Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 23/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Cần Thơ |
Số hiệu: | 23/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/08/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 23/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 08 - 8 -2025
V/v Tranh chấp về hôn nhân và gia
đình - ly hôn, yêu cầu nuôi con
chung, chia tài sản chung và nợ
chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đào Thị Thủy.
Ông Trương Đình Nghệ.
Bà Mạc Thị Chiên.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Đại - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Bà Lưu Thị Kim
Chúc - Kiểm sát viên trung cấp tham gia phiên tòa.
Trong ngày 08 tháng 8 năm 2025, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ (trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang cũ) xét xử phúc thẩm công
khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 22/2025/TLPT-HNGĐ ngày 30 tháng 6
năm 2025 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, yêu cầu nuôi con
chung, chia tài sản chung và nợ chung”.
Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 51/2025/HNGĐ-ST ngày
13/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang (Nay là Tòa án
nhân dân khu vực 12 - Cần Thơ) bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 406/2025/QĐ-PT ngày 17
tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Kim Ả, sinh năm 1979.
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp D, xã X, thành
phố Cần Thơ). Có mặt
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1980.
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp D, xã X, thành
phố Cần Thơ). Có mặt
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: ông Nguyễn Văn B, là
Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn B, Đoàn luật sư thành phố C (có
mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Kim P, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Ấp E, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp E, xã X, thành phố
Cần Thơ). Vắng mặt
2/ Ông Phạm Kim C, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp D, xã X, thành
phố Cần Thơ). Vắng mặt
3/ Anh Nguyễn Vũ K, sinh năm 2001.
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp D, xã X, thành
phố Cần Thơ). Có mặt
4/ Ông Dương Văn Ru B1, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là ấp B, xã X, thành phố
Cần Thơ). Có mặt
5/ Ngân hàng thương mại cổ phần K1.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc M, chức vụ: Chủ tịch Hội
đồng quản trị.
Địa chỉ trụ sở: 4 P, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. (Nay là 40-42-
44 Phạm Hồng T, phường R, tỉnh An Giang). Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án được
tóm tắt như sau:
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn
bà Lê Kim Ả (gọi tắt là bà Ả) trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Kim Ả và ông Nguyễn Văn H kết hôn với nhau
năm 1999 nhưng không có đăng ký kết hôn, đến năm 2018 mới đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang, hôn nhân là tự nguyện.
Về nguyên nhân mâu thuẫn: Năm 2001 thì bà Ả và ông H có mời hai bên cha
mẹ lại tuyên bố hai vợ chồng ông bà không sống chung nhau nữa, sau đó ông H bỏ
đi đâu không biết, ông H có vợ khác và có thêm một người con trai với người vợ
mới, đến năm 2012 thì ông H trở về nên vợ chồng ông bà hàn gắn lại tình cảm vợ
chồng nên tiếp tục sống chung lại với nhau có thêm 01 đứa con, đến năm 2018 thì
đăng ký kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc với nhau đến năm 2022 thì ông H không
lo làm ăn, chỉ lo đi chơi nên dẫn đến nợ nần, từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn
cải vã, ông H đôi lúc đánh vợ con, nên ông bà đã ly thân nhau đến nay, vợ chồng
3
ông bà đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được nên nay bà Ả yêu cầu được ly hôn
với ông H.
Về con chung: Vợ chồng ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Vũ K (nam)
sinh ngày 01/03/2000 và cháu Nguyễn Thanh H1 (nam) sinh ngày 05/11/2013, hai
cháu hiện đang sống chung với gia đình. Khi ly hôn thì cháu K đã trưởng thành, bà
Ả yêu cầu nuôi cháu H1, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Theo các đơn yêu cầu chia tài sản chung bà Ả cho rằng vợ
chồng ông bà có các tài sản chung gồm:
- 05 công đất ruộng, trong đó có 03 công do cha chồng cho và đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn 02 công thì vợ chồng bà Ảnh chuyển
nhượng của vợ chồng bà Nguyễn Thị T1 và ông Dương Văn Ru B1 là chị ruột của
ông H, chuyển nhượng nhưng chưa làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất.
- 01 căn nhà tiền chế; hàng rào kiên cố; 01 thùng loa kẹo kéo; Các ô chuồng
nuôi heo và số tiền 86.800.000 đồng là giá trị các con heo (04 con heo nái, 09 con
heo khoảng 50kg/con và 13 con mới sinh được khoảng 1 tháng tuổi) theo biên bản
thỏa thuận ngày 26/8/2024. Ngoài ra, không còn tài sản nào khác.
Tổng giá trị các tài sản khoảng 500.000.000 đồng, khi ly hôn bà Ả yêu cầu
phân chia các tài sản trên theo quy định.
Về nợ chung: Vào năm 2023 vợ chồng có vay của Ngân hàng K1 số tiền
120.000.000 đồng, khi vay có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ly
hôn bà Ả yêu cầu vợ chồng cũng có trách nhiệm trả số tiền vay 120.000.000 đồng
cho Ngân hàng theo quy định. Ngoài ra, vợ chồng bà Ả có cố cho ông Phạm Kim
C 05 công đất ruộng với giá 200.000.000 đồng, bà Ả đồng ý phân chia số tiền cố
đất cùng ông H nhưng phải phân chia 05 công đất ruộng theo quy định.
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông
Nguyễn Văn H (gọi tắt là ông H) trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: ông H và bà Lê Kim Ả kết hôn với nhau năm 1999
nhưng không có đăng ký kết hôn, năm 2001 vợ chồng ông bà chia tay, không chung
sống với nhau, đến năm 2013 vợ chồng ông bà hàn gắn tình cảm và trở về sống
chung lại với nhau và sinh thêm cháu Nguyễn Thanh H1, đến năm 2018 mới đăng
ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang, hôn nhân do chúng
tôi tự nguyện. Đến cuối năm 2022 thì vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn, đến đầu
năm 2024 thì vợ chồng bất đồng quan điểm nên phát sinh mâu thuẫn trầm trọng
hơn, nay vợ chồng không thể tiếp tục sống với nhau nên bà Ả yêu cầu ly hôn ông
H đồng ý.
4
Về con chung: Ông H và bà Ả có 2 con chung tên Nguyễn Vũ K (nam) sinh
năm 2000 và cháu Nguyễn Thanh H1 (nam) sinh năm 2013, hiện các cháu đang
sống với gia đình. Khi vợ chồng ly hôn tùy nguyện vọng của các con theo ai người
đó nuôi, không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Theo các đơn yêu cầu chia tài sản chung ông H cho rằng vợ
chồng ông có những tài sản như sau:
- Phần đất diện tích khoảng 0,5 công và căn nhà chính cất trên đất.
- 01 căn tiền chế cất ven sông và mái che.
- Hàng rào kiên cố, các ô chuồng nuôi heo, các ô chuồng nuôi lươn, cây nước
hỏa tiễn; 01 (một) máy phát điện, 01 (một) thùng loa kẹo kéo.
- 25.000 con lươn sau khi trừ đi chi phí còn lại là 290.000.000 đồng và 30.000
con lươn sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận là 398.320.000 đồng.
- Số tiền 86.800.000 đồng là giá trị các con heo tại thời điểm Tòa án thẩm định
(04 con heo nái, 09 con heo khoảng 50kg/con và 13 con mới sinh được khoảng 1
tháng tuổi) theo biên bản ngày 26/8/2024. Ngoài ra, trước đó bà Ả đã bán 45 con
heo tơ sau khi trừ đi chi phí thức ăn còn lợi nhuận là 138.000.000 đồng.
Tổng tài sản chung của vợ chồng khoảng 1.300.000.000 đồng (một tỷ ba trăm
triệu). Khi ly hôn ông H yêu cầu phân chia các tài sản chung trên theo quy định cho
ông H và bà Ả.
- Còn về 05 công đất ruộng theo lời trình bày và yêu cầu của bà Ả thì ông H
không thừa nhận, ông H cho rằng 03 công ruộng ông H đứng tên Giấy chứng nhận
là của cha ông H là ông Nguyễn Văn L cho riêng ông H trong lúc vợ chồng chia
tay lần đầu, không phải cho chung hai vợ chồng, còn phần đất 02 công là của ông
Ru B1 là anh rể ông H cho ông H thuê để canh tác không phải sang bán. Nên ông
H không đồng ý phân chia cho bà Ảnh 05 công đất này theo yêu cầu của bà Ả.
Về nợ chung: Ông H thừa nhận vợ chồng có vay nợ của Ngân hàng K1 số tiền
120.000.000 đồng, khi vay có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông H
thừa nhận có cố 05 công đất ruộng (trong đó có 03 công đất là của ông H, 02 công
đất thuê của ông Ru B1) cho ông C với giá 200.000.000 đồng, đến năm 2026 mới
đến hạn chuộc lại đất, lúc cố là 02 vợ chồng cùng cố. Ngoài ra không còn nợ ai.
Khi ly hôn ông H yêu cầu chia đôi mỗi người trả phân nữa các khoản nợ theo quy
định.
Tại Bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Vũ K (gọi
tắt là anh K) trình bày:
5
Cha mẹ của anh K là ông Nguyễn Văn H và bà Lê Kim Ả có yêu cầu xin ly
hôn tại Tòa án. Trong khi Tòa án giải quyết cha mẹ anh K có yêu cầu chia tài sản
chung. Tuy nhiên cha anh K là ông H cho rằng các tài sản như: tiền bán 55.000 con
lươn, cây nước hỏa tiễn, máy phát điện và 10 ô chuồng nuôi lươn là tài sản chung
của cha mẹ nên có yêu cầu phân chia thì anh K không đồng ý vì đây là tài sản của
anh K không phải của cha mẹ.
Đây là tài sản của riêng cá nhân anh K đã tự xây dựng và mua sắm, chuồng
nuôi lươn một phần anh K xây dựng mới từ nền chuồng heo củ, một phần xây dựng
mới, anh K khoan cây nước hỏa tiển, mua máy phát điện để phục vụ việc nuôi lươn
nếu bị cúp điện, anh K tự lập nghề nuôi lươn phải vay mượn của bà con để đầu tư
xây dựng các ô chuồng lươn và mua máy móc....bên cạnh đó anh K còn được sự
giúp đỡ của anh Võ Duy L1 là chủ vựa lươn giống, thức ăn lươn đã hỗ trợ bán thiếu
cho anh K từ những ngày đầu bắt đầu tập nuôi lươn đến nay. Anh K xây dựng các
ô chuồng lươn nhờ trên phần đất mẹ anh là bà Ả đang ở. Do đó, khi bán lươn 2 đợt
thì tiền do anh K quản lý vì lươn là do anh K nuôi và trực tiếp chăm sóc.
Nay cha mẹ anh K xin ly hôn và cha anh K yêu cầu chia tài sản là tiền bán
lươn, cây nước hỏa tiễn, 10 ô chuồng lươn và máy phát điện thì anh K không đồng
ý, vì đây là tài sản của anh K.
Tuy nhiên, cây nước hỏa tiển, 10 ô chuồng lươn và máy phát điện thì hiện
đang được xây dựng gắn liền với phần đất nhà của mẹ anh K đang ở, nên nếu mẹ
anh không cho anh K tiếp tục sử dụng để nuôi lươn thì anh K sẽ di dời hoặc thỏa
thuận giao lại cho mẹ là bà Ảnh quản lý sử dụng toàn bộ tài sản này, anh K không
yêu cầu độc lập đối với các tài sản này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Kim C (gọi tắt ông C) trình
bày:
Năm 2022 vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà Lê Kim Ả có cố cho ông C
phần đất ruộng diện tích 05 công, với giá 200.000.000 đồng, thời hạn cố là 04 năm
(19/02/2022 (al) đến 19/02/2026 (al)), khi thỏa thuận cố đất hai bên có làm giấy
tay có ông H và bà Ả ký tên. Đất hiện nay ông C vẫn đang canh tác. Nay vợ chồng
ông H, bà Ả ly hôn thì ông C không có yêu cầu gì đối với phần đất này vì chưa đến
hạn chuộc lại đất, khi nào đến hạn chuộc lại đất ông H, bà Ả trả đủ tiền ông C sẽ
giao lại đất theo thỏa thuận.
Tại Bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Kim P (gọi
tắt là bà P) trình bày:
Vào khoảng 1996-1997 bà P có nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn B2 (chín
Bé) phần đất có diện tích 1,5 công tằm 03m, với giá khoảng 03 cây (30 chỉ) vàng
24k không nhớ chính xác, có làm giấy tay với ông Chín B3. Đến năm 1999 bà P
6
chuyển nhượng lại cho bà Lê Kim Ả một phần với diện tích 0,5 công tằm 03m với
giá là 01 cây (10 chỉ) vàng 24k, do là chị em với nhau nên không có làm giấy tờ gì,
lúc sang thì Kim Ả đã có chồng là anh H, tuy nhiên vợ chồng bà Ả sống không
hạnh phúc nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, rồi chia tay nhau sau khoảng 01
năm sống chung. Vài năm sau thì bà P tiếp tục sang phần đất còn lại của bà P là
khoảng 01 công tầm 03m lại cho ông T2 Nối kế bên phần đất của bà Lê Kim Ả, vì
vậy giấy tay sang đất của ông Chín B3 bà P đã giao cho ông T2 Nối nên bà P không
còn giữ giấy tờ gì liên quan đến phần đất của bà Lê Kim Ả.
Sau khi sang đất của bà P xong thì vài năm sau bà Ả mới cất nhà hiện nay để
ở, lúc đó tôi cũng không nhớ là vợ chồng bà Ả có sống chung hay không. Hiện nay
phần đất nhà này bà P không biết là được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hay chưa, do lúc bà P nhận chuyển nhượng từ ông Chín B3 thì bà P cũng chỉ làm
giấy tay chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc ông H cho rằng
vợ chồng ông H cùng với bà P để chuyển nhượng phần đất của ông Chín B3 là
hoàn toàn không đúng, bà P là người đứng ra chuyển nhượng và sang lại cho bà Ả.
Nay vợ chồng ông H và bà Ả có tranh chấp liên quan đến phần đất khoảng 0,5
công tầm 3m mà bà P đã chuyển nhượng cho bà Ả, phần đất này bà P đã sang xong
và nhận đủ vàng, bà P không liên quan đến đất nữa. Vì vậy bà P yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn Ru
B1 (gọi tắt là ông Ru B1) trình bày:
Ông Ru B1 có phần đất khoảng 02 công tầm 03m nằm giáp với phần đất của
ông Nguyễn Văn H, phần đất của ông H 03 công. Nguồn gốc phần đất của tôi là do
vợ chồng ông Ru B1 nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn S vào năm 2002 và
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/9/2007. Năm 2021 ông Ru
B1 có cho vợ chồng ông H, bà Ả thuê hết phần đất này, giá thuê mỗi công là
2.500.000 đồng, 02 công là 5.000.000 đồng/năm thuê không có thời hạn, khi nào
ông Ru B1 cần lấy lại thì ông H trả đất, do ông H là em vợ nên không có làm giấy
tờ gì.
Việc ông H lấy phần đất của Ru By cố đất cho người khác thì ông R By không
biết, ông Ru B1 chỉ mới biết từ khi vợ chồng ông H yêu cầu ly hôn và có yêu cầu
chia tài sản đối với phần đất của ông Ru B1.
Nay vợ chồng ông H, bà Ả ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung do là anh em
với nhau nên ông Ru B1 không có yêu cầu gì trong vụ án này về hợp đồng thuê đất,
nếu sau khi Toà án giải quyết vụ án và phân chia tài sản có liên quan đến phần đất
của ông Ru B1 thì ông sẽ khởi kiện vợ chồng ông Hoàng T3 vụ án khác. Ngoài ra,
tôi không có yêu cầu gì thêm.
7
Tại Bản tự khai ông Nguyễn Hòa H2 (gọi tắt là ông H2) là đại diện ủy quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng K1 trình bày:
Ông Nguyễn Văn H và bà Lê Kim Ả có ký kết hợp đồng tín dụng từng lần số
074/236/HĐ TD/0901-6489 ngày 27/09/2023 với Ngân hàng để vay số tiền vốn
120.000.000 đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng), mục đích vay bổ sung vốn trồng
lúa, nuôi heo, thời hạn vay là 12 tháng, kể từ ngày tiếp theo sau của ngày giải ngân
đầu tiên. Lãi suất theo hợp đồng là 13,8%/năm, lãi suất điều chỉnh theo nội dung
thỏa thuận trên khế ước nhận nợ. Lãi suất quá hạn là 150% lãi suất vay ngay tại
thời điểm chuyển nợ quá hạn. Lãi suất lãi chậm trả: 10%/năm. Hình thức thanh
toán 06 tháng trả lãi 01 lần, gốc trả cuối kỳ.
Hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm bằng hợp đồng thể chấp quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản gắn liền với đất số 103/22/HĐTC/0901-
6489 ngày 22/09/2022, đã được công chứng tại Văn phòng C2 ngày 23/09/2022 và
đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L, tỉnh
Hậu Giang ngày 26/09/2022. Tài sản bảo đảm là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CV 254222, số vào sổ: CS07259 do Sở T4 cấp ngày 16/06/2020 cho ông
Nguyễn Văn H. Tuy nhiên, trong quá trình vay vốn, ông Nguyễn Văn H và bà Lê
Kim Ả đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán nợ gốc, lãi cho Ngân hàng
theo hợp đồng tín dụng đã ký. Ngân hàng đã liên lạc nhắc nhờ nhiều lần nhưng
phía ông H và bà Ả đã không thanh toán nợ theo hợp đồng.
Nay vợ chồng ông H và bà Ả ly hôn, Ngân hàng K1 có yêu cầu độc lập yêu
cầu xem xét, giải quyết các nội dung sau:
- Yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Lê Kim Ả phải thanh toán cho Ngân hàng
số tiền vốn gốc là 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) và lãi suất theo
hợp đồng tín dụng đã ký kết đến khi ông H, bà Ả trả tất nợ.
- Trong trường hợp ông Nguyễn Văn H và bà Lê Kim Ả không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ hoặc trả không đầy đủ số tiền còn nợ thì Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản
thế chấp bảo đảm nợ vay theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số:
103/22/HĐTC/0901-6489 ngày 22/09/2022 để ưu tiên thanh thanh toán nợ cho
Ngân hàng.
Tại Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 51/2025/HNGĐ-ST ngày
13/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn của nguyên đơn bà
Lê Kim Ả và bị đơn ông Nguyễn Văn H.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh H1 (giới tính: nam) sinh năm 2013
cho bà Lê Kim Ả tiếp tục nuôi dưỡng (cháu H1 hiện đang sống chung với bà Ả).
8
Ông Nguyễn Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung
không ai được quyền cản trở.
Về cấp dưỡng: Bà Lê Kim Ả không yêu cầu ông Nguyễn Văn H cấp dưỡng
nuôi con nên không xem xét.
3. Về tài sản chung:
3.1. Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bà Lê Kim Ả và ông Nguyễn
Văn H về việc phân chia các tài sản bao gồm: 01 căn nhà tiền chế, mái che, hàng
rào, thùng loa kẹo kéo, số tiền heo 86.800.000 đồng theo biên bản thỏa thuận ngày
26/8/2024, các ô chuồng heo. Tổng giá trị là: 227.356.130 đồng (hai trăm hai mươi
bảy triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn một trăm ba mươi đồng).
Bà Lê Kim Ả được sở hữu số tiền 113.678.065 đồng (một trăm mười ba triệu
sáu trăm bảy mươi tám nghìn không trăm sáu mươi lăm đồng). Ông Nguyễn Văn
H được sở hữu số tiền 113.678.065 đồng (một trăm mười ba triệu sáu trăm bảy
mươi tám nghìn không trăm sáu mươi lăm đồng).
Buộc bà Lê Kim Ả có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn H số tiền
113.678.065 đồng (một trăm mười ba triệu sáu trăm bảy mươi tám nghìn không
trăm sáu mươi lăm đồng).
Bà Lê Kim Ả được sở hữu toàn bộ tài sản: 01 căn nhà tiền chế, mái che, hàng
rào, thùng loa kẹo kéo, các ô chuồng heo.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3.2. Không chấp nhận yêu cầu phân chia tài sản của ông nguyễn Văn H đối
với các tài sản gồm: Giá trị 30.000 con lươn, cây nước hỏa tiển, máy phát điện, 10
ô chuồng lươn và phần đất tại thửa số 99 diện tích 606,3m
2
, loại đất CLN đất chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo Mảnh trích đo địa chính số
116/CHK ngày 25/10/2024).
3.3. Đình chỉ một phần yêu cầu chia tài sản chung của bà Lê Kim Ả đối với
ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu phân chia 05 công đất ruộng.
3.4. Đình chỉ một phần yêu cầu chia tài sản chung của ông Nguyễn Văn H đối
với bà Lê Kim Ả về việc yêu cầu phân chia giá trị 25.000 con lươn, số tiền bán 45
con heo là 138.000.000 đồng (một trăm ba mươi tám triệu đồng) và 10 (mười) chỉ
vàng 18k (nữ trang).
9
3.4. Công nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Kim Ả phần đất tại vị trí I diện
tích 552,3m
2
(trong đó có 77,6m2 đất thuộc chỉ giới quy hoạch giao thông), phần
đất tại vị trí II diện tích 54m
2
(thuộc đất ven kênh) loại đất CLN, tờ bản đồ số 4 đất
tọa lạc tại Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang, phần đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. (Kèm theo Mảnh trích đo địa chính số 116/CHK ngày
25/10/2024).
Bà Lê Kim Ả được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện kê khai
đăng ký và thực hiện các thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
4. Về nợ chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của Ngân hàng Thương
mại cổ phần K1 và bà Lê Kim Ả và ông Nguyễn Văn H về việc tranh chấp hợp
đồng tín dụng.
Nguyên đơn bà Lê Kim Ả và bị đơn ông Nguyễn Văn H cùng có nghĩa vụ trả
nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần K1 số tiền 142.377.468 đồng (một trăm
bốn mươi hai triệu ba trăm bảy mươi bảy nghìn bốn trăm sáu mươi tám đồng).
Trong đó: Vốn gốc là 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) và lãi là
20.377.468 đồng (hai mươi triệu ba trăm bảy mươi bảy nghìn bốn trăm sáu mươi
tám đồng).
Bà Lê Kim Ả có trách nhiệm trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần K1 số
tiền 71.188.734 đồng (bảy mươi mốt triệu một trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm
ba mươi bốn đồng). Trong đó: Vốn gốc là 60.000.000 đồng, lãi tạm tính đến ngày
13/5/2025 là 11.188.734 đồng (mười một triệu một trăm tám mươi tám nghìn bảy
trăm ba mươi bốn đồng).
Buộc ông Nguyễn Văn H có trách nhiệm trả cho Ngân hàng K1 số tiền
71.188.734 đồng (bảy mươi mốt triệu một trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm ba
mươi bốn đồng). Trong đó: Vốn gốc là 60.000.000 đồng, lãi tạm tính đến ngày
13/5/2025 là 11.188.734 đồng (mười một triệu một trăm tám mươi tám nghìn bảy
trăm ba mươi bốn đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp
tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi
suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong
khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về
việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi
suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết
định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất
của Ngân hàng cho vay.
10
5. Chưa xem xét đối với số tiền cố đất 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng)
của ông Phạm Kim C do chưa phát sinh tranh chấp. Dành quyền khởi kiện cho ông
Phạm Kim C đối với bà Lê Kim Ả và ông Nguyễn Văn H theo quy định pháp luật
về tranh chấp hợp đồng cầm cố khi các bên phát sinh tranh chấp.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền, nghĩa vụ
thi hành án, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/5/2025, bị đơn ông Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Nội dung yêu cầu cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu xác định
số tiền bán lươn (30.000 con, lợi nhuận sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận là
350.000.000 đồng), 01 cây nước hoả tiễn, 01 máy phát điện, các chuồng nuôi lươn
là tài sản chung của vợ chồng. Yêu cầu chia đôi các tài sản trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn Nguyễn Văn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét
xử sửa bản án sơ thẩm, xác định số tiền bán lươn (30.000 con, lợi nhuận sau khi trừ
chi phí còn lợi nhuận là 350.000.000 đồng), 01 cây nước hoả tiễn, 01 máy phát
điện, các chuồng nuôi lươn là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu được chia đôi
theo quy định pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Đối với giá trị
của 30.000 con lươn thì bà Ả đã thừa nhận các ô chuồng nuôi lươn là của vợ chồng
bà, nên 30.000 con lươn được nuôi trong chuồng lươn cũng là của vợ chồng ông
H, ngoài ra, anh K cho rằng lươn do anh K nuôi và bán nhưng anh K không biết số
lượng lươn, không biết số tiền bán lươn là không phù hợp với thực tế của người
bán lươn. Ông B4, ông L1 và ông H trình bày mâu thuẫn với lời trình bày của ông
K. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm có cung cấp 01 bản tự khai của ông Nguyễn
Thành D là người trực tiếp được ông H thuê để xây dựng các chuồng nuôi lươn nên
đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại các lời khai trên và công nhận đây là tài sản
chung của vợ chồng ông H, bà Ả và chia đôi theo quy định pháp luật; Đối với 01
cây nước hoả tiễn, 01 máy phát điện thì không có gì chứng minh nên đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ các quy định pháp luật để giải quyết.
Nguyên đơn bà Lê Kim Ả đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Vũ K trình bày: Đối với
số tiền bán 30.000 con lươn, máy phát điện, cây nước hỏa tiễn và các ô chuồng
nuôi lươn là tài sản của anh K, không phải của ông H và bà Ả nên không đồng ý
phân chia theo yêu cầu của ông H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm:
11
Về tố tụng, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký, đương sự đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân
sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 01 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ,
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo đúng
theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên
được xem là hợp lệ và được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H:
[2.1] Ông H kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định số tiền
bán lươn (30.000 con, lợi nhuận sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận là 350.000.000
đồng), 01 cây nước hoả tiễn, 01 máy phát điện, các chuồng nuôi lươn là tài sản
chung của vợ chồng và chia đôi theo quy định pháp luật. Nguyên đơn Lê Kim Ả
và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Vũ K không đồng ý cho rằng
đây là tài sản riêng của anh K nên không đồng ý phân chia.
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm ông H có cung cấp 01 Bản tự khai của ông
Nguyễn Thành D để chứng minh rằng ông H là người trực tiếp thuê ông D xây
dựng các chuồng nuôi lươn; Bản tự khai trên là được đánh máy có chữ ký tên “D”.
Xét thấy tài liệu trên chưa đảm bảo sự khách quan vì không có căn cứ xác định
được văn bản trên có phải do ông D làm và ký tên hay không, ông D là mối quan
hệ như thế nào với các đương sự trong vụ án, vì vậy Tòa án sẽ căn cứ vào các chứng
cứ khác có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.
[2.3] Quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng cung C1 giấy thống kê số lượng
lươn ngày 20/11/2024 có ông Vũ Văn B4 xác nhận có mua lươn của ông H, bà Ả.
Tuy nhiên, qua xác minh của Tòa án đối với ông Vũ Văn B4 (bút lục 49) thể hiện
ông B4 chỉ là người đến bắt lươn và cân số lượng lươn theo yêu cầu của anh Võ
Duy L1 vì ông B4 làm thuê cho anh L1, còn tờ kê số lượng lươn khi cân là do ông
H nhờ ông B4 ghi lại dùm sau khi ông B4 cân lươn xong, ông B4 không mua bán
giao dịch gì với ông H hay bà Ả. Qua xác minh đối anh L1 (bút lục 50) thể hiện
anh L1 là chủ đại lý cung ứng thức ăn và lươn giống, đồng thời giới thiệu thu mua
lươn thịt, anh L1 giao dịch mua bán thức ăn và lươn giống cho anh K khoảng 3-4
năm nay và cũng là người trực tiếp giao dịch giá cả khi thu mua lươn thịt của anh
12
K, anh L1 không giao dịch mua bán lươn với bà Ả hay ông H, còn ông B4 là người
cân lươn và bắt lươn theo yêu cầu của anh L1. Do đó, chứng cứ ông Hoàng cung
C1 không được ông B4 và anh L1 thừa nhận và mâu thuẫn với lời khai của ông B4
và anh L1, nên ông H cho rằng tiền bán 30.000 con lươn là tài sản chung của vợ
chồng ông H, bà Ả là chưa đủ cơ sở xem xét. Ngoài ra, ông H cũng không cung
cấp được hóa đơn chứng từ thể hiện mua máy phát điện hay xây dựng cây nước
hỏa tiển và 10 ô chuồng lươn nên không có căn cứ xác định máy phát điện, cây
nước hỏa tiển và 10 ô chuồng lươn là tài sản chung của vợ chồng ông H, bà Ả. Do
đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông H về việc yêu cầu xác
định số tiền bán lươn (30.000 con, lợi nhuận sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận là
350.000.000 đồng), 01 cây nước hoả tiễn, 01 máy phát điện, các chuồng nuôi lươn
là tài sản chung của vợ chồng là có căn cứ.
[3]. Từ những nhận định trên, xét thấy bị đơn kháng cáo nhưng không cung
cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới có giá trị pháp lý nên không có cơ sở để chấp
nhận kháng cáo của bị đơn.
[4]. Lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là
không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là phù
hợp với các quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
Giữ nguyên Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 51/2025/HNGĐ-ST
ngày 13/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu phân chia tài sản của ông nguyễn Văn H đối với
các tài sản gồm: Giá trị 30.000 con lươn, cây nước hỏa tiển, máy phát điện, 10 ô
chuồng lươn.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn phải nộp 300.000
đ
(Ba trăm nghìn đồng)
được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang án phí theo biên lai số 0010622 lập ngày
29 tháng 5 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Mỹ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
13
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các phần nhận định và quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 08/8/2025).
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Cần Thơ;
- TAND khu vực 12 - Cần Thơ;
- Phòng THADS khu vực 12 -
Cần Thơ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Đào Thị Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm