Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 23/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 23/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 6 - Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Số hiệu: 01/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vũ Viết L - T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 – THÁI NGUYÊN
Bản án số: 01/2025/DS-ST
Ngày: 23 - 7 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 – THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Hiền.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Kiên Cường.
2. Ông Hứa Đình Hiên.
- Thư phiên tòa: Đặng Thị Thùy Vân Thư ký viên Tòa án nhân dân
Khu vực 6 – Thái Nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 6 Thái Nguyên tham gia
phiên tòa: Bà Bàn Thị Tiên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 24/6/2025, 30/6/2025 23 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án
nhân dân Khu vực 6 Thái Nguyên xét xử thẩm ng khai vụ án n sự thụ lý số
08/2023/TLST -DS ngày 02 tháng 11 năm 2023 v việc "Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất " theo Quyết định đưa v án ra t xử số
03/2025/QĐXXST- DS ngày 12 tháng 5 m 2025 Quyết định hoãn phiên a số
09/2025/QĐST DS ngày 05/6/2025; Quyết định tạm ngng phn a số
04/2025/QĐST DS ngày 30/6/2025 gia các đương s:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Viết L - Sinh m 1965. ( mặt)
Địa ch: T17, png Đ, tỉnh T).
- B đơn: 1. Ông Triệu n T - Sinh năm 1971. (Có mặt)
2. Bà Nguyn Th H - Sinh năm 1972. (Có mặt)
Đều địa chỉ: T1A, phưng B, tỉnh T.
- Người có quyn li, nghĩa v liên quan: Bà ThM - Sinh năm 1966.
Địa chỉ: Tổ Bản Cạu, phưng Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
(Nay là: T 14, phường Đức Xn, tnh Thái Nguyên). (Có mặt)
Người đại din theo y quyn ca bà Th M là ông Vũ Viết L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu trong hồ sơ vụ án tại phiên
toà, nguyên đơn Vũ Viết L trình bày:
2
Tháng 4 năm 2015, ông ng ông Triệu Văn T , Nguyễn Thị H thỏa
T1 mua bán một thửa đất địa chỉ tại tổ 1, phường B, tỉnh T, chiều rộng 5,1m
theo đường Quốc lộ 3, chiều dài 25m, với số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm
mươi triệu đồng), loại đất vườn. Quá trình mua bán, các bên lập “Giấy
chuyển nhượng đất” đề ngày 24/4/2015. Ông đã trao đủ số tiền trên cho ông T
H , ông T H ng đã giao diện tích đất trên cho ông quản lý, sử dụng. Ông đã
tiến hành rào ranh giới bằng tôn mặt đằng trước trồng các cây ăn quả trên đất.
Đến ngày 05/7/2017, giữa ông và vợ chồng ông Triệu Văn T , bà Nguyễn Thị
H tiếp tục thỏa T1 mua bán 01 thửa đất có địa chỉ tại tổ 1, phường B, tỉnh T (Thửa
đất này liền kề với thửa đất ông mua năm 2015 của ông T H ), chiều dài 27m,
chiều rộng theo đường Quốc lộ 3 5m với số tiền 165.000.000đ (Một trăm sáu
mươi lăm triệu đồng), loại đất chuyển nhượng là đất vườn. Quá trình mua bán, các
bên lập “Giấy chuyển nhượng” đề ngày 05/7/2017. Ông đã trao đủ số tiền trên
cho ông T , bà H và ông T , H cũng đã giao diện tích đất trên cho ông quản lý,
sử dụng. Ông cũng đã tiến hành rào ranh giới bằng tôn mặt đằng trước trồng cây
ăn quả trên đất.
Quá trình ông sử dụng hai mảnh đất nhận chuyển nhượng của ông T ổn định,
không tranh chấp với ai. Hiện trạng đất, hiện nay trên đất các cây ăn quả do
ông trồng, hàng rào tôn đằng trước.
Tại thời điểm mua bán các thửa đất, ông T H đều khẳng định là đất của
ông bà không tranh chấp với ai, không nằm trong quy hoạch thu hồi của nnước,
không lấn chiếm sang diện tích đất của ai, khi mua bán ông T chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, khi nào được cấp sẽ làm thủ tục sang tên cho ông.
Đến năm 2020, UBND thành phố B tiến hành thống giải phóng mặt bằng, thu
hồi đất cho dán cải tạo nâng cấp đường Quốc lộ 3. Tại phần đất ông T bán cho
ông diện tích phải giải tỏa 132,1 m
2
, trong đó phần đất lưu không của nhà
nước là 125,7m
2
trước đó vào năm 2004 gia đình ông T đã nhận được tiền đền
của nhà nước, ông chỉ còn được nhận tiền đền bù 6,4m
2
. Sau khi biết tin ông T
H đã nhận tiền đền 125,7m
2
, ông đã đến gặp vợ chồng ông T nhiều lần để
thương lượng giải quyết, đề nghị vchồng ông T hoặc trả phần đất còn thiếu do
đã bị thu hồi cho ông hoặc trả tiền cho ông nhưng không thành.
Tại thời điểm làm đơn khởi kiện, ông đề nghị Tòa án giải quyết:
- Buộc ông Triệu Văn T và bà Nguyễn Thị H trả lại cho ông đủ diện tích đất
125,7m
2
.
- Nếu ông T H không trả lại cho ông đủ diện tích đất là 125,7m
2
thì ông
yêu cầu ông T , bà H phải trả cho ông số tiền tương đương với giá trị của diện tích
đất trên theo giá thị trường hiện nay là 2.500.000đ/ m
2
, tổng số tiền ông yêu cầu
ông T , H phải trả cho ông 125,7m
2
x 2.500.000đ/m
2
= 314.250.000đ (Ba
trăm mười bốn triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Quá trình giải quyết vụ án, ông xin thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau:
- Buộc ông Triệu Văn T và bà Nguyễn Thị H trả lại cho ông đủ diện tích đất
125,7m
2
(loại đất vườn, vị trí mặt trước giáp đường quốc lộ 3).
3
- Nếu ông T H không trả lại cho ông đủ diện tích đất 125,7m
2
thì ông
yêu cầu ông T , bà H phải trả cho ông số tiền tương đương với giá trị của diện tích
đất tại thời điểm nhận chuyển nhượng 1.200.000đ/ m
2
, tổng số tiền ông yêu cầu
ông T , H phải trả cho ông 125,7m
2
x 1.200.000đ/m
2
= 150.840.000đ (Một
trăm năm mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng).
Tại phiên tòa, ông thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông T , H
phải trả cho ông số tiền tương đương với giá trị của 125,7 m
2
đất vườn tại tổ 1A,
phường B, tỉnh T tại thời điểm nhận chuyển nhượng 1.200.000đ/ 01m
2
x 125,7
m
2
= 150.840.000đ (Một trăm năm mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng).
Ông khẳng định chữ viết: “… Chiều rộng. Chiều dài 25m” trong giấy chuyển
nhượng ngày 24/4/2015 ngay tkhi viết giấy; Chữ 300.1600.000trong giấy
chuyển nhượng đề ngày 05 tháng 7 năm 2017 chữ do bà Nguyễn Thị H viết.
Ngoài ra, tại giấy chuyển nhượng đề ngày 5 tháng 7 năm 2017, dòng ghi diện
tích đất chiều dài theo quốc lộ là 10m, ban đầu ghi là 5m, sau sửa thành 10m; dòng
ghi 27m, ban đầu ghi 29m sau sửa thành 27m; các chữ gạch do viết sai trong
giấy chuyển nhượng, tất cả những chỗ sửa và gạch này đều là do bà H viết.
* Tại bản tự khai, các tài liệu trong hồ vụ án tại phiên toà, bị đơn
Triệu Văn T , Nguyễn Thị H trình bày:
Ông bà một diện tích đất tại tổ 1, phường B có nguồn gốc là do ông Triệu
T1 (là bố đẻ của ông Triệu Văn T ) chia cho (Tất cả các diện tích đất đều đứng
tên ông Triệu T1), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông T1 đã bị
nhà nước thu hồi để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới. Tuy nhiên, đến
nay cdiện tích đất ông T1 chia cho ông cũng như đất của các hộ giáp ranh
khác đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông khẳng định được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông L
đối với diện tích đất được ông T1 chia cho, cụ thể: Ngày 24 tháng 4 năm 2015, ông
được chuyển nhượng một thửa đất cho ông L chiều dài theo mặt đường
quốc lộ 3 5,1m, chiều sâu không xác định, với giá 75.000.000đ (Bảy mươi lăm
triệu đồng) (tức giá chuyển nhượng là 15.000.000đ/01m chiều dài theo mặt
đường Quốc lộ 3), có lập giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 24 tháng
4 năm 2015. Sau đó cách không bao lâu (khoảng 01 tháng sau), ông L lại xuống đề
nghị vợ chồng ông bán thêm cho ông ấy diện tích đất bên cạnh, chiều rộng mặt
đường 5m, chiều sâu không xác định, kéo dài hết đất, giáp với suối. Gchuyển
nhượng 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng), tổng hai lần chuyển nhượng
150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu). Vợ chồng ông bà đã nhận đủ số tiền trên
với ông L. Nhưng giữa vợ chồng ông ông L thống nhất không viết lại giấy
chỉ sửa số tiền 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng) trong giấy chuyển
nhượng đất ngày 24/4/2015 thành 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng),
loại đất các bên chuyển nhượng là đất vườn.
Trước khi mua, ông yêu cầu ông L phải mời cán bộ địa chính để xác định
phần đất gia đình ông đã bị nhà nước thu hồi và ông chỉ đồng ý bán cho ông
L phần đất của ông còn lại nhưng ông L bảo không cần cán bộ địa chính, chỉ
4
cần xác nhận đất của gia đình ông bà không tranh chấp với ai được, mọi thủ tục
do ông L tự lo liệu, nên ông bà cũng nhất trí không mời cán bộ địa chính và đơn vị
đo đạc.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ông L người quản sử dụng, cụ thể ông L
đã trồng cây ăn quả, rào tôn đằng trước.
Ông khẳng định phần chữ viết “300.1600.000” không phải chữ của
H . Ông bà cũng không yêu cầu giám định đối với phần chữ viết này.
Tại giấy chuyển nhượng đề ngày 5 tháng 7 năm 2017, dòng thứ 11 từ dưới
lên ghi diện tích đất chiều dài theo quốc lộ là 10m, ông khẳng định ban đầu
ghi là 15m, bà H viết theo sự hướng dẫn của ông L. Tuy nhiên sau khi viết số 15m
theo yêu cầu của ông L thì phản hồi lại bà chỉ bán cho ông 10m, sao lại
ghi thành 15m. vậy ông L cũng nhất trí bà sửa 15m thành 10m. Trong giấy
chuyển nhượng này phần bị gạch sửa thì bà không được gạch, sửa, ai gạch, sửa
cũng không biết.
Ông không nhất trí yêu cầu nào của ông L việc ông bà chuyển nhượng
đất cho ông L đúng thực tế, chuyển nhượng đất của gia đình ông chứ không
phải đất nhà nước.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Thị M trình bày:
M vợ của ông L. không được tham gia quá trình mua bán chuyển
nhượng đất giữa ông L ông T , H nhưng bà biết được do hai vợ chồng đã có
sự bàn bạc, thống nhất mua. liên quan số tiền ông L nhận chuyển nhượng
đất từ ông T , bà H là tiền chung của bà với ông L, và thửa đất ông L mua của ông
T H là tài sản chung của ông L. Nay ông L khởi kiện, bà hoàn toàn nhất
trí với yêu cầu khởi kiện của ông L và không bổ sung gì thêm.
* Tại phiên tòa, đi din Vin kim sát nhân dân Khu vc 6 Thái Nguyên
phát biểu quan đim v vic tuân theo pháp lut t tng trong quá trình gii quyết
v án ca Thm phán và phát biu v quan điểm gii quyết v án ca Hội đồng xét
x: Thm phán, Thư ký đã thc hiện đúng quy định ca pháp lut. Vic chp hành
pháp lut của đương s k t khi th lý v án đến trước thời điểm Hội đồng xét x
ngh án: Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng yêu cầu quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào:
Điều 26, 35, 39, 147, 157, 161, 165 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2025; Điều 121, 122, 124 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 116, 117, 119, 398,
401 Bộ luật Dân sự 2015; Điu 167, 168, 169, 170; 188 Lut đất đai năm 2013;
Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường v Quc
hi, đề ngh Hi đồng xét x:
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Viết L về việc buộc
ông Triệu Văn T và bà Nguyễn ThH phải trả cho nguyên đơn số tiền tương đương
với giá trị của 125,7 m
2
đất vườn tại tổ 1A, phường B, tỉnh T tại thời điểm nhận
chuyển nhượng 1.200.000đ/ 01m
2
x 125,7 m
2
= 150.840.000đ (Một trăm năm
mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng) theo giy chuyển nhượng đất ngày
24/4/2015 và ngày 05/7/2017.
5
- Về chi phí tố tụng án phí: Đương sphải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan h pháp lut và thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa các bên là "Tranh
chấp hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất" được quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố
tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn,
tỉnh Bắc Kạn (nay là Tòa án nhân dân Khu vc 6 - Thái Nguyên).
Sau khi thlý ván, a án đã tiến hành thông báo v vic thụ vụ án theo quy
định, đã thôngo về phn họp kim tra vic giao nộp, tiếp cận,ng khai chứng cứ
a giải. Toà án đã tiến hành h gii, tuy nhn các đương sự kng tho T1 đưc
với nhau v việc giải quyết v án. vậy T án đã tiến hành c hoạt động xác minh,
thu thập tài liu chng c ra quyết định đưa ván ra t xử.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành
đúng yêu cầu, quy định; Bị đơn lúc chưa chấp hành đúng yêu cầu, quy định,
lần t ý b v trong bui làm vic do Tòa án triu tp, không tham gia phiên hp
tiếp cn công khai chng c và hòa gii.
[2] Về yêu cầu khởi kiện: Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn Viết L khi
kin yêu cu Tòa án gii quyết: Buc ông Triệu Văn T và bà Nguyn Th H tr li
cho nguyên đơn diện tích 125,7m² đất vườn, v trí mặt trước giáp đường T 1A,
phưng B, tnh T theo Giy chuyển nhượng đất ngày 24/4/2015 và Giy chuyn
nhượng” ngày 05/7/2017. Nếu b đơn không tr li cho nguyên đơn đủ diện tích đất
125,7m² tb đơn phi tr cho nguyên đơn s tiền tương đương với giá tr ca
diện ch đt trên ti thời đim hin ti 2.500.000đ/m², tổng s tin b đơn phi
tr cho nguyên đơn 125,7m² x 2.500.000đ/m² = 314.250.000đ (Ba trăm mười
bn triu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Quá trình gii quyết v án, nguyên đơn thay đổi mt phn yêu cu khi kin,
c th: Nếu ông T , bà H không tr li cho nguyên đơn đủ diện tích đất là 125,7m²
thì ông T , H phi tr cho nguyên đơn s tiền tương đương vi giá tr ca din
tích đất trên ti thời điểm chuyển nhượng 1.200.000đ/m², tổng s tin ông T ,
H phi tr cho nguyên đơn là 125,7m² x 1.200.000đ/m² = 150.840.000đ (Một trăm
năm mươi triệu T trăm bốn mươi nghìn đồng).
Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện không yêu cầu trả
đất, chỉ yêu cầu ông T , H phải trả cho nguyên đơn số tiền tương đương với giá
trị của 125,7m
2
đất vườn tại tổ 1A, phường Bắc Kạn, tỉnh Thái Nguyên (địa chỉ
tổ 1, phường Xuất Hóa, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn) tại thời điểm nhận
chuyển nhượng 1.200.000đ/01m
2
x 125,7 m
2
= 150.840.000đ (Một trăm năm
mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng).
Hai bên xác nhn s vic ông T , H chuyển nhượng quyn s dụng đất
đối vi 02 thửa đất vườn ti T 1A, phường B, tnh T cho ông L. Hai bên cũng
6
tha nhn ti thời điểm chuyển nhượng, bên nhn chuyển nhượng đã biết v ngun
gc tình trng pháp ca 02 thửa đất nhưng hai bên vẫn t nguyn tha T1
chuyển nhượng quyn s dụng đất. Hai bên đã giao nhận đủ tin và nguyên đơn đã
đưc qun lý, s dụng đất t khi nhn chuyển nhượng đến nay.
Quá trình gii quyết v án tại Tòa án, hai bên đu công nhn s vic chuyn
nhưng quyn s dụng đất nhưng tranh chp v s diện tích đất đã chuyển
nhưng do nguyên đơn cho rng b đơn chuyển nhượng cho nguyên đơn c phn
đất lưu không của Nnước dẫn đến vic nguyên đơn không còn được s dụng đủ
diện tích đất như đã tha T1. Tại phiên tòa, các đương s đã được Hội đng xét x
gii thích hi ý kiến v vic yêu cu Tòa án tuyên 02 giy chuyển nhượng
đất hiu gii quyết hu qu ca hợp đồng hiệu hay không nhưng nguyên
đơn khẳng định vn mong muốn được tiếp tc qun lý, s dng phn din tích đất
hiện nay đang còn, đng thi gi nguyên yêu cu khi kin v vic yêu cu ông
Triệu Văn T Nguyn Th H tr cho số tiền tương đương với gtrị của
125,7m
2
đất vườn tại tổ T 1A, phường B, tnh T tại thời điểm nhận chuyển
nhượng là 1.200.000đ/01m
2
x 125,7 m
2
= 150.840.000đ (Một trăm năm mươi triệu,
T trăm bốn mươi nghìn đồng) theo giy chuyển nhượng đất ngày 24/4/2015
ngày 05/7/2017 đã ký kết gia hai bên. B đơn người có quyn lợi nghĩa vụ liên
quan cũng không yêu cu tuyên 02 giy chuyển nhượng đất hiu gii quyết
hu qu ca hợp đồng vô hiu.
[3] Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn c
bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với Hợp đồng chuyển nhượng (Giấy
chuyển nhượng đất) ngày 24/4/2025. Hợp đồng này không tuân thủ các quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 Luật đất đai 2013. Cụ thể, vchủ thể hợp đồng:
Bản thân ông T , H tuy là người sử dụng thửa đất trên thực tế nhưng chưa được
cấp GCNQSDĐ cũng như chưa giấy tờ, tài liệu chứng cứ chứng minh là
người sử dụng đất hợp pháp, được pháp luật thừa nhận; Về đối tượng chuyển
nhượng: Diện tích chuyển nhượng chưa được đăng ký quyền sử dụng, nên chưa đủ
điều kiện để giao dịch chuyển nhượng; V hình thức của hợp đồng: Hợp đồng
không tuân thủ các quy định của pháp luật đối với đối tượng giao dịch quyền s
dụng đất, cụ thể là hợp đồng không được công chứng, chứng thực; Về nội dung
của hợp đồng chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật, cụ thể nội dung Giấy
chuyển nhượng chưa nêu đầy đủ các thông tin quyền, nghĩa vụ của các bên vloại
đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất, thời hạn sử dụng
đất của bên chuyển nhượng….
Trong giấy chuyển nhượng ngày 24/4/2015 ghi “… Chiều rộng. Chiều dài
25m”. Nguyên đơn cho rằng những chữ này ngay từ khi viết giấy chuyển
nhượng đất, tuy nhiên phía bị đơn cho rằng chữ “chiều rộng. Chiều dài 25m”
được ghi thêm, không có trong thỏa T1 chuyển nhượng giữa các bên, bị đơn không
đồng ý với phần ghi thêm này bị đơn cho rằng khi thỏa T1 mua bán, bị đơn đã
yêu cầu nguyên đơn mời cán bộ địa chính đến đo đạc cụ thể diện tích chuyển
nhượng nhưng nguyên đơn cho rằng không cần thiết, sau đó tự ý ghi thêm những
7
chữ trên vào trong Giấy chuyển nhượng đất, bằng chứng chứng minh nguyên đơn
tự ý ghi thêm Bản phô của giấy chuyển nhượng đất ngày 24/4/2015 do bị đơn
giữ không những chữ này. Bị đơn cho rằng sau khi nhờ con dâu của bị đơn
Hoàng Thị Nhiên viết Giấy chuyển nhượng đất ngày 24/4/2015 thì bị đơn đã đem
đi phô tô, sau đó giao cho nguyên đơn giữ bản gốc còn bị đơn giữ bản phô tô.
Khi sự việc được cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Bắc Kạn giải
quyết, đã trưng cầu giám định đối với những chữ này, kết quả giám định kết luận
những ch“Chiều rộng. Chiều dài 25m” được điền thêm do cùng một người là
chị Hoàng Thị Nhiên (con dâu bị đơn) viết.
Như vậy, kết luận giám định phù hợp với ý kiến của bđơn về những chữ
“Chiều rộng. Chiều dài 25 m” trong “Giấy chuyển nhượng đất” ngày 24/4/2015.
Tại phiên tòa, bị đơn cho rằng việc nguyên đơn tự ý yêu cầu chị Nhiên viết thêm
những chữ này mà không có sự đồng ý của bị đơn và không đúng nội dung thỏa T1
nên bị đơn không nhất trí.
Hội đồng xét xử nhận thấy không sở đxác định chiều dài thửa đất
trong giao dịch ngày 24/4/2015 25m. Như vậy, không căn cứ để xác định
chính xác diện tích thửa đất trong giao dịch ngày 24/4/2025 là bao nhiêu.
Đối với Hợp đồng chuyển nhượng (Giấy chuyển nhượng) ngày 05/7/2017
cũng không tuân thủ các quy định của Bộ luật Dân s2015 Luật Đất đai 2013
tương tự như Giấy chuyển nhượng ngày 24/4/2015 còn một số nội dung
trong giấy chuyển nhượng này có dấu hiệu sửa chữa.
Giấy chuyển nhượng ngày 05/7/2017 cũng không ghi diện ch chuyển
nhượng bao nhiêu. Phần ghi chiều rộng, chiều dài thửa đất tbị sửa chữa, viết
đè lên, lề dưới của trang đầu có những chữ số viết bằng bút mực khác. Nguyên đơn
cho rằng giấy này do bị đơn (bà H ) viết, kể cả những chữ sửa chữa viết đè lên
những chữ số viết bằng bút mực khác lề dưới của trang đầu cũng do H
viết. Bị đơn không thừa nhận những chữ số viết bằng bút mực khác lề dưới của
trang đầu là do bị đơn (bà H ) viết. Đồng thời bị đơn cho rằng Giấy chuyển nhượng
này là viết lại theo yêu cầu của nguyên đơn, sau khi các bên đã thực hiện giao dịch
lần thứ hai một thời gian. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn viết lại Giấy chuyển nhượng
lần hai với do để dễ làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giảm tiền
thuế khi làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chiều dài của
thửa đất ghi trong giấy chuyển nhượng này cũng không đúng như thỏa T1 của các
bên ghi theo ý của nguyên đơn. Bị đơn không thừa nhận chiều dài của thửa
đất chuyển nhượng lần hai như trong Giấy chuyển nhượng ngày 05/7/2017 đã ghi.
Như vậy cũng không đủ căn cứ để xác định chính xác diện tích đất chuyển
nhượng trong Giấy chuyển nhượng ngày 05/7/2017.
Về stiền chuyển nhượng: Nguyên đơn cho rằng tổng số tiền chuyển nhượng
315.000.00(Ba trăm mười lăm triệu đồng), trong đó lần một 150.000.000đ
(Một trăm năm mươi triệu đồng), lần hai 165.000.000đ (Một trăm sáu mươi lăm
triệu đồng). Phần chữ số “300.1600.000” viết cuối trang trong Giấy chuyển
nhượng ngày 05/7/2017 bằng bút mực khác cũng do H viết, chữ số này thể
8
hiện tổng số tiền của 02 lần mua bán. Tuy nhiên bị đơn lại cho rằng tổng số tiền 02
lần chuyển nhượng 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng), mỗi lần
chuyển nhượng với giá 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng).
Trong Giấy chuyển nhượng ngày 05/7/2017 ghi số tiền 165.000.000đ
(Một trăm sáu mươi lăm triệu đồng). Ông L cho rằng số tiền ghi trong giấy chuyển
nhượng này số tiền mua đất lần hai, không phải tổng số tiền hai lần mua đất.
Ông T H cho rằng khi viết giấy chuyển nhượng lần hai, ông L đã yêu cầu bà H
viết gộp cả diện tích chuyển nhượng và số tiền chuyển nhượng lần trước vào trong
giấy này. Tuy nhiên bà H không thừa nhận những chữ viết các con số này là do bà
viết, cũng như không thừa nhận ý nghĩa của con số “300.1600.000” viết bằng bút
mực lề dưới trang đầu của Giấy chuyển nhượng ngày 05/7/2017 tổng số tiền
02 lần giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án đã tiến hành giám định
đối với những chữ viết sửa bằng mực khác dãy chữ s“300.1600.000”, nhưng
quan giám định đã trả lời không đủ căn cứ để xác định những chữ này do
cùng một người (H ) viết ra.
Như vậy cũng không căn cứ để xác định chính xác số tiền của cả hai lần
giao dịch chuyển nhượng.
Bản thân ông L cũng thừa nhận, không việc thỏa T1 cụ thể giá tiền mỗi
mét vuông đất bao nhiêu, giá 1.200.000đ/01m
2
ông tự tính trên sở lấy
giá chuyển nhượng chia cho diện tích chuyển nhượng, mà diện tích chuyển nhượng
cũng là do ông tự tính trên cơ sở chiều dài, chiều rộng của thửa đất ghi trong “Giấy
chuyển nhượng đất” ngày 24/4/2015“Giấy chuyển nhượng” ngày 05/7/2027.
[4] Tòa án cũng đã tiến hành ly lời khai, xác minh đối vi những người làm
chng theo cung cp của nguyên đơn, kết qu như sau: Ông Đặng Văn Chín khai
ln mua bán th nht do ông gii thiu cho ông L. H người viết giy
chuyển nhượng đất, khi viết mt ông, ông L v chng ông T . Ông được
mi chng kiến đưc tên vào giy chuyển nhượng với cách người làm
chng nhưng ông không biết ni dung. Ln th hai ông L t tha T1 mua bán vi
ông T , bà H nên ông không biết c th vic mua bán gia hai bên.
Ông Dương Hồng C khai không biết c th tha T1 mua bán ca các bên
như thế nào, ch biết các bên có mang giy chuyển nhượng đến nhà của ông để ông
tên xác nhn với tư cách trưởng thôn. Ông không đọc k ni dung ch
tên vi mục đích xác nhận vic mua bán gia các bên và xác nhn diện tích đất các
bên mua bán không tranh chấp. Ông xác định thời điểm các bên giao nhn tin
cho nhau thì ông không có mt nên ông không biết.
Ông S D khai không được chng kiến vic tha T1 mua bán đt gia
các bên, không biết các bên tha T1 giao dch với nhau như thế nào. Ông ch đưc
chng kiến mt ln vic giao nhn tin gia ông L vi ông T , H ti nhà ca
ông T , H vào năm 2015 nhưng ông không biết c th s tiền đó là bao nhiêu.
Hai bên viết giy biên nhn tiền và ông được ký, ghi h tên vào giấy đó với
cách người làm chứng, khi đó còn ông Đặng Văn C1 ông Dương Hồng C.
9
Khi chng kiến các bên giao nhn tin thì ông không thấy “Giấy chuyn
nhượng đất” ngày 24/4/2015.
Ông Triệu Văn B1 khai không được chng kiến vic chuyển nhượng đt
gia ông T , bà H vi ông L, cũng không biết các tha T1 của hai bên như thế nào.
Ông xác nhận được tên vào giy chuyển nhượng ngày 05/7/2017 gia các bên
với cách người làm chứng (khi đó ông có thửa đất giáp ranh) nhưng sau khi các
bên tha T1 giao dch xong thì mi mang giấy này đến nhà ông cho ông ký.
Ch Hoàng Th N xác nhn ch được viết h giy chuyển nhượng đt
ngày 24/4/2015. Khi đó có ông T , H , ông L, ch và chng ch anh Triu Thế
Hưng, ngoài ra không ai chứng kiến. Thời điểm ch viết chưa dòng chữ
“chiều rng, chiều dài 25m”, dòng chữ này không phi do ch viết ra, ch cũng
không biết tha T1 mua bán gia các bên.
Bế Th D1 h giáp ranh cung cp: ông Hoàng Mnh H1 (chng
bà) năm 2014 có mua của ông Triệu Văn T , bà Nguyn Th H 02 thửa đất vườn
t 1, phường Xut Hóa. Ln th nht mua thửa đất có chiu dài theo mt đường
Quc l 3 là 6m, ln th hai cách ln th nht khong 01 tháng mua thửa đất
chiu dài theo mặt đường Quc l 34m, chiu sâu ca 02 thửa đất này là t mt
đưng Quc l 3 kéo dài đến sui, hai thửa đất này lin k vi nhau giáp ranh
vi thửa đt mà năm 2015 ông L mua ca ông T H . Hai bên lp giy
chuyển nhượng đề ngày 18/5/2014. Hai bên tha T1 giá ca 02 thửa đất được tính
20.000.000đ/01m theo chiu dài mặt đường Quc l 3. Tng s tin mua 02
thửa đất ca ông T H 10m x 20.000.000đ = 200.000.000đ (Hai trăm triu
đồng). Tuy nhiên, Hội đồng xét x nhn thy trong Giy chuyển nhượng đất mà bà
Dinh cung cp cho Tòa án không ghi din tích, không s tha, s t bản đồ,
không ghi tha T1 v gchuyển nhượng, do vy cũng không căn cứ để suy
đoán v gchuyển nhượng đất gia ông L vi ông T H vào các năm 2015,
2017.
[5] Ti h giải quyết ngun tin v ti phm của quan CSĐT Công an
thành ph Bc Kn th hin: Không khi t v án hình s vi do vic các bên
mua bán không thc hiện đúng trình tự, th tục theo quy đnh ca pháp lut nên
khi xy ra tranh chấp không có căn cứ để xác định có s vic phm ti.
[6] Tòa án cũng đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về diện tích
đất xảy ra tranh chấp, hồ sơ thu hồi, giải phóng mặt bằng năm 2004. Công chức địa
chính phường Xuất Hóa cung cấp: Diện ch đất tranh chấp thuộc các thửa đất số
46, 50 tờ bản đồ địa chính số 18, bản đồ địa chính năm 2002 mang tên chủ sử dụng
ông Triệu Văn T1. Thửa đất này trên bản đồ thu hồi giải phóng mặt bằng năm
2003 là thửa đất số 12, có diện tích là 547,3m2.
[7] Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định đối với diện tích đất đang xảy ra
tranh chấp giữa ông L với ông T H . Tại buổi xem xét thẩm định, ông L
không xác định được mốc giới diện tích đất nhận chuyển nhượng 02 lần với ông T
H , chỉ xác định được diện tích hiện đang sử dụng. Ông T H cũng không
xác định được mốc giới diện tích đất nhận chuyển nhượng 02 lần với ông L xác
10
nhận hiện trạng ông L đang sử dụng một phần lớn của diện tích đất ông
đã chuyển nhượng cho ông L (vì một phần của diện tích đất ông đã
chuyển nhượng cho ông L đã bnnước thu hồi năm 2020, ông L đã nhận đền
bù). Kết quả đo đạc cho thấy, hiện trạng diện tích đất ông L đang sử dụng tổng
diện tích là 162,9m
2
, trong đó có: 5,8 m
2
là đất bị thu hồi năm 2020; 7,2m
2
là đất bị
thu hồi năm 2003; 147,5 m
2
đất nằm ngoài chỉ giới thu hồi các năm 2003, 2020;
2,4m
2
là đất ông Triệu Văn B1 (hiện nay là đất ông Đặng Văn C1).
[8] Tnhững phân tích, đánh giá, nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Không sở để xác định được chính xác diện tích, vị trí, giá tiền của 02 thửa
đất ông L nhận chuyển nhượng của ông T , H . Các hợp đồng chuyển
nhượng cũng không đảm bảo các điều kiện hiệu lực theo quy định của pháp
luật. Do vậy, không căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Viết L
về việc buộc ông Triệu Văn T , Nguyễn Thị H phải trả cho ông L số tiền tương
đương với giá trị của 125,7 m
2
đất vườn tại T 1A, phường B, tnh T tại thời điểm
nhận chuyển nhượng 1.200.000đ/ 01m
2
x 125,7 m
2
= 150.840.000đ (Một trăm
năm mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng) theo Giy chuyển nhượng đất
ngày 24/4/2015 và Giy chuyển nhượngngày 05/7/2017.
[9] V chi phí giám đnh, xem xét thẩm định và định giá tài sn: Tng chi phí
giám đnh, xem xét thẩm định định giá tài sản là 10.111.000đ (Mười triu mt
trăm mười một nghìn đồng), c th: Chi phí xem xét thẩm định định giá tài sn
3.300.000đ (Ba triệu ba trăm nghìn đồng); tin đo đc là 4.000.000đ (Bốn triu
đồng); chi phí giám định 2.811.000đ (Hai triệu T trăm mười một nghìn đng).
Nguyên đơn không được chp nhn toàn b yêu cu khi kin nên phi chu toàn
b chi phí t tng. Xác nhận nguyên đơn đã nộp đủ (tin chi phí xem xét thẩm định
ti ch, đnh giá tài sn và giám định).
[10] V án phí: Ông L phi chu 7.542.000đ (By triu năm trăm bốn mươi
hai nghìn đồng) án phí dân s sơ thẩm vì không được chp nhn yêu cu khi kin.
Nhưng được tr vào s tin tm ng án phí ông L đã nộp 7.856.000đ (By
triu T trăm năm mươi sáu nghìn đồng). Ông L đưc tr li 314.000đ (Ba trăm
i bốn nghìn đng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 157, 161, 165 Bộ luật Ttụng dân sự 2015,
sửa đổi bổ sung 2025; Điều 121, 122, 124 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 116, 117,
119, 398, 401 Bộ luật Dân sự 2015; Điu 167, 168, 169, 170; 188 Lut đất đai năm
2013; Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban thường v
Quc Hi;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Viết L về việc
buộc bđơn Triệu Văn T , Nguyễn Thị H phải trả cho nguyên đơn số tiền tương
11
đương với giá trị của 125,7 m
2
đất vườn tại T 1A, phường B, tnh T tại thời điểm
nhận chuyển nhượng 1.200.000đ/ 01m
2
x 125,7 m
2
x = 150.840.000đ (Một trăm
năm mươi triệu, T trăm bốn mươi nghìn đồng).
2.Về chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn Viết L phải chịu toàn bộ chi p
giám đnh, xem xét thẩm định định giá tài sản là 10.111.000đ (Mưi triu mt
trăm mười một nghìn đồng).
Xác nhận nguyên đơn đã nộp đủ (chi phí giám định, xem xét thẩm định
định giá tài sn).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn Viết L phi chu án phí
7.542.000đ (By triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn đng) án phí dân s thẩm.
Nhưng được tr vào s tin tm ng án phí ông L đã nộp 7.856.000đ (By
triu T trăm năm mươi sáu nghìn đng) ti Chi cc Thi hành án dân s thành ph
Bc Kn (nay Thi hành án Dân s tnh Thái Nguyên) theo Biên lai thu tin s
0002455 ngày 02/11/2023. Ông L đưc tr li 314.000đ (Ba trăm mười bn nghìn
đồng).
6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm mặt nguyên đơn, bị đơn,
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Các đương sự quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND Khu vực 6;
- VKSND tỉnh TN;
- TAND tỉnh TN;
- THADS tỉnh TN;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, văn thư.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Lê Thị Hiền
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất