho người khác trốn đi
nước ngoài ”
* Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H 05 (năm) tù được trừ đi 01 tháng 03
ngày tạm giữ, tạm giam trước đó, còn phải chấp hành 04 (bốn) năm, 10 (mười)
tháng, 27 (hai mươi bảy) ngày tù. Hạn tù tính từ ngày 21/12/2018.
*Về Án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn H phải nộp 200.000đ án HSST.

8
* Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND Hện Hậu L;
- Công an Hện Hậu L;
- TAND tỉnh Thanh Hoá;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa; (Đã Ký)
- CA Tỉnh Thanh Hóa;
- Bị cáo;
- Chị cục THADS Hện HL;
- Trại Tạm giam Nguyễn Xuân Chuyên
CA tỉnh Thanh Hóa
- Lưu hồ sơ.
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT ngày 04/09/2025 của TAND tỉnh Sơn La về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 31/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm