Bản án số 178/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của TAND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 178/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 178/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 178/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của TAND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản |
---|---|
Tội danh: | 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Phong (TAND tỉnh Bắc Ninh) |
Số hiệu: | 178/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/12/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BN
BẢN ÁN 178/2021/HS-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 173/2021/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2021/QĐXXST-HS, ngày 15/12/2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Tiến T2, sinh năm 1999.
Trú tại: Thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1979; gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất; chưa có vợ.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2021 đến nay (có mặt tại phiên toà). Người bị hại: Anh Bùi Văn H, sinh năm 2001.
Quê quán: Thôn 1, xã Thạch Long, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá.
Tạm trú tại: Thôn Lạc Nhuế, xã Thuỵ Hoà, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (xin vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Toàn, sinh năm 2000. Trú tại: Thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Tiến T2 và anh Bùi Văn H đều là công nhân xây dựng công trường của Công ty Cát Tường tại thôn Lạc Nhuế, xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong. Quá trình làm việc cùng nhau, T2 có mượn chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 6 của anh H để sử dụng nên biết mật khẩu điện thoại của anh H là “060820”. Khoảng 17 giờ ngày 06/9/2021, T2 mượn điện thoại của anh H rồi vào album ảnh trong điện thoại xem thì thấy lưu một bức ảnh có nội dung ghi mật khẩu tài khoản Ngân hàng TMCP Quân đội (MBbank) của anh H là “Buivanhung2001”. Thấy vậy, T2 nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền trong tài khoản Ngân hàng MBbank của anh H. Tối ngày 06/9/2021, T2 và anh H ngủ cùng giường tại lán của công trường.
Khoảng 23 giờ cùng ngày, lợi dụng lúc anh H ngủ say, T2 đã lấy chiếc điện thoại iPhone 6 của anh H và đăng nhập vào tài khoản Ngân hàng MBbank trong ứng dụng internetbanking trên điện thoại của anh H. T2 nhập mật khẩu “Buivanhung2001” thì đăng nhập được vào ứng dụng MBbank. T2 kiểm tra thì thấy tài khoản ngân hàng của anh H còn hơn 26.000.000đ. Sau đó, T2 sử dụng tài khoản facebook “T2 Thỏ” của T2 nhắn tin đến tài khoản facebook “Toàn Mỡ” của anh Nguyễn Văn Toàn, sinh năm 2000 trú tại thôn Đại Lâm, xã Tam Đa. T2 hỏi tài khoản ngân hàng của anh Toàn để T2 chuyển tiền. Anh Toàn nhắn tin số tài khoản 8086666456789 mở tại Ngân hàng MBbank của anh Toàn cho T2. Sau đó, T2 chuyển số tiền 19.000.000đ từ tài khoản Ngân hàng MBbank số 0608123459999 của anh H đến tài khoản ngân hàng của anh Toàn, tuy nhiên không thành công do T2 nhập sai mã OTP. Khoảng 00 giờ 22 phút ngày 07/9/2021, T2 tiếp tục đăng nhập vào ứng dụng MBbank trên điện thoai của anh H và chuyển khoản số tiền 19.000.000đ cho anh Toàn. Lần này, T2 thử nhập mã OTP là “060820” (trùng với mật khẩu đăng nhập điện thoại của anh H” thì giao dịch thành công. Sau đó, T2 bảo anh Toàn sáng ngày 07/9/2021 đi rút tiền mặt cho T2. Vì T2 đang nợ anh Toàn 2.000.000đ nên anh Toàn bảo T2 trả luôn anh Toàn số tiền trên, T2 đồng ý. Khoảng 10 giờ ngày 07/9/2021, anh Toàn rút 17.000.000đ trả cho T2, số tiền trên T2 đã ăn tiêu hết.
Sau khi ngủ dậy, phát hiện bị mất tiền trong tài khoản ngân hàng MBbank nên anh Bùi Văn H đã trình báo sự việc đến Công an huyện Yên Phong.
Ngày 12/10/2021, Nguyễn Tiến T2 đến Cơ quan Công an huyện Yên Phong đầu thú.
Ngày 27/10/2021, anh Nguyễn Văn Toàn đã giao nộp số tiền 2.000.000đ cho cơ quan điều tra.
Bản cáo trạng số: 169/CT-VKSYP, ngày 20/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố Nguyễn Tiến T2 về tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, theo điểm c, khoản 1, điều 290 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong duy trì quyền công tố trước phiên toà, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Tiến T2 về tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, điều 290; điều 65; điểm b, i, s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự; điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt T2 từ 12 đến 14 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 28 tháng. Trả tự do ngay cho bị cáo nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 07/9/2021, lợi dụng anh Bùi Văn H ngủ say, Nguyễn Tiến T2 đã sử dụng chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 6 của anh H để đăng nhập bất hợp pháp vào tài khoản số 0608123459999 của Ngân hàng MBbank của anh Bùi Văn H trong ứng dụng MBbank trên điện thoại. Sau đó, T2 chuyển khoản số tiền 19.000.000đ từ tài khoản ngân hàng MBbank của anh H đến tài khoản số 8086666456789 mở tại Ngân hàng MBbank của anh Nguyễn Văn Toàn và chiếm đoạt số tiền trên ăn tiêu hết. Hành vi của Nguyễn Tiến T2 đã phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, phạm vào điểm c, khoản 1, điều 290 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố là đúng người, đúng tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, rất táo bạo và liều lĩnh, đã gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Yên Phong, xâm phạm đến hoạt động bình thường trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, dư luận xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm. Bởi vậy cần phải có một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét thấy, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hồi cải; đã tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 05/11/2021, Cơ quan điều tra trả lại anh Bùi Văn H số tiền 2.000.000đ. Ngày 16/12/2021 đại diện gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh H số tiền 17.000.000đ, anh H không yêu cầu gì khác, do vậy không xem xét.
Liên quan trong vụ án này có anh Nguyễn Văn Toàn là người đã được bị cáo T2 chuyển khoản số tiền 19.000.000đ từ tài khoản của anh Bùi Văn H, nhưng anh Toàn không biết đó là tiền do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh Toàn là phù hợp.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến T2 phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm c, khoản 1, điều 290; điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 4, điều 328; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án:
Xử phạt: Nguyễn Tiến T2 14 (mười bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 28 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!