Bản án số 43/2025/DS-ST ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Nghệ An về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 43/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 43/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 43/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 43/2025/DS-ST ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Nghệ An về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nghệ An |
Số hiệu: | 43/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 43/2025/DS-ST
Ngày: 15-5-2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất và
hủy quyết định cá biệt
CỘNG H XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG H XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Anh
Các hội thẩm nhân dân: Ông Mai Xuân Thường
Bà Bùi Thị Hoa
- Thư ký phiên tòa bà: Trần Thị Diệu Linh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Nghệ An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa: Bà
Phạm Thị Bằng Giang - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2024/TLST-DS ngày 18 tháng 01 năm
2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt”, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2025/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 04 năm 2025
và quyết định hoãn phiên tòa số 86/2025/QĐST-DS ngày 28 tháng 4 năm 2025
của TAND tỉnh Nghệ An, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn M, sinh năm 1960; địa chỉ: xóm 5, xã Nghi
Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Nhung, sinh
năm 1995; địa chỉ: số 83 Nguyễn Trãi, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An. (có mặt)
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Trâm, sinh năm 1987; Địa chỉ: Số 83, đường Nguyễn Trãi, thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Lê Hồng H, sinh năm 1987; Địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công
Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Ông Nguyễn
Tiến Hùng, sinh năm 1977; Địa chỉ: Số 44, đường Mai Hắc Đế, thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An. (có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đinh Thị Khoa, sinh năm: 1962; địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công
Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
2. Bà Đinh Thị Tùng, sinh năm: 1978; địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công
Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (có mặt)
3. Bà Nguyễn Thị Địu, sinh năm: 194; địa chỉ: xóm 3, xã Nghi Mỹ,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
4. Ông Nguyễn Thế Dần, sinh năm: 1964; địa chỉ: xóm 3, xã Nghi Mỹ,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
5. Ông Nguyễn Thế Mão, sinh năm: 1974; địa chỉ: xóm 3, xã Nghi Mỹ,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
6. Ông Nguyễn Thế Hùng, sinh năm: 1983; địa chỉ: xóm 3, xã Nghi Mỹ,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)
7. Bà Nguyễn Thị Hoàn, sinh năm: 1978; địa chỉ: tổ 9, khu phố Bình
Thuận 2, xã Thuận Giao, Thuận An, Bình Thuận. (vắng mặt)
8. UBND huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế Hùng – Chuyên viên phòng Tài
nguyên – Môi trường UBND huyện Nghi Lộc. (vắng mặt có đơn xin xử vắng
mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong các Đơn khởi kiện đề ngày 08/10/2021, 22/02/2022 lời khai quá
trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lê Văn M, người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn trình bày: ngày 26/8/1999 âm lịch (ngày 05/10/1999 dương lịch), vợ
chồng ông M bà Khoa có nhận chuyển nhượng một phần đất trong thửa đất của
3
ông Lê Văn (tên gọi khác là Lê Hồng Văn, Nguyễn Xuân Văn) với giá là
1.200.000 đồng (ông M đã giao tiền cho ông Văn). Ông Văn đã bàn giao cho
ông bà diện tích đất là 240m2 có tứ cận: phía Đông đối diện sân bóng chiều dài
12m; phía Bắc giáp trục đường của xóm là 20m, trừ phần đất của xã hội. Sau khi
nhận bàn giao đất, ông bà đã xây nhà máy xay lúa và đập bột trên diện tích đất
nhận chuyển nhượng (hiện vẫn còn máy xay). Toàn bộ thửa đất được định danh
là thửa số 152, tờ bản đồ số 32 tại xóm 5 xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc
tỉnh Nghệ An (theo Bản đồ 299 thì thửa đất là thửa số 592, tờ bản đồ số 01 diện
tích 320m2). Thửa đất này đã được UBND huyện Nghi Lộc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho ông Nguyễn Xuân Văn và cấp đổi vào ngày
01/4/2015 mang tên Lê Hồng Văn. Nhiều lần ông bà yêu cầu ông Văn tách thửa
nhưng vì Giấy CNQSD đất của ông Văn liên tục thế chấp cho Ngân hàng nên
không thể làm thủ tục được. Ngày 05/10/2018, ông Văn chết. Sau khi ông Văn
chết, ông bà tiếp tục yêu cầu bị đơn tách thửa nhưng anh H không thực hiện. Vì
vậy, ông bà yêu cầu tòa án giải quyết: buộc anh Lê Hồng H phải tiếp tục thực
hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng 240m2 đất (dài 20m, rộng 12m)
tại thửa số 152, tờ bản đồ số 32 tại xóm 5 xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc
tỉnh Nghệ An. Ông bà yêu cầu giải quyết chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
- Quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Hồng H,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đinh Thị Tùng và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: năm 1986, cha mẹ anh H là ông
Lê Hồng Văn (tên gọi khác Nguyễn Xuân Văn) và bà Nguyễn Thị Hảo kết hôn
nên được cha mẹ cắt cho 1 phần đất trong vườn để làm 01 ngôi nhà tranh. Tháng
02/1993, bà Hảo chết không để lại di chúc và khoản nợ nào. Ông Văn một mình
nuôi anh H trong ngôi nhà cũ trên thửa đất của vợ chồng (thửa đất này UBND
huyện Nghi Lộc đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn theo
Nghị định 64CP và cấp đổi vào năm 2015). Khoảng năm 1997 – 1998, ông Lê
Văn M (là người trong xóm) có xin ông Văn dựng lều tranh phía trước đất với
diện tích 4-5m2 để đặt máy xay lúa. Lều của ông M dựng bằng mấy cọc gỗ nhỏ,
lợp lá cọ. Anh H chưa bao giờ nghe ông Văn nói gì đến sự việc mua bán đất với
vợ chồng ông M mà chỉ nghe nói ông Văn cho ông M mượn đất đặt máy xay
xát. Sau năm 1999, anh H và ông Văn đã xây dựng nhiều tài sản trên đất như
nhà (ngôi nhà được người dân trong xóm ủng hộ vật chất xây cho ông Văn),
chuồng bò, sân vườn, bờ tường bao phía trước nhưng ông M cũng không có ý
kiến gì (nếu ông M mua đất rồi thì sẽ ngăn cản không cho xây). Khoảng năm
2017 – 2018, khi anh H vào miền Nam làm ăn thì ông M tiến hành xây nhà phía
trước đất của gia đình anh; ông Văn và em gái (bà Lê Thị Thạch, sinh sống ngay
bên cạnh) ngăn cản thì gia đình ông M đe đọa đánh đập nên ông Văn và bà
Thạch cũng bất lực vì vậy ông M đã xây xong toàn bộ ngôi nhà. Anh H khẳng
định không có việc bán đất, chỉ có sự kiện mượn đất nên không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, bị đơn có phản tố yêu cầu Tòa án
tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26/8/1999 (do ông
Nguyễn Duy Huyên viết) là vô hiệu hoặc hủy bỏ giao dịch trên và buộc ông M
4
bà Khoa phải tháo dỡ các tài sản đã xây dựng trên thửa đất số 152, tờ bản đồ số
32 của anh H. Bởi vì:
Anh H không biết gì về việc chuyển nhượng và ông Văn cũng chỉ nói cho
ông M mượn đất. Đất là tài sản chung của anh H (theo diện thừa kế tài sản của
bà Hảo) và ông Văn nên ông Văn không thể tự định đoạt.
Khi ông Huyên viết Giấy chuyển nhượng thì không có mặt ông Văn, ông
Văn không ký vào Giấy nên không có cơ sở để khẳng định Giấy đó phản ánh
đúng nguyện vọng của ông Văn.
Theo kết quả giám định và lời trình bày của ông Huyên thì Văn bản Giấy
xác nhận chuyển nhượng đất vườn ở lâu dài có sự thêm con số nên không khách
quan và không thể sử dụng để xác định việc ông Văn đã thống nhất bán diện tích
đất 12mx20m=240m2 như yêu cầu của nguyên đơn.
Thủ tục xác nhận của UBND xã cũng không rõ là xác nhận về vấn đề gì
(như trình bày của ông Trần Bá Yêm).
Người làm chứng ông Nguyễn Duy Huyên trình bày: từ năm 1996 – 2004
và từ 2010 -2020, ông giữ chức xóm trưởng xóm 5 xã Nghi Công (sau tách
thành xã Nghi Công Nam). Ông Huyên biết việc ông M mượn ông Văn một
phần đất kích thước 2mx2m ở phía Đông Bắc thửa đất để đặt máy xay và sau
một thời gian thì ông có nghe ông M nói là đã mua lại 2mx2m của ông Văn với
giá 01 con nghé (trị giá 1.200.000 đồng) nhưng ông chưa bao giờ nghe ông Văn
nói chuyện mua bán đất. Vào ngày 26/8/1999 âm lịch, ông M mời ông đến nhà
ăn tối, lúc đó cũng có mặt cả ông Nguyễn Đức Thái (là công chức địa chính và
là em con dì ruột của bà Khoa – vợ ông M). Ông M có nhờ ông Huyên viết cho
cái Giấy chuyển nhượng đất ở, ông Thái là người đọc cho ông viết nên ông cũng
đồng ý viết “Giấy xác nhận chuyển nhượng đất vườn ở lâu dài” trong đó ghi rõ
là ông Văn đã bán cho ông M “đối diện sân bóng chiều dài là 2m về phía Đông,
phía Bắc giáp trục đường của xóm 2m, trừ phần đất xã hội (ông không ghi diện
tích vào và cũng không viết bằng chữ sau con số là do ông Thái bảo ông đừng
viết) với số tiền 1.200.000 đồng. Sau khi viết giấy xong thì ông Huyên giao lại
cho ông M. Lúc ông Huyên viết giấy, ông Văn không có mặt nên ông Huyên
không chứng kiến việc ông Văn ký vào Giấy. Ông Huyên không thừa nhận con
số ghi kích thước “12m” và “20m” trong Giấy mà ông viết và diện tích 240m2
mà ông Thái viết vào phần xác nhận của địa chính xã Nghi Công.
Người làm chứng ông Nguyễn Đức Thái thừa nhận ông Thái với bà Đinh
Thị Khoa là chị em con dì. Ông Thái cho rằng, vào năm 1999, ông Văn có đưa
Giấy xác nhận chuyển nhượng đất vườn ở lâu dài lên xã nhờ ông xác nhận vào
nhưng khi đó ông không thấy chữ ký của xóm trưởng (ông Huyên) nên ông đã
trả lại cho ông Văn. Sau khoảng vài tháng thì ông Văn lại đưa Giấy lên, lúc này
đã có xác nhận của xóm trưởng nên ông đọc kích thước ở trang trước là 12m và
20m nên ông tự nhân lên thành 240m2 rồi viết xác nhận, chuyển lên cho chủ tịch
xã là ông Trần Yêm (Trần Bá Yêm) ký xác nhận. Ông không biết rõ việc mua
bán giữa ông Văn với ông M cụ thể như thế nào, ông Văn đưa Giấy lên thì ông
xác nhận vào và ông Yêm ký đóng dấu xác nhận của xã là xong vì thời điểm đó,
5
thủ tục chỉ cần như vậy. Ông cũng chưa bao giờ được ông M hay ông Văn nhờ
đo đất, giao đất trên thực địa.
Người làm chứng ông Trần Bá Yêm trình bày: ông không biết gì về giao
dịch giữa ông Văn với ông M. Khi ông Thái đưa Giấy lên, ông nhìn thấy có chữ
ký xác nhận của cán bộ địa chính thì ông cũng ký tên vào; vì không biết nội
dung Giấy cụ thể là gì nên ông không viết bất kỳ chữ nào thêm; ông không xác
nhận giao dịch nào mà chỉ xác nhận chữ ký của địa chính xã.
Người làm chứng bà Lê Thị Thạch trình bày: từ năm 1995, bà về sống cùng
với cụ Thịnh và bên cạnh có cha con anh trai bà là ông Văn, anh H. Bà chưa bao
giờ nghe nói đến việc ông Văn bán đất cho ông M, bản thân ông Văn là người
không biết chữ.
Do có sự mâu thuẫn trong lời trình bày của đương sự, người làm chứng về
kích thước phần đất ghi trong “Giấy xác nhận chuyển nhượng đất vườn ở lâu
dài” nên Tòa án đã tiến hành trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số
341/KL-KTHS ngày 25/11/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết
luận:
“5.1. Không đủ cơ sở kết luận chữ số “1” trong số “12” tại dòng chữ viết
thứ 6 từ dưới lên so với các chữ số “1” tại dòng chữ viết thứ 9, 15, 17 từ dưới
lên trên mẫu cần giám định ký hiệu A có phải do cùng một người viết ra hay
không.
5.2. Chữ số “0” trong số “20” tại dòng chữ viết thứ 5 từ dưới lên so với
các chữ số “0” tại dòng chữ viết thứ 9, 15, 18 từ dưới lên trên mẫu cần giám
định ký hiệu A do cùng một người viết ra.”
Tại phiên tòa, các đương sự tự H giải với nhau về việc giải quyết vụ án như sau:
Công nhận một phần Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26 tháng 8
năm 1999: Giao một phần thửa đất số 152, tờ bản đồ số 32, địa chỉ: xóm 5, xã Nghi
Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An có diện tích 100 m2 đất ở) cho ông Lê Văn
M, sinh năm 1960; địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH
01166/QĐ 622/2015 do UBND huyện Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015. Có tứ cận cụ thể
như sau:
Phía Đông giáp đường liên xóm, dài 6,32 m.
Phía Nam giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn, dài 15,97 m.
Phía Bắc giáp đường nội xóm, dài 5,46 m, 5,30 m, 1,32 m, 3,61 m.
Phía Tây giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn dài 6,32 m
(có sơ đồ chi tiết kèm theo)
-Sau 45 ngày kể từ ngày xét xử, bị đơn ông Lê Hồng H, sinh năm 1987 và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Tùng, sinh năm 1978; địa chỉ: xóm 5, xã
Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phải tháo dỡ các công trình, tài sản
trên phần đất 100 m2 giao cho ông Lê Văn M và toàn bộ chi phí nay do ông H, bà
Tùng chịu trách nhiệm chi trả.
- Ông Lê Văn M có trách nhiệm giao số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu
đồng) cho ông Lê Hồng H và bà Đinh Thị Tùng ngày sau khi ông H và bà Tùng thực
6
hiện xong việc tháo dỡ. Trong trường hợp ông H và bà Tùng không tự nguyện tháo dỡ
thì ông M không phải hỗ trợ số tiền này.
- Nguyên đơn và bị đơn thống nhất đề nghị Hủy một phần Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH 01166/QĐ 622/2015 do UBND
huyện Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015 cho ông Lê Hồng Văn tại xóm 5, xã Nghi
Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để các bên thực hiện thủ tục cấp mới
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật.
- Các chi phí liên quan đến thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới
do mỗi bên tự chịu trách nhiệm đối với phần diện tích được cấp theo quy định của
pháp luật.
- Nguyên đơn tự nguyện chịu trả chi phí thẩm định tại chổ và định giá tài sản (đã
thanh toán xong)
- Về án phí các bên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật tuy nhiên
nguyên đơn là người cao tuổi nên được miễn án phí sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An: Tại phiên tòa các
đương sự đã tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Xét sự thỏa thuận của
các đương sự không trái quy định của pháp luật đề nghị HĐXX ghi nhận. Đối với
yêu cầu Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do nguyên đơn và bị đơn đều đề
nghị Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 01/4/2015 xét đây là đề nghị
hợp pháp và không trái đạo đức xã hội đồng thời đảm bảo cho việc thủ tục cấp mới
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thỏa thuận nên đề nghị HĐXX Tuyên hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự,
người đại diện theo ủy quyền của các đương sự; kết quả tranh luận và ý kiến của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu anh Lê Hồng H tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hủy quyết định cá biệt
nên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy
định tại khoản 5 Điều 26, Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa một số người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Xét Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng họ vẫn
vắng mặt không có lý do (mặt khác tại lời khai thì những người trên không có ý kiến
gì liên quan đến thửa đất tranh chấp). Đại diện Ủy ban nhân dân huyện Nghi Lộc
7
vắng mặt nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Tại phiên tòa các đương sự đã thống nhất: Công nhận một phần Giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26 tháng 8 năm 1999: Giao một phần thửa
đất số 152, tờ bản đồ số 32, địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An có diện tích 100 m2 đất ở) cho ông Lê Văn M, sinh năm 1960; địa chỉ: xóm
5, xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nằm trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH 01166/QĐ 622/2015 do UBND huyện
Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015. Có tứ cận cụ thể như sau:
Phía Đông giáp đường liên xóm, dài 6,32 m.
Phía Nam giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn, dài 15,97 m.
Phía Bắc giáp đường nội xóm, dài 5,46 m, 5,30 m, 1,32 m, 3,61 m.
Phía Tây giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn dài 6,32 m
(có sơ đồ chi tiết kèm theo)
- Sau 45 ngày kể từ ngày xét xử, bị đơn ông Lê Hồng H, sinh năm 1987 và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Tùng, sinh năm 1978; địa chỉ: xóm 5, xã
Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phải tháo dỡ các công trình, tài sản
trên phần đất 100 m2 giao cho ông Lê Văn M và toàn bộ chi phí nay do ông H, bà
Tùng chịu trách nhiệm chi trả.
- Ông Lê Văn M có trách nhiệm giao số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu
đồng) cho ông Lê Hồng H và bà Đinh Thị Tùng ngay sau khi ông H và bà Tùng thực
hiện xong việc tháo dỡ. Trong trường hợp ông H và bà Tùng không tự nguyện tháo dỡ
thì ông M không phải hỗ trợ số tiền này.
- Các chi phí liên quan đến thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới
do mỗi bên tự chịu trách nhiệm đối với phần diện tích được cấp theo quy định của
pháp luật.
- Nguyên đơn tự nguyện chịu trả chi phí thẩm định tại chổ và định giá tài sản (đã
thanh toán xong)
- Về án phí các bên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật tuy nhiên
nguyên đơn là người cao tuổi nên được miễn án phí sơ thẩm.
Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa là tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Do đó, ghi nhận sự thỏa thuận
của các đương sự.
[2.2] Tại phiên tòa Nguyên đơn và bị đơn thống nhất đề nghị Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH 01166/QĐ 622/2015 do
UBND huyện Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015 cho ông Lê Hồng Văn tại xóm 5, xã
Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để các bên thực hiện thủ tục cấp
mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật. Hội
8
đồng xét xử nhận thấy đây là yêu cầu phù hợp nên Quyết định Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất này.
[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, tuy
nhiên, các nguyên đơn là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên không phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Về chi phí thẩm định tại chỗ và định giá: Nguyên đơn thỏa thuận chịu toàn
bộ chi phí thẩm định tại chỗ và chi phí trích đo thửa đất.
Vì lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 5 Điều 26, Điều 34, Điều 157, Điều 165, Điều 217, Điều 246 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 614 Bộ
luật dân sự 2015;
Xử: 1. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự:
Công nhận một phần Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26
tháng 8 năm 1999: Giao một phần thửa đất số 152, tờ bản đồ số 32, địa chỉ: xóm 5, xã
Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An có diện tích 100 m2 đất ở) cho ông
Lê Văn M, sinh năm 1960; địa chỉ: xóm 5, xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH
01166/QĐ 622/2015 do UBND huyện Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015. Có tứ cận cụ thể
như sau:
Phía Đông giáp đường liên xóm, dài 6,32 m.
Phía Nam giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn, dài 15,97 m.
Phía Bắc giáp đường nội xóm, dài 5,46 m, 5,30 m, 1,32 m, 3,61 m.
Phía Tây giáp phần đất của ông Lê Hồng Văn dài 6,32 m
(có sơ đồ chi tiết kèm theo)
- Sau 45 ngày kể từ ngày xét xử, bị đơn ông Lê Hồng H, sinh năm 1987 và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Tùng, sinh năm 1978; địa chỉ: xóm 5, xã
Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phải tháo dỡ các công trình, tài sản
trên phần đất 100 m2 giao cho ông Lê Văn M và toàn bộ chi phí nay do ông H, bà
Tùng chịu trách nhiệm chi trả.
- Ông Lê Văn M có trách nhiệm giao số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu
đồng) cho ông Lê Hồng H và bà Đinh Thị Tùng ngay sau khi ông H và bà Tùng thực
hiện xong việc tháo dỡ. Trong trường hợp ông H và bà Tùng không tự nguyện tháo dỡ
thì ông M không phải hỗ trợ số tiền này.
- Các chi phí liên quan đến thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới
do mỗi bên tự chịu trách nhiệm đối với phần diện tích được cấp theo quy định của
pháp luật.
9
- Nguyên đơn tự nguyện chịu trả chi phí thẩm định tại chổ và định giá tài sản (đã
thanh toán xong)
2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 415229, số vào sổ CH
01166/QĐ 622/2015 do UBND huyện Nghi Lộc cấp ngày 01/04/2015 cho ông Lê
Hồng Văn tại xóm 5, xã Nghi Công Nam, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để các bên
thực hiện thủ tục cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định
của pháp luật.
4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng (đã
thực hiện xong)
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Lê Hồng H phải chịu 300.000 đồng (ba
trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án lên
Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các
đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản sao bản án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- Cục THADS tỉnh Nghệ An;
- Lưu HSVA.
Nguyễn Đức Anh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm