Bản án số 576/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 576/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 576/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 576/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 576/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 576/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Vũ Thị B; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2024/DS- ST, ngày 11 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 576/2024/DS-PT
Ngày 18/11/2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất và hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Hoa;
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Mạnh Hùng;
Ông Ngô Quang Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thảo Trang - Thư ký Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án Dân sự thụ lý số
460/2024/TLPT-DS, ngày 02 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, do Bản án dân sự sơ thẩm
số 34/2024/DS-ST, ngày 05/11/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 12387/2024/QĐ-PT,
ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Vũ Thị B, sinh năm 1954.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Đặng Quốc B1 (là
con bà B), sinh năm 1981 (Hợp đồng ủy quyền số chứng thực 160 quyển số
01/2023 – SCT/HĐ,GĐ ngày 24 tháng 11 năm 2023).
Cùng địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Có mặt anh B1;
vắng mặt bà B.
2
2. Bị đơn: Ông Đặng Văn T (C), sinh năm 1964 và bà Đặng Thị N, sinh
năm 1971; Cùng địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Ông T vắng
mặt; bà N có mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn: Ông Đặng Duy H; sinh năm
1992; địa chỉ: thôn Đ, xã X, huyện N ; tỉnh Hải Dương; có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. UBND huyện N, tỉnh Hải Dương. Người đại diện theo pháp luật: Ông
Phan Nhật T1 - Chức vụ: Chủ tịch UBND huyện N. Vắng mặt, đề nghị xét xử
vắng mặt.
3.2. UBND xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Người đại diện theo pháp
luật: Ông Đặng Huy H1 - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã H. Vắng mặt, đề nghị
xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn Vũ Thị B thông qua người đại diện
Đặng Quốc B1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là
bà Vũ Thị B trình bày:
Năm 1981, UBND xã H cấp đất cho gia đình bà B và gia đình ông T.
Theo trích lục bản đồ đo đạc và sổ mục kê theo Chỉ thị 299, ông T được cấp đất
tại thửa 70, tờ bản đồ số 01, diện tích là 354m
2
, gia đình bà B được cấp đất tại
thửa 71 liền kề, diện tích là 381 m
2
Ngày 03/8/2011, vợ chồng ông T bà N được UBND huyện N cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 495728 đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ
số 02 tại thôn Đ, xã H, huyện N, có diện tích là 499 m
2
. Kích thước các cạnh của
thửa đất, cạnh giáp nhà ông Đ1 bà B dài 32,5m; cạnh giáp nhà ông B2, ông X
dài 14,3m, cạnh giáp đường xóm dài 33m, cạnh giáp nhà ông K dài 16,2m. Theo
biên bản khảo sát ranh giới, mốc giới đất ngày 28/12/2021, thì cạnh giáp nhà
ông B2, ông X dài 16,4m. Bị lệch 2,1m so với thông số được thể hiện trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhà ông T.
Diện tích đất nhà ông T theo giấy chứng nhận tăng 145m
2
so với diện tích
trong sổ mục kê nhưng không tiến hành xác minh. Đất của gia đình ông T có
nguồn gốc ông cha để lại, trong sổ mục kê 1981, đứng tên bà Vũ Thị Đ. Sau thời
gian dài lấn chiếm, lấn chiếm cả lối đi chung và lấn một phần sang đất gia đình
bà B thì diện đất ông T tăng lên thành 499 m
2
, xung quanh nhà ông T phần lớn
đất đã có chủ, không có đất bỏ trống hoặc đất công. Khi làm hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND xã không tiến hành thẩm định, kiểm tra,
xác định nguyên nhân vì sao lại có sự tăng diện tích, liệu có việc lấn chiếm
3
không. Đất đang có tranh chấp với gia đình bà B nhưng vẫn được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể gia đình bà B và ông T có tranh chấp về
ranh giới đất từ năm 2001, thể hiện tại bản đồ đo vẽ hiện trạng năm 2001, gia
đình bà B đã có ý kiến và đơn thư từ trước năm 2001. Gia đình ông T thực hiện
thủ tục cấp giấy chứng nhận, gia đình bà B không biết, không ký vào biên bản
xác định ranh giới, mốc giới của đơn vị đo đạc. Việc cấp giấy chứng nhận cho
gia đình ông T không đúng quy định, ông T đang lấn chiếm đất của hộ liền kề là
gia đình bà B.
Diện tích đất của gia đình bà B chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thửa đất chỉ giáp ranh đất nhà ông T và ông X, còn lại giáp ao và rãnh
thoát nước. Ngoài việc tranh chấp đất với gia đình ông T, không tranh chấp đất
với ai khác. Gia đình bà B không lấn chiếm phần rãnh thoát nước phía sau, đối
với phần ao gia đình cũng không lấn chiếm.
Về việc sử dụng đất theo ranh giới, mốc giới đất giữa gia đình bà B và gia
đình ông T, do hai gia đình được giao đất từ năm 1981, anh B1 không xác định
được ranh giới mốc giới, bà B nói lại với anh B1 tranh chấp ranh giới mốc giới
đất từ trước năm 2001. Anh B1 không xác định được tranh chấp từ khi nào. Gia
đình bà B có xây bếp và chuồng lợn sau năm 1981, không xác định được thời
gian cụ thể, khi xây có tường bao tiếp giáp phần đất tranh chấp với nhà ông T.
Năm 2021 gia đình bà B đã phá dỡ toàn bộ bếp, chuồng lợn (hiện đã làm sân);
tuy nhiên tường móng vẫn còn, khi thẩm định đã đào thuôn xác định còn tường
bếp, chuồng lợn. Đối với phần tường gió nối tiếp tường bếp, chuồng lợn; ông T
khai xây năm 1991 thì anh B1 không biết, anh B1 chỉ biết trước đó có hàng dâm
bụt. Sau khi ông T xây tường gió, gia đình bà B sử dụng đất theo ranh giới
tường gió này. Hai bên gia đình có tranh chấp to tiếng cãi nhau, nhưng không
đơn từ gì. Năm 2001, đơn vị đo vẽ bản đồ đã không xác định ranh giới mốc giới
đất giữa hai gia đình do tranh chấp. Nếu xác định gia đình ông T lấn chiếm sang
2,1m đất thì phần nhà ở của gia đình ông T xây sang phần đất gia đình bà B
1,75m; khi đó là do bố mẹ anh B1 (ông Đ1 bà B) tranh chấp to tiếng với gia
đình ông T, đó là việc của thế hệ trước, anh B1 không ý kiến gì, bố mẹ anh B1
cũng không có đơn từ gì.
Bà B khởi kiện đề nghị Tòa án:
- Buộc ông T, bà N trả lại diện tích đất đã lấn chiếm tại vị trí ranh giới
giữa hai thửa đất, khoảng 68,92m
2
(2,1m mặt tiền x 32,82m dài) tại thửa số 71
tại thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương.
- Yêu cầu hủy GCNQSD đất số BĐ 495728 do UBND huyện N cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, bà N đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ
số 2, diện tích tích 499 m
2
tại thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương;
4
Sau khi có kết quả thẩm định và định giá, bà B có đơn khởi kiện bổ sung
đề nghị ông T, bà N trả 69,79 m
2
đất lấn chiếm, có giá là 279.160.000 đồng.
Bị đơn ông Đặng Văn T và bà Đặng Thị N trình bày: Gia đình ông bà
không lấn chiếm đất. Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đất
gia đình ông bà có nguồn gốc của ông cha để lại đã được UBND huyện cấp giấy
chứng nhận. Gia đình ông bà sử dụng đất theo hiện trạng như bây giờ từ năm
1981 đến nay, sử dụng theo hiện trạng tường bao gia đình đã xây dựng để phân
ranh giới đất với gia đình ông Đ1 bà B. Tường bao do gia đình ông bà xây từ
năm 1991, khi xây dựng tường bao ông Đ1 có ra chứng kiến, không ai phản đối
hay có tranh chấp gì. Bếp và chuồng lợn nhà ông Đ1 được xây dựng từ năm nào,
ông bà không nhớ, nhưng đã xây trước khi gia đình ông bà xây tường bao năm
1991. Năm 1986, gia đình xây nhà ở; đến năm 2000 sửa chữa lại nhà ở, đã phá
nhà cấp 4 xây nhà ở mái bằng trên nền móng nhà cũ. Việc xây nhà ở năm 1986
cũng như sửa nhà năm 2000, gia đình ông Đ1, bà B đều không có ý kiến gì.
Giữa gia đình ông bà và gia đình ông Đ1, bà B không có tranh chấp đất. Ngoài
lần chính quyền xã, thôn báo gọi ông bà đến giải quyết tranh chấp đất với gia
đình bà B trong vụ án này, trước đây gia đình ông bà chưa bao giờ được cơ quan
nhà nước, tổ chức nào báo gọi gia đình ông bà đến giải quyết tranh chấp đất với
gia đình bà B. Diện tích đất gia đình ông bà có tiếp giáp đất gia đình ông B2 và
đường xóm cũng không có tranh chấp. Toàn bộ khuôn viên đất gia đình ông bà
đều đã xây tường bao từ năm 1991 hiện vẫn sử dụng, chỉ có một đoạn ngắn tại
ranh giới tiếp giáp đất gia đình bà B chưa có tường bao. Gia đình ông bà đề nghị
giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất như hiện nay.
Quan điểm của UBND huyện N:
Theo hồ sơ đăng ký thực hiện Chỉ thị 299/CT-TTg, gồm bản đồ đo đạc
thực hiện chỉ thị 299 và sổ mục kê ruộng đất; thửa đất đã được cấp giấy chứng
nhận đứng tên ông C bà N được xác định là thửa đất số 70, tờ bản đồ số 01, diện
tích 354 m², loại đất “T” - thổ cư, kê khai tên chủ sử dụng đất là của cụ Vũ Thị
Đ (mẹ đẻ ông Đặng Văn T). Theo sổ đăng ký ruộng đất do UBND xã H lập ngày
30/10/1985, tại số thứ tự 26, xác định là thửa đất số 70, tờ bản đồ số 01, diện
tích 456 m², loại đất thổ cư, hình thức sử dụng chính thức, kê khai đăng ký tên
chủ sử dụng ruộng đất là cụ Vũ Thị Đ.
Theo bản đồ đo đạc thực hiện Chỉ thị 299 và sổ mục kê ruộng đất; thửa
đất hộ bà Vũ Thị B đang sử dụng được xác định là thửa đất số 71, tờ bản đồ số
01, diện tích 381 m², loại đất “T” - thổ cư, kê khai tên chủ sử dụng đất là của
ông Đặng Văn Đ1 (chồng bà B). Theo sổ đăng ký ruộng đất do UBND xã H lập
ngày 30/10/1985, tại số thứ tự 27, xác định là thửa đất số 71, tờ bản đồ số 01,
5
diện tích 477 m², loại đất thổ cư, hình thức sử dụng chính thức, kê khai đăng ký
tên chủ sử dụng ruộng đất là ông Đặng Văn Đ1.
Theo hồ sơ địa chính đo đạc đất dân cư năm 2001. Thửa đất gia đình ông
T bà N và bà B đang sử dụng được xác định gồm 02 thửa đất: thửa đất số 12 và
thửa đất số 13 thuộc tờ bản đồ số 02, do có tranh chấp về mốc giới giáp ranh nên
được đo gộp chung, không phân định ranh giới từng thửa, có tổng diện tích là
1.197,4m².
Trên cơ sở kết quả đo đạc và hồ sơ địa chính đo đạc bản đồ đất dân cư
năm 2001. UBND xã H đã tiến hành lập hồ sơ, hướng dẫn người sử dụng đất kê
khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho các hộ gia
đình, cá nhân sử dụng đất trên địa bàn xã; trong đó có kê khai, đăng ký cấp
GCNQSD đất cho ông Đặng Văn T tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 02 với diện
tích kê khai đăng ký cấp GCNQSD đất là 499m². Hồ sơ cấp GCNQSD đất do
UBND xã H lập gửi kèm gồm: Thông báo của UBND xã H lập ngày 20/03/2011
về việc hộ gia đình ông Đặng Văn T tự kiểm tra thửa đất đang sử dụng để lập hồ
sơ cấp GCNQSD đất. Phần ký tên vào kết quả tự kiểm tra của hộ gia đình do bà
Đặng Thị N (vợ ông T) thay mặt ký tên chủ hộ. Đơn xin cấp GCNQSD đất đứng
tên kê khai người xin cấp GCN là ông Đặng Văn T và bà Đặng Thị N; Phần ký
người làm đơn xin cấp GCNQSD đất do bà Đặng Thị N đại diện ký tên ngày
20/3/2011. Xét tờ trình số 08/TTr-UBND ngày 28/6/2011 của UBND xã H, tờ
trình số 85/TTr-TNMT ngày 21/7/2011 của Phòng TN và MT; ngày 03/8/2011,
UBND huyện N ban hành Quyết định số 950/QĐ-UBND cấp GCNQSD đất cho
180 hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trên địa bàn xã H; trong đó hộ ông Đặng
Văn T được cấp GCNQSD số BĐ 495728 đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ số
02, diện tích 499 m²; mục đích sử dụng: đất ở 300 m², đất trồng cây lâu năm 199
m².
Để xác định diện tích đất tranh chấp thì phải xác định được ranh giới, mốc
giới sử dụng đất giữa 02 hộ. Theo quy định tại Điều 11 Thông tư số
25/2014/TT-BTNMT, ngày 19/4/2014 của Bộ T2 quy định về bản đồ địa chính
thì việc xác định ranh giới, mốc giới giữa 02 hộ sử dụng đất thuộc trách nhiệm
của người đang sử dụng đất; ranh giới thửa đất được xác định theo hiện trạng
đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp GCN, bản án của Toà án có
hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, quyết
định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất. Về
yêu cầu của bà B đề nghị huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 495728
do UBND huyện N cấp cho ông Đặng Văn T và bà Đặng Thị N đối với thửa đất
số 12, tờ bản đồ số 02, diện tích 499m². Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo
quy định của pháp luật.
6
UBND xã H cung cấp: Theo sổ đăng ký ruộng đất năm 1985, cụ Đ (mẹ
ông T) được đăng ký là chủ sử dụng đất 456m², khi làm thủ tục cấp GCNQSD
đất năm 2011 cho ông T thì diện tích đất là 499m², tăng 43 m². Nguyên nhân
tăng, do hộ gia đình ông T sử dụng cả diện tích đường đi tiếp giáp cạnh phía
Nam thửa đất của hộ ông T, giáp với hộ ông X và hộ ông B2 hiện tại. Theo kết
quả đo vẽ hiện trạng ngày 26/01/2024 của Tòa án, diện tích đất ông T sử dụng là
524,9m², tăng 25,9m² so với Giấy chứng nhận. Đối chiếu hồ sơ đo vẽ hiện trạng
và GCNQSD đất đã cấp cho hộ ông T, các cạnh thửa đất: Chiều dài cạnh phía
Bắc: 13.70m + 2.10m = 15.8m, giảm 0.4m so với giấy chứng nhận QSD đất
(16.20m). Chiều dài cạnh phía Nam: 14.36m + 2.10m = 16.46, tăng 2.16m so
với giấy chứng nhận QSD đất (14.30m). Chiều dài cạnh phía Đông: 32.31m,
giảm 0.19m so với giấy chứng nhận QSD đất (32.50m). Chiều dài cạnh phía
Tây: 32.97m, giảm 0.03m so với giấy chứng nhận QSD đất (33.00m). Về chiều
dài các cạnh thửa đất theo đo vẽ hiện trạng ngày 26/01/2024 có số đo cạnh thửa
đất sai lệch so với thông tin cạnh thửa đất đã cấp GCNQSD đất. Do vậy, khi tính
toán diện tích hiện trạng đã tăng lên 25,9m² so với diện tích đã cấp GCNQSD
đất, nguyên nhân do sai số trong đo đạc. Việc gia đình ông T quản lý và sử dụng
đất không vi phạm vào quy hoạch của địa phương, trong quá trình sử dụng đất
do đường đi tiếp giáp với cạnh phía Nam của thửa đất hộ ông T không còn sử
dụng, hộ ông T đã lấn đất đường đi do UBND xã quản lý, khi người sử dụng đất
ông T bà N kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận lần đầu đã được UBND huyện
cấp giấy chứng nhận năm 2011. Gia đình ông T không có tranh chấp đất với các
hộ liền kề khác. Về phần diện tích đất tăng thêm do sai số trong quá trình đo đạc
thực hiện cấp GCNQSD đất, do vậy đủ điều kiện để chỉnh lý biến động theo quy
định.
Kết quả xem xét thẩm định và định giá tài sản:
Thửa đất gia đình ông T đang quản lý sử dụng có diện tích là 457,3 m
2
+
67,6 m
2
= 524,9m
2
. Thửa đất của gia đình ông T, phía Bắc giáp mương, phía
Tây giáp ngõ đi, phía Nam giáp nhà ông B2, ông X đều đã xây tường bao, phía
Đông giáp đất gia đình bà B, đã xây tường bao một đoạn phía sau nhà ở và một
đoạn phía trước nhà ở. Ông T xác định gia đình ông xây tường bao từ năm 1991.
Tài sản trên đất gồm có nhà ở 2 tầng, 01 chuồng gà xây năm 1991, sân; tường
bao phía Bắc, phía Tây, phía Nam của thửa đất xây năm 1991; tường bao phía
Đông tiếp giáp thửa đất gia đình bà B, gồm 01 đoạn tường dài 6,87m, cao 1,2m
của gia đình ông T (phía trước nhà ở), 01 đoạn tường (phía sau nhà ở) dài
6,31m, cao 1,2m của gia đình ông T. Diện tích đất gia đình bà B quản lý sử dụng
là 833m
2
. Tài sản trên đất gồm có nhà ở 2 tầng, bếp, sân.
7
Phần diện tích đất đang tranh chấp, theo bà B trình bày gia đình ông T lấn
chiếm sang có chiều rộng 2.1m x với chiều dài ranh giới đất giữa hai gia đình,
được xác định là 67,6m
2
đất.
Tòa án đã tiến hành đào, thuôn đất tại 4 vị trí trên đường ranh gới đất theo
hiện trạng, thể hiện:
Vị trí (hố) 1: Đào tại phần đất vườn nhà ông T đang quản lý tiếp giáp với
tường nhà lợn cũ (hiện nhà lợn gia đình bà B đã phá làm sân) của gia đình bà B
được xây năm 1995 tồn tại đến nay. Đào sâu so với mặt vườn 62cm, kích thước
37 x 30cm, thể hiện móng tường nhô ra 02cm.
Vị trí (hố) 2: Đào tại phần đất vườn gia đình ông T đang quản lý tiếp giáp
với tường gia đình bà B xây năm 2021 (để làm sân). Theo anh B1 xác định bức
tường này xây trên bức tường nhà bếp cũ của gia đình bà B đã phá dỡ. Đào sâu
35cm so với mặt vườn, kích thước 30 x 45 cm thể hiện bức tường xây thẳng
đứng.
Vị trí (hố) 3: Đào tại phần đất gia đình bà B đang quản lý tiếp giáp với
bức tường bao của gia đình ông T xây dựng từ năm 1991. Đào sâu 60cm, kích
thước 70 x 45 cm, thể hiện phần móng nhô ra so với bức tường 6 cm. Bức tường
có các trụ cột thể hiện phần tai tường nhô ra 10 cm so với mặt tường.
Vị trí (hố) 4: Đào tại phần đất gia đình bà B đang quản lý tiếp giáp với
bức tường bao của gia đình ông T xây dựng từ năm 1991. Đào sâu 45cm, kích
thước 50 x 25 cm, thể hiện móng nhô ra so với bức tường 5 cm. Trên bức tường
có hàng gạch xây quay ngang thể hiện phần tai tường nhô ra 5 cm so với mặt
tường.
Đường ranh giới hiện trạng đất giữa hai hộ gia đình, đo vẽ theo hiện trạng
mép ngoài của phần tai tường, cột tường của bức tường bao của gia đình ông T
và cách mép tường chuồng lợn cũ (hiện là tường bao sân) của gia đình bà B
02cm.
Hội đồng định giá xác định giá trị đất ở tại vị trí đất có tranh chấp là
4.000.000đồng/1m
2
; giá trị đất trồng cây lâu năm là 80.000đ/1m
2
.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 34/2024/DS-ST, ngày 11 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 26, 34, 147, 157 và 165, Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 175, Điều 176 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 50 Luật Đất đai
năm 2003; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Toà án.
8
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị B về việc buộc ông
Đặng Văn T, bà Đặng Thị N phải trả 69,79 m
2
đất.
Xác định ranh giới đất giữa thửa đất số 12, tờ bản đồ số 02 tại thôn Đ, xã
H, huyện N, tỉnh Hải Dương của gia đình ông T, bà N với thửa đất số 13 của gia
đình bà B là đoạn thẳng nối bởi các điểm A19, A21, A22, A23, A24, A25, A26
và A4. Có sơ đồ kèm theo.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị B về việc đề nghị
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 03/8/2011 do UBND huyện N cấp
cho ông Đặng Văn T (Chí) và bà Đặng Thị N đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ
số 02, diện tích 499 m2.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác
và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 15 tháng 7 năm 2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
là anh Đặng Quốc B1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là nha Đặng Quốc B1 có ý kiến:
Giữ nguyên nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của bà Vũ Thị B. Căn cứ kháng cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa không căn cứ
vào hồ sơ pháp lý. Căn cứ vào ý kiến của UBND huyện N, tại mục 1.3, thửa 12,
13 do có tranh chấp về mốc giới giáp ranh nên đo gộp chung 2 thửa có tổng diện
tích 1.197m
2
, đứng tên người sử dụng gồm 2 hộ. Mục 3.1 việc cấp GCN quyền
sử dụng đất cho hộ ông T, hồ sơ không đủ thành phần theo quy định vì tờ bản đồ
số 2 thể hiện đất còn tranh chấp. Căn cứ Điều 203, Điều 101 Luật Đất đai 2013
thì việc cấp GCN cho hộ gia đình, cá nhân đối với đất không có giấy tờ thì phải
sử dụng ổn định, không có tranh chấp. Đất không có tranh chấp là điều kiện bắt
buộc để được cấp GCN. Căn cứ số liệu trong sổ mục kê đứng tên cụ Đ thì GCN
cấp cho ông T có diện tích không đúng. Diện tích đo thực tế tăng 170,9m
2
so với
sổ mục kê, nhưng không được làm rõ diện tích tăng thêm. Diện tích tăng thêm
có một phần lấn chiếm sang đất của nguyên đơn, yêu cầu trả là 69,7m
2
. Do vậy,
việc cấp GCN cho ông T khi đất đang tranh chấp là không đúng quy định, yêu
cầu hủy GCN cấp cho ông T.
Đại diện bị đơn có ý kiến: Bản đồ năm 2001 có ghi tranh chấp đất giữa 2
gia đình, nhưng thực tế không có sự tranh chấp. Năm 2011, gia đình bị đơn nhận
được thông báo làm thủ tục cấp GCN theo đợt, có tổng 170 hộ được cấp GCN
chứ không phải mình gia đình bị đơn. Thời điểm làm thủ tục cấp GCN không ai
yêu cầu ký giáp ranh. Tứ cận thửa đất có một cạnh tăng 2,1m là do gia đình bị
9
đơn sử dụng ra lối đi chung, gia đình đã đóng thuế đầy đủ, còn 3 cạnh còn lại
chiều dài đều giảm. Do vậy, bản án sơ thẩm đã xét xử đúng, bị đơn đồng ý. Đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn.
Bà N có ý kiến: Đồng ý với ý kiến của người đại diện.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên
toà, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Về nội dung: Bản án sơ thẩm giải quyết, xét xử đúng, đảm bảo quyền lợi
của các đương sự. Kháng cáo của Nguyên đơn không có căn cứ chấp nhận. Đề
nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thẩm tra
công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày, tranh luận của các bên đương sự;
quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà
Nội. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1] Đơn kháng cáo của anh Đặng Quốc B1 được làm tại thời điểm anh B1
không được bà B ủy quyền. Tuy nhiên, cùng ngày 15/7/2024 anh B1 có đơn
kháng cáo thì bà B có đơn xin miễn án phí dân sự phúc thẩm gửi Tòa án nhân
dân tỉnh Hải Dương. Đến nay, tại Đơn đề nghị ngày 05/11/2024, bà B khẳng
định đơn kháng cáo anh B1 viết, ký tên gửi Tòa án cấp sơ thẩm là ý chí của bà B
và tại Hợp đồng ủy quyền ngày 01/11/2024, bà B tiếp tục ủy quyền cho anh B1
tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm. Do vậy, có căn cứ xác định đơn kháng
cáo anh B1 lập và ký tên là ý chí, nguyện vọng của bà B, nên cần được chấp
nhận xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Sự có mặt của các đương sự, người tham gia tố tụng đủ điều kiện tiến
hành xét xử vụ án theo Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa đại
diện của Nguyên đơn đề nghị hoãn phiên tòa để mời luật sư, đây không phải là
căn cứ hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
nên đề nghị không được chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị B:
[4] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ Tòa án đã thu thập, đủ căn cứ xác
định gia đình cụ Đ (nay là ông T, bà N) quản lý, sử dụng thửa đất số 70, gia đình
ông Đ1, bà B quản lý, sử dụng thửa đất số 71 từ khoảng năm 1981; hai thửa đất
liền kề, giáp ranh tại phía Đông của thửa đất số 70, phía Tây của thửa đất số 71.
10
Khi bắt đầu sử dụng đất, hai gia đình đều không có tài liệu, chứng cứ nào về
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bàn giao đất, mô tả, xác định ranh giới,
mốc giới, chiều dài, kích thước các cạnh tứ cận của thửa đất số 70, thửa đất số
71. Quá trình sử dụng đất, hai gia đình chưa thực hiện việc chuyển quyền sử
dụng đất cho người khác, chưa ký giáp ranh xác nhận về ranh giới, mốc giới của
hai thửa đất. Theo hồ sơ đăng ký ruộng đất năm 1985 diện tích đất của gia đình
ông T sử dụng là 456m
2
, diện tích đất của gia đình bà B sử dụng là 477 m
2
. Theo
hồ sơ đo đạc đất dân cư năm 2001, do hai hộ gia đình không thống nhất ranh
giới đất nên đoàn đo đạc đo gộp chung diện tích hai thửa đất là 1.197,4m² (diện
tích hai thửa đã tăng 264,4m
2
). Năm 2011, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo đợt đại trà tại UBND xã H. UBND huyện N đã cấp giấy chứng
nhận cho 180 hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn xã, trong đó có hộ ông T bà N sử
dụng 499m
2
(tăng 43m
2
) (theo UBND xã cung cấp, hộ ông T lấn chiếm một
phần lối đi tại phía Nam của thửa đất do không còn sử dụng làm lối đi). Theo
kết quả thẩm định ngày 26/01/2024, diện tích đất của gia đình ông T sử dụng là
524,9m
2
; chiều dài các cạnh của thửa đất, diện tích đều thay đổi so với giấy
chứng nhận được cấp năm 2011 (chiều dài cạnh phía Bắc, phía Đông, phía Tây
đều giảm, cạnh phía Nam tăng, diện tích tăng 24,9m
2
, UBND xã cung cấp do sai
số đo đạc); diện tích đất của gia đình bà B sử dụng hiện trạng là 833 m
2
. Như
vậy, số liệu về diện tích các thửa đất phản ánh trên hồ sơ, bản đồ qua các thời
kỳ, số liệu về diện tích, chiều dài tứ cận của thửa đất phản ánh trong GCNQSD
đất của gia đình ông T, bà N không phải là chứng cứ duy nhất để xác định ranh
giới, mốc giới đất và đánh giá có hay không việc lấn đất chiếm đất giữa các hộ
gia đình. Do vậy, xét thấy cần căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất, quá trình quản
lý và sử dụng đối với các thửa đất và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập để
xác định ranh giới, mốc giới đất, đánh giá về việc lấn chiếm đất.
[5] Từ năm 1981 đến trước năm 2001, không có tài liệu, chứng cứ về việc
hai hộ gia đình có tranh chấp về đất đai. Theo bản đồ đo vẽ năm 2001, thể hiện
do hai hộ gia đình không thống nhất được ranh giới, mốc giới đất nên đoàn đo
vẽ đã đo vẽ diện tích chung hai thửa đất của hai hộ gia đình. Tuy nhiên, từ năm
2001 đến trước khi phát sinh tranh chấp đất trong vụ án này, không có tài liệu
nào phản ánh một trong hai gia đình đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết về tranh chấp đất đai. Như vậy, hai gia đình vẫn sử dụng ổn định đất
từ năm 1981, hiện trạng sử dụng như hiện nay. Không có tài liệu về việc một
trong hai gia đình thay đổi ranh giới, mốc giới đất giáp ranh trong quá trình sử
dụng đất. Theo kết quả xem xét thẩm định ranh giới, mốc gới đất hai gia đình sử
dụng theo hiện trạng, được xác định là đoạn thẳng nối bởi các điểm A19, A21,
A22, A23, A24, A25, A26 và A4. Trong đó, đoạn thẳng A19, A21 đến A22 xác
11
định theo phần tường nhà lợn còn lại của gia đình bà B xây trong khoảng thời
gian sau năm 1985 trước năm 1990 và phần tường làm sân được xây dựng trên
tường nhà bếp cũ của gia đình bà B; đoạn thẳng từ A22 đến A23 và A25 đến
A26, A4 được xác định theo tường bao gia đình ông T xây dựng từ năm 1991.
Mặt khác, nếu xác định theo nguyên đơn trình bày về việc gia đình ông T sử
dụng đất lấn sang phần đất gia đình bà B có chiều rộng 2,1 m thì phần nhà ở của
gia đình ông T (được xây dựng từ năm 1986, sửa chữa xây dựng lại trên nền
móng nhà cũ từ năm 2000) xây trên phần đất lấn chiếm có chiều rộng là 1.75m
mà gia đình bà B không có ý kiến phản đối hay tranh chấp khi gia đình ông T
xây dựng nhà ở kiên cố. Bà B yêu cầu trả lại đất lấn chiếm và yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của gia ông T, nhưng lại căn cứ vào cạnh phía
Nam thửa đất của gia đình ông T theo hiện trạng tăng 2,16m so với số đo trong
giấy chứng nhận để đánh giá gia đình ông T lấm chiếm 2,16m kéo dọc theo ranh
giới đất về phía Bắc, mà lại không căn cứ vào cạnh phía Bắc thửa đất của gia
đình ông T theo hiện trạng đang bị giảm 0,4m so với số đo trong giấy chứng
nhận để đánh giá có việc lấn chiếm đất hay không. Tại phiên tòa phúc thẩm,
người đại diện của nguyên đơn xác định diện tích đất tranh chấp gia đình
nguyên đơn chưa bao giờ được sử dụng, mà do gia đình bị đơn sử dụng, trên đất
có nhà, tường bao và các tài sản khác của gia đình bị đơn. Như vậy, Nguyên đơn
cho rằng gia đình ông T lấn chiếm đất là không có căn cứ, không phù hợp với
việc sử dụng đất của gia đình ông T và gia đình bà B.
[6] Như vậy, ranh giới, mốc giới đất theo hiện trạng đã được hai gia đình
xây dựng và đã sử dụng ổn định từ trước năm 1991. Ngoài ranh giới theo hiện
trạng như nêu trên, không còn chứng cứ nào khác phản ánh ranh giới, mốc giới
đất giữa hai gia đình. Thể hiện, ranh giới, mốc giới giữa các thửa đất là đoạn
thẳng nối bởi các điểm A19, A21, A22, A23, A24, A25, A26 và A4 đã được các
bên xác lập và sử dụng ổn định, là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 175,
Điều 176 của Bộ luật Dân sự. Không có căn cứ xác định ông T bà N lấn chiếm
đất của gia đình bà B.
[7] Từ các căn cứ nêu trên, Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của
bà B về việc buộc ông T, bà N trả lại đất lấn chiếm là có căn cứ.
[8] Xét yêu cầu của Nguyên đơn đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông T, bà N: Từ những phân tích trên, xét thấy gia đình ông T,
bà N không lấn chiếm đất của gia đình bà B, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông T, bà N không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Nguyên đơn.
Vì vậy, Nguyên đơn yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
UBND huyện N cấp cho ông T, bà N không có căn cứ chấp nhận.
12
[9] Về chi phí thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Yêu cầu của bà B
không được chấp nhận nên bà B phải chịu chi phí tố tụng là 6.600.000 đồng, bà
B đã nộp đủ.
[10] Từ nhận định nêu trên, xét thấy kháng cáo của nguyên đơn không có
căn cứ chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị
bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, đảm
bảo đúng quy định.
[11] Về án phí: Nguyên đơn bà Vũ Thị B là người cao tuổi, đề nghị được
miễn án phí nên Tòa án miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà B theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
2. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Vũ Thị B; Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2024/DS- ST, ngày 11 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Vũ Thị B được miễn án phí dân sự
phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Hải Dương;
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Cục THA dân sự tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự (theo địa chỉ).
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Ngọc Hoa
Tải về
Bản án số 576/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 576/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Bản án số 988/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm