Bản án số 50/2021/HSST ngày 04/08/2021 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 50/2021/HSST

Tên Bản án: Bản án số 50/2021/HSST ngày 04/08/2021 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế
Số hiệu: 50/2021/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/08/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Trương Hoàng D về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH THỪA THIÊN HU

----------

Bản án s: 50/2021/HSST

Ngày: 04 - 8 2021

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Đc lp – Tự do – Hnh phúc

--------

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 50/2021/HSST NGÀY 04/08/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số103/2021/QĐXXST-ST ngày 25 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trƣơng Hoàng D (tên gọi khác: Boy) sinh ngày 10 tháng 02 năm 1992 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 46/4 đường T, phường Th, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Đình H và bà Hoàng Thị Bạch K, vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tháng 4/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế khởi tố về hành vi “Đánh bạc”; bị cáo bị bắt tạm giam 13/11/2020 cho đến nay; có mặt.

- Các bị hại:

1. Chị Nguyễn Hồ Hoàng A, sinh năm: 1985, trú tại: 401/20 đường B, phường 13, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm: 1993, trú tại: 5/42/512 N, phường V, quận L, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

3. Chị Mai Thị Thu L, sinh năm: 1996, trú tại: 119/42 L, phường 7, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Trung H, sinh năm: 2000, trú tại: 15/29F Đ, phường N, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

5. Chị Phan Thị Diệu L, sinh năm: 1993, trú tại: D27/K80 L, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

6. Anh Nguyễn Thanh S, sinh năm: 1987, trú tại: 111/5 D, khu phố H, thành phố T, tỉnh Bình D, vắng mặt.

7. Anh Nguyễn Thành C, sinh năm: 1988, trú tại: V - tầng 15B, thành phố Hà Nội, vắng mặt.

8. Anh Nguyễn Phúc Th, sinh năm: 1992, trú tại: Cao Xá, Đ, Hà Nội, vắng mặt.

9. Anh Vũ Thế S, sinh năm: 1984, trú tại: Thôn B, Xã Q, S thành phố Hà Nội, vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh D Quang H, sinh năm 1986, trú tại: 4/4 C, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

2. Chị Võ Thị L, sinh năm 1996, trú tại: 2/52 P, phường Th thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

3. Bà Hoàng Thị Bạch K, sinh năm 1964, trú tại: 46/4 T, phường Th, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 1/2020, Trương Hoàng D quen biết với D Quang H, là chủ quán Internet có tên “Chiên Thần”. Tại đây, D thường xuyên thực hiện các giao dịch trực tuyến như: Trả tiền giờ, mua các loại thẻ nạp điện thoại thông qua các hình thức chuyển tiền trên nền tảng các Website kết nối mạng Internet cho anh H nên biết rõ tài khoản mà anh H sử dụng để giao dịch là tài khoản Vietcombank số 0161001733605 và tài khoản Techcombank số 19033251442017. Vì là khách hàng quen nên D thường nhờ anh H rút tiền thông qua tài khoản trên. Cuối tháng 01/2020, Trương Hoàng D nhặt được 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên D Quang H, trùng tên với anh H mà D hay giao dịch. Do thường xuyên phụ giúp anh H trong việc mua bán trực tuyến nên Trương Hoàng D thấy nhu cầu mua bán các mặt hàng có xuất xứ từ nước ngoài trên các Website thương mại điện tử tăng cao, hình thức thanh toán trực tuyến thuận tiện nên đã nảy sinh ý định phạm tội với thủ đoạn như sau: D tự tạo lập một tài khoản Facebook mang tên D Quang H với mục đích đăng tin nhận mua giúp các mặt hàng trên để chiếm đoạt tiền đặt cọc của bị hại trên toàn quốc. Trương Hoàng D chủ động tìm kiếm hình ảnh các mặt hàng rồi đăng lên Facebook D Quang H và lập các Facebook ảo khác để bình luận các sản phẩm nhằm tạo uy tín cho tài khoản Facebook D Quang H, thuận lợi cho việc gây án. D đăng ký sử dụng hai số điện thoại: 0901130365 và số 0901131080 để đăng ký ví MoMo của Công ty cổ phần dịch vụ di động trực tuyến (M_Service) và mượn thẻ tài khoản Vietcombank của chị Võ Thị L (là người yêu của D) để rút tiền. D nói dối chị L là tiền do chơi game thắng mà có. Vì là người yêu của D nên chị L tin tưởng và đồng ý cho D mượn thẻ ATM của mình. Ngay sau khi các bị hại chuyển tiền đặt cọc đến, nếu chuyển vào tài khoản của anh D Quang H thì D nói dối là tiền do bạn hoặc người yêu mình chuyển đến. Do là chỗ quen biết nên anh H không nghi ngờ mà rút tiền giúp rồi đưa cho D. Việc lập các tài khoản Facebook và đăng tin phần lớn được thực hiện tại quán Internet có tên “Chiên Thần” và điện thoại của D. Khi điện thoại của D bị hư hỏng, có một vài lần D mượn điện thoại Samsung GlaxyJ4 của mẹ là bà Hoàng Thị Bạch K để giao dịch với bị hại nhưng D nói dối bà K là gọi điện nhắn tin cho bạn Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2020 đến tháng 6/2020, bằng thủ đoạn như trên, Trương Hoàng D đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền đặt cọc của 09 người với với tổng số tiền: 75.380.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 02/03/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp sản phẩm nhiệt kế Sanitas cho chị Nguyễn Hồ Hoàng A, sinh năm: 1985, trú tại: 401/20 đường Bình Lợi, phường 13, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Chị A đã chuyển khoản 02 lần vào tài khoản:

0161001733605 vào các ngày 02/3/2020, 03/3/2020 và 01 lần vào tài khoản:

19033251442017 vào ngày 06/3/2020, với tổng số tiền 15.560.000 đồng.

Vụ thứ 2: Ngày 04/3/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp chị Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm: 1993, trú tại: 5/42/512, phường V quận L thành phố Hải Phòng sản phẩm nhiệt kế Đức nhãn hiệu SFT77. Chị Th đã chuyển tiền 02 lần vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H vào các ngày 04 và 05/3/2020, với tổng số tiền đặt cọc là: 11.800.000 đồng.

Vụ thứ 3: Ngày 05/3/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua cho chị Mai Thị Thu L, sinh năm: 1996, trú tại: 119/42 L, phường 7, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh mỹ phẩm có xuất xứ nước ngoài. Chị L đã chuyển 01 lần vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H vào ngày 05/3/2020 và 01 lần vào tài khoản: 1012611198 của Võ Thị L, với tổng số tiền đặt cọc là 11.970.000 đồng vào ngày 09/3/2020.

Vụ thứ tư: Ngày 05/3/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời anh Nguyễn Trung H, sinh năm: 2000, trú tại: 15/29F Đà Nẵng, Máy Tơ, Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng mua mũ nhãn hiệu GUCI. Anh H đã chuyển 01 lần vào tài khoản 0161001733605 của D Quang H, với số tiền đặt cọc là 2.800.000 đồng vào ngày 18/3/2020.

Vụ thứ 5: Vào 02 ngày, ngày 11/4/2020 và ngày 12/4/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua cho chị Phan Thị Diệu L, sinh năm: 1993, trú tại: D27/K80 Long Đức 1, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai các sản phẩm ba lô, ví cầm tay, đồng hồ các loại có xuất xứ ở nước ngoài. Chị L đã chuyển 01 lần vào tài khoản: 1012611198 của Võ Thị L vào ngày 11/4/2020 và chuyển 03 lần chuyển tiền vào ví MoMo số điện thoại:

0901131080 tên tài khoản Hải D ngày 12, 13/4/2020, với tổng số tiền đặt cọc là 4.850.000 đồng.

Vụ thứ 6: Ngày 19/4/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua sản phẩm thẻ tặng quà có tên Gift trên nền tảng ứng dụng Goole Play cho anh Nguyễn Thanh S, sinh năm: 1987, trú tại: 111/5 DDX101, khu phố 8, Hiệp An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình D. Cùng ngày, anh S đã chuyển 01 lần vào tài khoản ví MoMo: 0901130365 tên tài khoản Lê Hữu Quang và 01 lần chuyển vào ví MoMo số điện thoại: 0901131080 tên tài khoản Hải D, với tổng số tiền 1.630.000 đồng.

Vụ thứ 7: Ngày 28/4/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp tivi nhãn hiệu AppleTV 4K 32GB cho anh Nguyễn Thành C, sinh năm: 1988, trú tại: Vinhhomes GreenBay Tòa G3 - tầng 15B Lương Thế Vinh, thành phố Hà Nội. Cùng ngày, anh C đã chuyển 2 lần vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H, với số tiền đặt cọc là 3.600.000 đồng.

Vụ thứ 8: Ngày 26/4/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D biết rõ Nguyễn Phúc Th, sinh năm: 1992, trú tại: Cao Xá, Đức Thượng, Hoài Đức, Hà Nội có bán gói hàng thẻ Zing trên nền tảng Google play. Thịnh đã nhận lời chuyển giá trị của thẻ Zing với trị giá 800.000 đồng và chụp ảnh xác định giá trị của thẻ thông qua tài khoản ngân hàng BIVB mang tên Nguyễn Phúc Th và cho các mã thẻ đưa cho Trương Hoàng D. D đã chiếm đoạt giá trị thẻ Zing trên để sử dụng cá nhân.

Vụ thứ 9: Ngày 03/5/2020, thông qua Facebook D Quang H, Trương Hoàng D đã nhận lời thanh toán các món hàng có xuất xứ nước ngoài trên trên hai trang Wedsite: audiogon.com và trang Wedsite http://ebay.com cho anh Vũ Thế S, sinh năm: 1984, trú tại: Thôn Bắc Thượng, Xã Quang Tiến, Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Anh Sùng đã chuyển 2 lần vào tài khoản D Quang H vào ngày 03/5/2020 và chuyển 03 lần vào Ví MoMo số điện thoại: 0901131080 tên tài khoản Hải D, vào ngày 04/5/2020, với tổng giá trị: 22.370.000 đồng - Vật chứng của vụ án:

01 điện thoại Samsung GlaxyJ4 có số imei 1: 352987107748875, số imei 2:

352988107748873. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử lý vật chứng trả tài sản cho chủ sở hữu là bà Hoàng Thị Bạch K.

- Về dân sự:

Bị hại: Nguyễn Hồ Hoàng A, Mai Thị Thu L, Nguyễn Thanh S đã được trả lại toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sự.

Các bị hại có yêu cầu Trương Hoàng D phải trả lại số tiền gồm: Nguyễn Thị Thu Th yêu cầu trả lại 11.800.000 đồng, Nguyễn Trung H yêu cầu trả lại 2.800.000 đồng, Phan Diệu Linh yêu cầu trả lại 4.850.000 đồng, Nguyễn Thành C yêu cầu trả lại 3.600.000 đồng, Vũ Thế S yêu cầu trả lại 22.370.000 đồng, Nguyễn Phúc Th yêu cầu trả lại 800.000 đồng, Tại bản Cáo trạng số 20/CT-VKS-P2 ngày 07 tháng 5 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố Trương Hoàng D về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b, c, đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng b, c, đ khoản 2 Điều 290; điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để tuyên bố Trương Hoàng D phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” và xử phạt bị cáo Trương Hoàng D từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Trương Hoàng D phải trả số tiền chiếm đoạt còn lại cho các bị hại.

Tại phiên tòa bị cáo Trương Hoàng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; lời khai của các bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác của vụ án; có đủ căn cứ kết luận:

Từ tháng 3/2020 đến tháng 9/2020, Trương Hoàng D đã tự tạo lập một tài khoản Facebook mang tên D Quang H để đăng tin nhận mua giúp các mặt hàng có xuất xứ từ nước ngoài và mua bán thẻ Zing để chiếm đoạt tiền đặt cọc của 09 bị hại trên toàn quốc, cụ thể:

[2.1] Ngày 02/03/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp sản phẩm nhiệt kế Sanitas cho chị Nguyễn Hồ Hoàng A. Chị A đã chuyển khoản 02 lần vào tài khoản: 0161001733605 vào các ngày 02/3/2020, 03/3/2020 và 01 lần vào tài khoản: 19033251442017 vào ngày 06/3/2020. D chiếm đoạt số tiền 15.560.000 đồng.

[2.2] Ngày 04/3/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp chị Nguyễn Thị Thu Th sản phẩm nhiệt kế Đức nhãn hiệu SFT77. Chị Th đã chuyển tiền 02 lần vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H vào các ngày 04 và 05/3/2020, D chiếm đoạt tiền đặt cọc là: 11.800.000 đồng.

[2.3] Ngày 05/3/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua cho chị Mai Thị Thu L mỹ phẩm có xuất xứ nước ngoài. Ngày 05/3/2020 Chị L đã chuyển vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H và ngày 09/3/202001 chuyển vào tài khoản: 1012611198 của Võ Thị L, D chiếm đoạt tiền đặt cọc là 11.970.000 đồng.

[2.4] Ngày 05/3/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời anh Nguyễn Trung H mua mũ nhãn hiệu GUCI. Vào ngày 18/3/2020 anh H đã chuyển 01 lần vào tài khoản 0161001733605 của D Quang H, D chiếm đoạt tiền đặt cọc là 2.800.000 đồng.

[2.5] Vào 02 ngày 11/4/2020 và ngày 12/4/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua cho chị Phan Thị Diệu L các sản phẩm ba lô, ví cầm tay, đồng hồ các loại có xuất xứ ở nước ngoài. Chị L đã chuyển 01 lần vào tài khoản: 1012611198 của Võ Thị L vào ngày 11/4/2020 và chuyển 03 lần chuyển tiền vào ví MoMo số điện thoại: 0901131080 tên tài khoản Hải D ngày 12, 13/4/2020. D chiếm đoạt tiền đặt cọc là 4.850.000 đồng.

[2.6] Ngày 19/4/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua sản phẩm thẻ tặng quà có tên Gift trên nền tảng ứng dụng Goole Play cho anh Nguyễn Thanh S. Cùng ngày, anh S đã chuyển 01 lần vào tài khoản ví MoMo: 0901130365 tên tài khoản Lê Hữu Quang và 01 lần chuyển vào ví MoMo số điện thoại: 0901131080 tên tài khoản Hải D. D chiếm đoạt được số tiền 1.630.000 đồng.

[2.7] Ngày 28/4/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời mua giúp tivi nhãn hiệu AppleTV 4K 32GB cho anh Nguyễn Thành C. Cùng ngày, anh C đã chuyển 2 lần vào tài khoản: 0161001733605 của D Quang H, D chiếm đoạt tiền đặt cọc là 3.600.000 đồng.

[2.8] Ngày 26/4/2020 Trương Hoàng D biết rõ Nguyễn Phúc Th có bán gói hàng thẻ Zing trên nền tảng Google play. Thịnh đã nhận lời chuyển giá trị của thẻ Zing với trị giá 800.000 đồng. D đã chiếm đoạt giá trị thẻ Zing trên để sử dụng cá nhân.

[2.9] Ngày 03/5/2020 Trương Hoàng D đã nhận lời thanh toán các món hàng có xuất xứ nước ngoài cho anh Vũ Thế S. Anh S đã chuyển 2 lần vào tài khoản D Quang H vào ngày 03/5/2020 và chuyển 03 lần vào Ví MoMo số điện thoại: 0901131080 tên tài khoản Hải D, vào ngày 04/5/2020. D chiếm đoạt được 22.370.000 đồng.

Tổng số tiền các lần D chiếm đoạt là 75.380.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng).

[3] Trương Hoàng D đã tự tạo lập một tài khoản Facebook mang tên D Quang H để đăng tin nhận mua giúp các mặt hàng có xuất xứ từ nước ngoài và mua bán thẻ Zing nhưng thực tế D không có hàng để giao mà chỉ để chiếm đoạt tài sản của những người có nhu cầu mua hàng; D đã 09 lần thực hiện chiếm đoạt 75.380.000 đồng của 09 bị hại; Trong thời gian thực hiện hành vi phạm tội, D không có công ăn, việc làm, số tiền D chiếm đoạt được dùng vào việc chi tiêu cuộc sống. Hành vi nêu trên của Trương Hoàng D có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: Trương Hoàng D đã phạm vào tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm b, c, đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào mà được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; đã tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét nhân thân của bị cáo thấy rằng: Trương Hoàng D chưa có tiền án tiền sự, nhưng ngoài vụ án này ra Trương Hoàng D còn bị khởi tố, xét xử về hành vi đánh bạc, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Về vật chứng: Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi phạm tội và quá trình điều tra, Trương Hoàng D đã tác động gia đình bồi thường cho chị Nguyễn Hồ Hoàng A 15.560.000 đồng, chị Mai Thị Thu L 11.970.000 đồng, anh Nguyễn Thanh S 1.630.000 đồng. Những người này không có yêu cầu gì nữa.

Xét yêu cầu của những bị hại còn lại buộc Trương Hoàng D phải trả lại số tiền còn lại mà D đã chiếm đoạt của họ, yêu cầu này là có căn cứ, phù hợp với Điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật Dân sự, nên được chấp nhận, cụ thể: Trả cho chị Nguyễn Thị Thu Th 11.800.000 đồng, cho anh Nguyễn Trung H 2.800.000 đồng, cho chị Phan Diệu Linh 4.850.000 đồng, cho anh Nguyễn Thành C 3.600.000 đồng, cho anh Vũ Thế S 22.370.000 đồng, cho anh Nguyễn Phúc Th 800.000 đồng.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ điểm b, c, đ khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Trương Hoàng D (tên gọi khác Boy) phạm tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trương Hoàng D 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/11/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Trương Hoàng D phải trả cho những người bị hại cụ thể như sau:

+ Trả cho chị Nguyễn Thị Thu Th 11.800.000 đồng.

+ Trả cho anh Nguyễn Trung H 2.800.000 đồng.

+ Trả cho chị Phan Diệu L 4.850.000 đồng.

+ Trả cho anh Nguyễn Thành C 3.600.000 đồng.

+ Trả cho anh Vũ Thế S 22.370.000 đồng.

+ Trả cho anh Nguyễn Phúc Th 800.000 đồng.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm một khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; khoản 2, Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc Trương Hoàng D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.311.000 đồng án phí dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

i nhận:

- VKSNDCC tại Đà Nẵng;

- VKSND tnh TT - Huế;

- Phòng PV06 CA tỉnh;

- Phòng CSĐT Công an tnh TT Huế;

- Cơ quan THAHS Công an tỉnh TT Huế;

- Tri tạm giam Công an tnhTT - Huế;

- Cục THADS tnh TT - Huế;

- Sở Tư pháp tnh TT - Huế;

- Bị cáo;

- Bị hại; Ngưi CQLNVLQ

- Lưu: HSVA, HCTP, KTNV, Tòa HS.

TM. HỘI ĐNG XÉT XỬ SƠ THM

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Lê Hữu Nam

 

Tải về
Bản án 50/2021/HSST Thừa Thiên Huế Bản án 50/2021/HSST Thừa Thiên Huế

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 50/2021/HSST Thừa Thiên Huế Bản án 50/2021/HSST Thừa Thiên Huế

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất