Bản án số 288/2025/DS-PT ngày 17/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 288/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 288/2025/DS-PT ngày 17/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 288/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu anh Lê Kim H1 trả lại diện tích đất 595m² thuộc thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43 xã A theo Bản đồ hiện trạng thửa đất số 3970/2022 ngày 18/4/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ – chi nhánh L4. Tuy nhiên, do diện tích đất nêu trên đã bị thu hồi nên nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị được nhận toàn bộ số tiền bồi thường đất, nhà, vật kiến trúc, cây trồng và tài sản khác theo như bảng toán tính giá trị bồi thường là 3.146.092.864 đồng tại Bảng tính toán giá trị bồi thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 288/2025/DS-PT
Ngày: 17/7/2025
Tranh chấp tiền bồi thường đất
và tài sản trên đất”.
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Mỹ Hạnh
Các Thẩm phán: Bà Bùi Lan Hương
Bà Thái Thị Thanh Bình.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Huy Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Bà Nguyễn Hoàng Thế
Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 7 năm 2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thlý số 158/2025/TLPT-DS ngày 09 tháng 4 năm
2025 về Tranh chấp tiền bồi thường đất tài sản trên đất” do bản án dân s
thẩm số: 197/2024/DS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xphúc thẩm số 216/2025/QĐ-PT ngày
02 tháng 6 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số 507/2025/QĐ-PT ngày
18/6/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987.
Người đại diện theo ủy quyền của anh T: Nguyễn Thị M, sinh năm 1954.
Cùng địa chỉ: Số H T, phường P (cũ: phường P, thành phố T), Thành phố H
Chí Minh.
2. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1994.
3. Chị Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Số H T, phường P (cũ: phường P, thành phố T), Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Người đại diện theo uỷ quyền của chị H, chị T1: ChTrần Kim L, sinh năm
1996.
Địa chỉ: F H, phường X, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho chị T1: Ồng N Ý Luật
thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
Địa chỉ: F H, phường X, Thành phố Hồ Chí Minh.
- B đơn: Anh Lê Kim H1, sinh năm 1983.
Địa chỉ: p G, xã A (cũ: xã A, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của anh H1: Chị Trần Thị L1, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Hẻm G, Tổ G, ấp H, xã L (cũ: xã L, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Đỗ Th ờng D, sinh năm 1984.
Địa chỉ: p G, xã A (cũ: xã A, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
- Người đại diện theo ủy quyền cho chị D: Chị Trần Thị L1, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Hẻm G, Tổ G, ấp H, xã L (cũ: xã L, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
2. Cháu Tuấn A, sinh ngày 30/11/2009.
3. Cháu Lê Đỗ Quỳnh A1, sinh ngày 21/02/2014.
4. Cháu Lê Đỗ Vân A2, sinh ngày 21/02/2014.
Người đại diện theo pháp luật cho cháu Tuấn A, Quỳnh A1, Vân A2: Anh
Lê Kim H1, sinh năm 1983 và chị Đỗ Thng D, sinh năm 1984.
Địa chỉ: p G, xã A (cũ: xã A, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
5 Anh Lê Đình Q, sinh năm 1990.
Địa chỉ: C Nguyễn Văn L2, xã B (cũ: xã B, huyện B), Thành Phố H.
6. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai (Người kế thừa quyền nghĩa
vụ tố tụng: Ủy ban nhân dân xã L, tỉnh Đồng Nai).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Anh Đ.
Địa chỉ: Khu P, xã L (cũ: thị trn L, huyện L), tỉnh Đồng Nai.
Người kháng cáo: Nguyên đơn chNguyễn Thị Thanh T1; người đại diện
theo uỷ quyên của nguyên đơn chH, anh T là bà Nguyễn Thị M; Bị đơn anh
Kim H1.
(Luật sư Ý, chị H, chị L, chị T1, anh H1, chị L1 có mặt; ông Đ, Mđơn
xin xét xử vắng mặt; anh Q vắng mặt không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 09/4/2021 và c lời khai tiếp theo trong quá
trình giải quyết vụ án tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Thanh H; chị Nguyễn
Thị Thanh T1; chị Trần Kim L đại diện theo uỷ quyền của chị H, chị T1; anh
Nguyễn Thanh Ty quyền cho bà Nguyễn Thị M trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43 (thửa cũ là 868 tờ bản đồ số 07)
A, huyện L do bà Thị Năm T2 cho anh Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị
Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H năm 2019 nhưng ký với hình thức hợp đồng
chuyển nhượng được Phòng C tỉnh Đồng Nai chứng thực vào ngày
28/3/2019. Do không thể làm được hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vì nhà
ớc yêu cầu xác nhận quan hruột thịt với N nên rất khó khăn nên N
làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thời điểm N còn sống là
chung với bà M, chH, chị T1, anh T.
Lê Thị N không chồng con không con nuôi nhưng trong s hộ
khẩu anh Đình Q ghi con nuôi, nhằm mục đích cho anh Q đi học tại
Thành phố Hồ Chí Minh thời điểm đó anh Q mới từ tỉnh Phú Yên vào. N
với anh Q quan hệ như thế nào M không biết. Theo bà M được biết bà N
một phần đất duy nhất L là thửa số 89 tờ bản đồ số 43 xã A, huyện L, tỉnh Đồng
Nai nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn K vào ngày 02/5/2001, ngoài ra
N không còn thửa đất nào khác ngoài thửa đất trên. Hợp đồng cho tặng đất
ngày 10/10/2010 do anh H1 cung cấp cho Tòa án không phải chữ của
ThN. Cuối năm 2011, N nhận tiền đền Xa lộ H dùng số tiền bồi
thường trên để xây dựng căn nhà hiện nay anh H1 đang tranh chấp; bà Nnhờ
ông Đỗ Đoàn D1người trực tiếp xây dựng nhà cho Ncó đưa tiền cho bà
L3dì ruột của anh H1 xuống đưa tiền cho anh H1 đề trtiền công, tiền vật liệu
xây dựng lúc đó anh H1 người trông coi việc xây dựng nhà cho N. Nguồn
tiền bà N xây dựng nhà là tiền do bà N được bồi thường đất ở Thành phố H Chí
Minh. Bà L3 là mẹ ruột của Lê Đình Q nhưng hiện nay bà L3 đã chết.
Khi bà N làm thủ tục chuyển quyền cho anh T, chị H, chị T1 thửa đất số 89
tờ bản đồ số 43 xã A thì anh H1 cũng đang trên đất; đầu năm 2021 anh T, chị
H, chị T1 yêu cầu anh H1 trlại nhà đất nhưng anh H1 không đồng ý nên phát
sinh tranh chấp.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu anh Kim H1 trlại diện tích đất 595m²
thuộc thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43 xã A theo Bản đồ hiện trạng thửa đất số
3970/2022 ngày 18/4/2022 ca Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ chi nhánh L4.
Tuy nhiên, do diện tích đất nêu trên đã bthu hồi nên nguyên đơn thay đổi yêu
cầu khởi kiện, đề nghị được nhận toàn bộ số tiền bồi thường đất, nhà, vật kiến
trúc, cây trồng tài sản khác theo như bảng toán tính giá trị bồi thường
3.146.092.864 đồng tại Bảng tính toán giá trbồi thường ngày 13/9/2024 ca
Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
Đối với anh H1 yêu cầu được hưởng 729.930.900 đồng tiền bồi thường đất
637.423.864 đồng tiền bồi thường nhà, vật kiến trúc tài sản khác tại Bảng
tính toán gtrị bồi thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quđất
huyện L và 400.000.000 đồng tiền công sức quản lý, giữ gìn, chăm sóc và tôn tạo
làm tăng giá trị đất thì phía chị T1 và bà M đại diện cho anh T, chị H không đồng
ý.
- Tại đơn yêu cầu phản tố ngày 29/8/2024 và các lời khai tiếp theo trong
quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lê Kim H1; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan chị Đỗ Th ờng D đồng thời anh H1, chị D đại diện hợp pháp
cho cháu Tuấn A, cháu Đỗ Quỳnh A1, cháu Đỗ Vân A2 ủy quyền cho
chTrần Thị L1 đại diện trình bày:
Lê Thị Năm T2 cho thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43 xã A, huyện L (thửa
cũ là thửa 868 tờ bản đồ số 07) cho anh Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị Thanh
T1, chị Nguyễn Th Thanh H năm 2019 thì anh Lê Kim H1 không biết. Vào năm
2010, bà Ncho anh H1 01 phần đất tại L với diện tích là ngang 5m, dài hết đất
thuộc 01 phần thửa số 868 tờ bản đồ số 07 xã A, huyện L. N làm giấy tay
cho đất vào ngày 10/10/2010, bà N có ký tên vào tờ giấy tặng cho đất. Cuối năm
2010, anh H1 có xây dựng một căn nhà trên đất của Thị N cho anh H1. Anh
Đỗ Đoàn D1 người xây dựng nhà cho anh H1, tiền xây dựng nhà tiền anh
H1 ợn của L3 và tiền anh H1ch lũy được. Phía nguyên đơn cho rằng
nhà anh H1 đang ở nhà doN xây dựng là không đúng.
Nay anh T, chị H, chị T1 yêu cầu anh Kim H1 phải trả lại diện tích 595m
2
thửa số 89 tờ bản đồ số 43 A, huyện L, tỉnh Đồng Naicăn nhà trên đất. Đối
với mái che, sân xi măng thì anh H1 tự tháo dở và 03 cây mít, 04 cây đu đủ, 03
cây mãng cầu, 03 cây lá cách, 01 cây cóc do anh H1 trồng thì anh H1 tự di dời ra
khỏi diện tích đất trên thì anh H1, chị D không đồng ý.
Tại phiên tòa, đại diện anh H1 và anh H1 yêu cầu được hưởng 729.930.900
đồng tiền bồi thường đất và 637.423.864 đồng tiền bồi thường nhà, vật kiến trúc
tài sản khác tại Bảng tính toán giá trị bồi thường ngày 13/9/2024 của Trung
tâm phát triển Quỹ đất huyện L; ngoài ra anh H1 yêu cầu công sức quản lý, giữ
gìn, chăm sóc và tôn tạo làm tăng giá trị đất là 400.000.000 đồng. Anh H1 không
đồng với yêu cầu của nguyên đơn chT1, chị H và anh T.
- Theo bản tự khai ngày 29/02/2023 người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan anh Lê Đình Q trình bày:
Anh em họ của anh Kim H1, mẹ anh em gái ruột của mẹ anh H1,
trong hộ khẩu của bà Lê Thị N anh quan hệ với chủ hộ là con nuôi của Lê Th
N.
Sự việc liên quan đến vụ tranh chấp đất đai, vào năm 2010 anh Lê Kim H1
có vay mẹ anh là bà Nguyễn Thị Ngọc L3 (chết) với số tiền là 400.000.000 đồng
chia làm 03 đợt và đợt cuối cùng là vào năm 2022; số tiền 400.000.000 đồng anh
H1 vay với mục đích là xây dựng nhà trên mảnh đất của bà Thị N L, đối với
N cho đất anh Kim H1 thì anh không nhớ lúc đó anh đang tham
gia nghĩa vụ quân sự. Lúc anh đi nghĩa vụ về, anh nghe Thị N nói v
việc chia đất làm 03 phần: một phần cho anh, một phần cho anh Nguyễn Thanh
T, một phần còn lại cho anh Kim H1. Việc này được N nhắc đi nhắc lại
nhiều lần với anh nên anh nhớ đến bây giờ.
Anh K1 liên quan gì đến vụ án trên nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt
anh trong vụ án này.
- Người quyền lợi, nghĩa vliên quan Ủy ban nhân dân huyện L cho
ông Phùng Anh Đ có đơn xin vắng mặt nên không có ý kiến.
* Tại Bản án dân sthẩm số 197/2024/DS-ST ngày 25 tháng 12 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị
Thanh H, chị Nguyễn Thị Thanh T1anh Nguyễn Thanh T đối với bị đơn anh
Lê Kim H1.
- Công nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, chNguyễn Thị Thanh T1 anh
Nguyễn Thanh T được hưởng số tiền bồi thường thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43
A, huyện L là 2.508.669.000 đồng (hai tỷ năm trăm lẻ tám triệu sáu trăm sáu
mươi chín nghìn đồng) tại Bảng tính toán giá trbồi thường ngày 13/9/2024 của
Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
- Không chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, ch Nguyễn Thị Thanh T1
và anh Nguyễn Thanh T được hưởng tổng stiền được bồi thường nhà, kiến trúc,
cây trồng và tài sản khác với stiền là 637.423.864 đồng (sáu trăm ba mươi by
triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tcủa bị đơn anh Lê Kim H1 đối với
nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh H, chị Nguyễn Thị Thanh T1 và anh Nguyễn
Thanh T.
- Không chấp nhận yêu cầu anh Kim H1 được hưởng số tiền 729.930.900
đồng (bảy trăm hai mươi chín triệu chín trăm ba mươi nghìn chín trăm đồng) từ
việc bồi thường diện tích 209,5m
2
đất (50 đất ONT và 159,5 đất CLN) đối với
thửa 89 tờ bản đồ số 43 A, huyện L.
- Công nhận cho anh Kim H1 được hưởng 637.423.864 đồng (sáu trăm
ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn tám trăm sáu bốn đồng) tiền bồi
thường nhà, vật kiến trúc, cây trồng và tài sản khác tại Bảng tính toán giá trbồi
thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
- Buộc chị Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn
Thanh T mỗi người phải thanh toán cho anh Lê Kim H1 100.000.000 đồng (mt
trăm triệu đồng) tiền công sức quản lý, giữ gìn và tăng giá trị đất.
- Không chấp nhận 100.000.000 đồng tiền công sức quản lý, giữ gìn tăng
giá trị đất của anh H1.
Ngoài ra, bản án còn tuyên ván phí, chi phí ttụng, nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 25/12/2024, chị Nguyễn Thị Thanh T1 người đại diện theo uỷ
quyền của chị H, anh T Nguyễn Thị M đơn kháng cáo đngh sửa bản
án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ngày 06/01/2025, anh Kim H1 kháng cáo đề nghsửa một phần bản án
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn công nhận hợp đồng
tặng cho giữa ông Lê Kim H1 và bà Thị N ký ngày 10/10/2010.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu kháng cáo; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố và rút kháng cáo. Các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Tại phiên toà, ông H1 rút kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu ca ông H1.
Nguyên đơn cung cấp tài liệu mới cho Hội đồng xét xử hợp đồng mua bán
điện do công ty điện lực cung cấp và xác nhận tờ giấy mua bán vật liệu xây dựng
tại của hàng Sáu Đúng do bị đơn cung cấp giả mạo, trường hợp cần thiết đề
nghị Hội đồng xét xử triệu tập người xác nhận trong tphiếu mua bán vật liệu
xây dựng đến để làm rõ.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn là không đảm
bảo quy định pháp luật. Tòa án sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai của ông D1 và hàng
xóm ông Trần Minh T3 để cho rằng ông H1 người xây dựng căn nhà chưa
vững chắc. Đơn xin xác nhận tạm trú, thường trú của ông H1 do trưởng ấp xác
nhận là không đúng thẩm quyền, mà thẩm quyền là của Công an xã. Đối với hợp
đồng tặng cho giữa ông H1 với bà N thì đã bị Tòa án cấp sơ thẩm bác bỏ, ông H1
kháng cáo nội dung trên nhưng đến phiên tòa phúc thẩm tlại rút kháng cáo, qua
đó chứng minh không có sự việc bà N cho đất ông H1.
Ông H1 khai rằng N cho đất năm 2010 nhưng đến năm 2012 N mới
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm gì có căn cứ pháp lý để cho
ông H1 trước thời điểm được cấp giấy.
Lời khai về việc xây dựng bức tường rào quanh căn nhà bị đơn trả lời bt
nhất không thống nhất, không có giá trị chng minh.
Ông H1 khai rằng người thực hiện việc hp đồng mua bán điện nước
với nhà nước năm 2010 nhưng đối chiếu những tài liệu do chúng tôi cung cấp thì
lời khai của ông H1 là sai sự tht.
Tại biên bản hòa giải ngày 6/4/2021 giữa các đương sự, nguyên đơn cũng
đề xuất nếu ông H1 ra khỏi nhà đất tsđền 500 triệu đồng cho ông H1
chính ông H1 cũng thừa nhận nếu nhận được 500 triệu đồng thì sẽ dọn ra khỏi
nhà đất. Vậy nếu là nhà, đất của ông H1 thì tại sao ông H1 lại đồng ý dọn ra khỏi
nhà, đất của mình.
Tại biên bản kiểm đếm về đất đai, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền trên
đất năm 2024 ca UBND L mà ông H1 ký xác nhận thhiện căn nhà xây dựng
năm 2011, việc ông H1 khai nhà xây năm 2010 là không thỏa đáng.
Tại biên bản lấy lời khai (bút lục 330) của T4: Bà T4người ở cùng vi
N xác nhận căn nhà xây dựng năm 2011.
Cửa hàng V thành lập năm 2015, vậy thì giấy xác nhận ông H1 cung cấp
mua vật liệu xây dựng năm 2010 là giả mạo, không đúng sự thật khách quan.
Quá trình sinh sống trên phn đất, ông H1 không phải thuê nhà để ở, ông H1
mở tiệm sửa xe tạo thêm thu nhập cho gia đình ông H1; việc làm hàng rào
để bảo về tài sản của ông H1, không phải đ bảo quản đất, làm tăng giá trị đất.
Từ những phân tích trên khẳng định căn nhà, giếng khoan trên đất là của
Thị N chkhông phải của ông Kim H1. Ông H1 chxây dựng phần mái
hiên đphục vụ việc sửa xe và những cây trông trên đất. Phía bị đơn đồng ý hoàn
tiền mái hiên và cây trồng trên đất theo giá trị đã xác định cho ông H1.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cấp
phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật ttụng dân
sự. Các đương stham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung kháng cáo:
Tại phiên tòa phúc thẩm, chTrần Thị L1 người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn anh Kim H1 rút toàn bộ nội dung kháng cáo theo đơn kháng cáo
ngày 03/01/2025. Xét thấy, việc đương sự rút yêu cầu kháng cáo là tự nguyện do
đó đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xphúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo
của bị đơn.
Xét kháng cáo của nguyên đơn đnghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
tuyên toàn bộ stiền bồi thường nhà đất thuộc về anh T, chị T1, chH và không
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn nhận thấy:
Nguồn gốc diện tích đất 595m² thửa đất số 89, tờ bản đồ số 43 (thửa 868,
tờ bản đồ số 07) xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai do bà Thị N mua lại từ ông
Nguyễn Văn K2 vào năm 2001. Việc mua bán đất được thực hiện bằng hình thc
viết giấy tay sang nhượng đất hoa màu (bút lục số 13) với giá mua bản
90.000.000 đồng. Sau đó, N đưc Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BC 511104 ngày 07/5/2012. Năm 2019 Thị Năm
T2 cho anh Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh
H diện tích đất 595m² thửa số 89, tbản đồ số 43 với hình thức Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Phòng công chứng số 04 tỉnh Đồng Nai
chứng thực, số công chứng 4359/2019 quyển số 08/2019TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 28/3/2019, sau đó Sở i nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận
số CR 070251, CR 070252, CR 070253 ngày 17/4/2019 cho ch Nguyễn Thị
Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Thanh T đứng tên.
Năm 2021 N chết. Cùng năm 2021 giữa anh T, chị T1, chị H phát sinh
tranh chấp với anh Lê Kim H1. Quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu anh Lê Kim H1 trlại diện tích đất 595m² thuộc thửa đất số 89
tờ bản đồ số 43 A theo Bản đồ hiện trạng thửa đất số 3970/2022 ngày 18/4/2022
của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh L4. Tuy nhiên, do diện tích đất
nêu trên đã bị thu hồi nên nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị đưc
nhận toàn bộ số tiền bồi thường 3.146.092.864 theo Bảng tính toán gtrị bồi
thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
Bị đơn anh Lê Kim H1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì
cho rằng vào năm 2010 Lê Thị N cho anh H1 01 phần đt tại L với diện tích
là ngang 5m dài hết đất thuộc 01 phần thửa số 868, tờ bản đồ s 07 (thửa mới 89,
tờ bản đồ số 43) A, huyện L; bà N làm giấy tay cho đất vào ngày 10/10/2010,
N tên vào tờ giấy tặng cho đất nên anh H1 mới xây căn nhà cấp 4 trên
đất. Nay anh H1 đơn phản tố yêu cầu được hưởng 729.930.900 đồng tiền bồi
thường đất 637.423.864 đồng tiền bồi thường nhà, vật kiến trúc tài sản khác
theo Bảng tính toán giá trbồi thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển
Quđất huyện L; ngoài ra anh H1 yêu cầu công sức quản lý, gigìn, chăm sóc
và tôn tạo làm tăng giá trị đất là 400.000.000 đồng.
Xét thấy, ngày 28/3/2019 N ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho anh T, chị T1 chị H đối với diện tích 595m
2
thửa đất số 89, tờ bản đ
số 43 xã A, huyện L, Hợp đồng được lập thành văn bản được công chứng tại
Phòng C tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 17/4/2019, anh T, chị T1 chH được cấp
lần lượt các giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CR 070253, CR 070251
CR 070252 với cách đồng sở hữu. Toàn bộ quá trình lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa N và anh T, chị T1, chị H được thực hiện đúng
về cả hình thức nội dung, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng
được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Anh H1 cho rằng năm 2010
Thị N làm giấy tay cho đất vào ngày 10/10/2010, bà N tên vào t
giấy tặng cho đất nên anh H1 mới xây căn ncấp 4 trên đất nhưng tại bản Kết
luận giám định số 5560/KL-KTHS ngày 23/10/2023 (bút lục số 315) đã kết luận
không đsở để xác định chữ đứng tên Thị N ới hợp đồng tặng cho
đất ngày 10/10/2010 so với những tài liệu khác do N cùng hay không
cùng một người ra. Ngoài giấy tay tặng cho, anh H1 không có tài liệu, chứng
cứ khác chứng minh việc N cho anh H1 diện tích đất ngang 5m dài hết
đất trong khi phía nguyên đơn không thừa nhận. Do vậy, đủ sở xác định,
anh T, chị T1 và chị H là chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 89, tờ bản đồ
số 43 tại A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Đối với căn nở, hàng rào phía trước, cổng, tường rào hai bên, hàng rào
phía sau giếng khoan phía nguyên đơn cho rằng của Thị N btiền ra xây
dựng, anh H1 chngười quản lý việc xây dựng; phía bị đơn anh H1 không tha
nhận lời khai của nguyên đơn mà cho rằng khi bà N cho đất anh thì anh là người
trực tiếp bỏ tiền ra xây dựng nhà các công trình trên đất từ năm 2010. Xét thấy,
lời khai của chị T1, anh T và chị H không được anh H1 thừa nhận; chị T1, anh T
chị H không đưa ra chứng cứ chứng minh nguồn tiền xây dựng nhà ca
N trong khi phía nguyên đơn cũng thừa nhận anh H1 người thay mặt N
đứng ra xây dựng thanh toàn tiền xây dựng đồng thời các bên đều xác định
ông Đỗ Đoàn D1 người trực tiếp xây nhà các công trình trên đất, ông D1
xác định không biết bà Nai, không nhận tiền xây dựng tN anh H1 mới
người trực tiếp thanh toán tiền cho ông. Bên cạnh đó, anh Trần Minh T3
người hàng xóm của anh H1 khai, khi anh H1 xây dựng nhà công trình vào
năm 2010, anh T3 thấy anh H1 người trực tiếp thanh toán tiền vật và công
xây dựng công trình; do đó lời khai của anh H1 về vấn đề anh H1 chính là người
bỏ tiền ra xây dựng là có căn cứ. Đối với mái hiên và cây trồng thì chị T1, anh T
và chị H thừa nhận là của anh H1 là đúng nên không phải chứng minh.
Phía nguyên đơn cũng cho rằng bà Lê Thị N là người btiền ra xây nhà sau
đó N cho anh H1 vào nhờ, đến năm 2019 phía nguyên đơn yêu cầu anh
H1 di dời đi nơi khác để trnhà đất cho nguyên đơn và anh H1 cũng nói cho anh
H1 thêm thời gian đdọn đi nơi khác nhưng vấn đề này anh H1 không thừa nhận,
nguyên đơn cũng không có chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn cung cấp Hợp đồng mua bán điện số
12/000147 ngày 12/01/2012 giữa N Công ty TNHH MTV Đ1, tuy nhiên
xét thấy tài liệu này không chứng minh được nguồn tiền xây nhà là của bà N
chthhiện bà N người hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt.
Như vậy, mặc đất thuộc quyền sử dụng của anh T, chị T1 chị H tuy
nhiên anh H1 là người ở trên đất, đã xây dựng tường rào bảo vệ đt từ năm 2010
đến nay nên xác định anh H1 là người có công sức trong việc quản lý, giữ gìn và
chăm sóc làm tăng giá trị đất. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Long Thành chp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh H, chị
Nguyễn Thị Thanh T1 anh Nguyễn Thanh T đối với bđơn anh Kim H1,
công nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, ch Nguyễn Thị Thanh T1 anh
Nguyễn Thanh T được hưởng số tiền bồi thường thửa đất s89, tờ bản đồ số 43
A, huyện L2.508.669.000 đồng theo Bảng tính toán giá trị bồi thường ngày
13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L và chấp nhận một phần yêu
cầu phản tố của bị đơn anh Kim H1 đối với nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh
H, chNguyễn Thị Thanh T1 anh Nguyễn Thanh T, công nhận cho anh Kim
H1 được hưởng 637.423.864 đồng tiền bồi thường nhà, vật kiến trúc, cây trồng
và tài sản khác theo Bảng tính toán giá trị bồi thường ngày 13/9/2024 của Trung
tâm phát triển Quỹ đất huyện L đồng thời buộc chị Nguyễn ThThanh T1, chị
Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Thanh T mỗi người phải thanh toán cho anh
Lê Kim H1 100.000.000 đồng tiền công sức quản lý, giữ gìn và tăng giá trị đất là
có căn cứ.
Kháng cáo của phía nguyên đơn đề nghị sửa bản án thẩm theo hướng
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên toàn bsố tiền bồi
thường nhà đất thuộc vanh T, chị T1, chị H không chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Đình chỉ xét xphúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bđơn anh Kim
H1.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chNguyễn Thị Thanh T1
Nguyễn Thị M là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh
T, chị Nguyễn Thị Thanh H.
Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân
sự thẩm số 197/2024/DS-ST ngày 25/12/2024 của Tòa án nhân dân huyn
Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thtục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị
Thanh T1; người đại diện theo uỷ quyền của nguyễn đơn chH, anh T
Nguyễn Thị M và bị đơn ông Lê Kim H1 làm trong hạn luật định, đóng tm ng
án phí đúng quy định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa, chị Trn Thị L1 người đại diện theo ủy quyền của bđơn
anh Kim H1 rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
[2] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án đã được Cấp sơ thẩm
xác định đúng và đầy đủ.
[3] Về nội dung vụ án, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn:
[3.1] Nguồn gốc đất tranh chấp có diện tích đất 595m² thuộc thửa đất số 89,
tờ bản đồ số 43 (thửa cũ 868, tbản đsố 07) A, huyện L, tỉnh Đồng Nai do
Thị N mua lại từ ông Nguyễn Văn K2 vào năm 2001 bằng giấy viết tay, với
giá 90.000.000 đồng. Năm 2012, Thị N đưc Ủy ban nhân dân huyện L cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 511104 ngày 07/5/2012. Năm 2019,
Thị Năm T2 cho anh Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị Thanh T1, chị
Nguyễn Thị Thanh H diện tích 595m
2
thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43 A, huyện
L, tỉnh Đồng Nai với hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất,
được phòng công chứng số 04 tỉnh Đồng Nai chứng thực, số công chứng:
4359/2019 quyển số 08/2019TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/3/2019. Ngày
17/4/2019, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận số CR
070251, CR 070252, CR 070253 cho chNguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị
Thanh H anh Nguyễn Thanh T đứng tên cùng sử dụng. Toàn bộ quá trình lp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều được thực hiện đúng về nội dung
và hình thức theo quy định pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định anh T, chị T1,
chH chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 89, tờ bản đồ s43 tại xã A,
huyện L.
[3.2] Bị đơn anh Kim H1 cho rằng vào năm 2010 Thị N có cho anh
H1 01 phần đất tại L với diện tích là ngang 5m dài hết đất thuộc 01 phần thửa số
868 tờ bản đồ số 07 (thửa mới là 89 tờ bản đồ số 43) A, huyện L. Bà N làm
giấy tay cho đất vào ngày 10/10/2010. Sau khi đưc tặng cho anh đã tiến hành
xây dựng một căn nhà cấp 4 trên đất để ở và sinh sống từ đó cho đến khi xảy tra
tranh chấp. Hợp đồng tặng cho ngày 10/10/2010 Thị N với anh Kim H1
đã được Tòa án trưng cầu giám định tại Phân viện Khoa học hình stại Thành
phHồ Chí Minh và tại Bản kết luận số 5560/KL-KTHS ngày 23/10/2023 đã kết
lun: không đủ cơ sở xác định chữ ký đứng tên bà Lê Thị N ới hợp đồng tặng
cho ngày 10/10/2010 so với những tài liệu khác thật sự do N cùng hay
không cùng một người ra. Ngoài giấy tặng cho này anh H1 không tài liệu
chứng cứ gì chứng minh nào khác.
[3.3] Đối với căn nhà ở, hàng rào phía trước, cổng, tường rào hai bên, hàng
rào phía saugiếng khoan, nguyên đơn chNguyễn Thị Thanh T1, anh Nguyễn
Thanh Tchị Nguyễn Thị Thanh H cho rằng của Lê Thị N. Bà Lê Thị N
người trực tiếp đưa tiền cho anh H1 để anh H1 thanh toán tiền vật tư và tiền công
xây dựng; anh H1 chỉ là người quản lý việc xây dựng công trình cho bà Thị N
nhưng ngoài lời trình bày thì nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ chng
minh nguồn tiền xây dựng của N, trong khi phía nguyên đơn cũng thừa nhn
anh H1 người thay mặt N đứng ra xây dựng thanh toàn tiền vật tư xây
dựng, đồng thời các bên đều xác định ông Đỗ Đoàn D1người trực tiếp xây nhà
các công trình trên đất. Ông D1 xác định không biết N ai, không nhận
tiền xây dựng từ bà N mà anh H1 mới là người trực tiếp thanh toán tiền cho ông.
Bên cạnh đó, anh Trần Minh T3người hàng xóm của anh H1 khai: khi anh H1
xây dựng nhà và công trình vào năm 2010, anh T3 thấy anh H1người trực tiếp
thanh toán tiền vật công xây dựng công trình. Do đó, lời khai của anh H1
về việc anh là người bỏ tiền ra xây dựng là có căn cứ.
Đối với mái hiên và cây trồng thì chị T1, anh T chị H thừa nhận là của
anh H1 là đúng nên không phải chứng minh.
[3.4] Tại phiên tòa, nguyên đơn cung cấp bản phô Hợp đồng mua bán đin
số 12/000147 ngày 12/01/2012 giữa N và ng ty TNHH MTV Đ1, tuy nhiên
xét thấy tài liệu này không chứng minh được nguồn tiền xây nhà là của bà N
chthhiện bà N người ký hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt.
[3.5] Anh Kim H1người ở trên đất, đã xây dựng các công trình, tường
rào bảo vệ đất đất tnăm 2010 đến nay nên anh H1 người công sức trong
việc quản lý, giữ gìn và chăm sóc làm tăng giá trị đất. Do đó, cấp thẩm buộc
chLê Thị Thanh T5, chị Lê Thị Thanh H2 và anh Lê Thanh T6 mỗi người phải
thanh toán cho anh Lê Kim H1 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) là có cơ
sở.
[3.6] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, chị
Nguyễn Thị Thanh T1 anh Nguyễn Thanh T được hưởng số tiền bồi thường
thửa đất số 89, tờ bản đồ số 43 xã A, huyện L 2.508.669.000 đồng theo Bng
tính toán gtrị bồi thường ngày 13/9/2024 ca Trung tâm phát triển Quđất
huyện L; Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn anh Lê Kim H1, công
nhận cho anh Kim H1 được hưởng 637.423.864 đồng tiền bồi thường nhà, vật
kiến trúc, cây trồng tài sản khác theo Bảng tính toán giá trị bồi thường ngày
13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L đồng thời buộc chị Nguyễn
Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Thanh T mỗi người phải
thanh toán cho anh Lê Kim H1 100.000.000 đồng tiền công sức quản lý, giữ gìn
và tăng giá trị đất là có căn cứ. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn là không có
sở chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng:
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản thu thập
chứng cứ:
ChNguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Thanh
T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản và thu thp
chứng cứ là 22.339.767 đồng. Chị T1, chị H và anh T đã nộp xong.
Anh Kim H1 phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định giá
tài sản thu thập chứng cứ 22.339.767 đồng; Anh H1 đã nộp 1.409.517 đồng,
số tiền còn lại 20.930.250 đồng chị T1, chị H, anh T đã tạm nộp cho nên buc
anh H1 phải hoàn trả lại chị H, anh T, ch T1 số tiền là 20.930.250 đồng.
- Về chí phí giám định: ChNguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh
H anh Nguyễn Thanh T phải chịu là 3.000.000 đồng. Chị T1, chị H anh T
đã nộp xong.
[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp
nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.
[6] Ý kiến của Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[7] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn rút kháng cáo tại phiên toà, do đó bị đơn
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1, 5 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chNguyễn Thị Thanh T1
Nguyễn Thị M là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh
T, chị Nguyễn Thị Thanh H.
Đình chỉ đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Lê Kim H1.
Ginguyên Bản án dân sthẩm số 197/2024/DS-ST ngày 25/12/2024
của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (nay là Toà án nhân dân
Khu vực 2 - Đồng Nai).
2. Áp dụng Điều 158, khoản 2 Điều 468 Bluật Dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường vụ Quc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị
Thanh H, chị Nguyễn Thị Thanh T1anh Nguyễn Thanh T đối với bị đơn anh
Lê Kim H1.
- Công nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, chNguyễn Thị Thanh T1 anh
Nguyễn Thanh T được hưởng số tiền bồi thường thửa đất số 89 tờ bản đồ số 43
A, huyện L là 2.508.669.000 đồng (hai tỷ năm trăm lẻ tám triệu sáu trăm sáu
mươi chín nghìn đồng) tại Bảng tính toán giá trbồi thường ngày 13/9/2024 của
Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
- Không chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thanh H, ch Nguyễn Thị Thanh T1
và anh Nguyễn Thanh T được hưởng tổng stiền được bồi thường nhà, kiến trúc,
cây trồng và tài sản khác với stiền là 637.423.864 đồng (sáu trăm ba mươi by
triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn tám trăm sáu mươi bốn đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tcủa bị đơn anh Lê Kim H1 đối với
nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh H, chị Nguyễn Thị Thanh T1 và anh Nguyễn
Thanh T.
- Không chấp nhận yêu cầu của anh Kim H1 được hưởng số tin
729.930.900 đồng (bảy trăm hai mươi chín triệu chín trăm ba mươi nghìn chín
trăm đồng) từ việc bồi thường diện tích 209,5m
2
đất (50 đất ONT 159,5 đt
CLN) đối với thửa 89 tờ bản đồ số 43 A, huyện L.
- Công nhận cho anh Kim H1 được hưởng 637.423.864 đồng (sáu trăm
ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn tám trăm sáu bốn đồng) tiền bồi
thường nhà, vật kiến trúc, cây trồng và tài sản khác tại Bảng tính toán giá trbồi
thường ngày 13/9/2024 của Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện L.
- Buộc chị Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn
Thanh T mỗi người phải thanh toán cho anh Lê Kim H1 100.000.000 đồng (mt
trăm triệu đồng) tiền công sức quản lý, giữ gìn và tăng giá trị đất.
- Không chấp nhận 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) tiền công sức
quản lý, giữ gìn và tăng giá trị đất của anh H1.
3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành ối vi
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H anh
Nguyễn Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 40.122.716 đồng (bốn mươi
triệu một trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm mười sáu đồng), được trừ vào số tin
tạm ứng án phí đã nộp 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) theo
biên lai số 0005130 ngày 09/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long
Thành. Chị T1, chị Hanh T còn phải nộp 37.622.716 đồng (ba mươi bảy triu
sáu trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm mười sáu đồng), cụ thể: Chị T1, chị H
anh T mỗi người phải nộp 12.541.000 đồng (mười hai triệu năm trăm bốn mươi
mốt nghìn đồng).
- Bị đơn anh Kim H1 phải chịu 98.771.998 đồng (chín mươi tám triu
bảy trăm bảy mươi mốt nghìn chín trăm chín tám đồng), được trừ vào tiền tạm
ứng án phí dân sđã nộp 8.187.000 đồng (tám triệu một trăm tám mươi bảy
nghìn đồng) theo biên lai 0016239 ngày 06/9/2024 ca Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Long Thành. Anh H1 còn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 90.584.998
đồng (chín mươi triệu năm trăm tám mươi bốn nghìn chín trăm chín tám đồng).
5. Về chí phí tố tụng :
- Ch Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H anh Nguyễn Thanh
T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản và thu thp
chứng cứ là 22.339.767 đồng (hai mươi hai triệu ba trăm ba mươi chín nghìn bảy
trăm sáu bảy đồng). Chị T1, chị H và anh T đã nộp xong.
- Anh Kim H1 phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, thẩm định
giá tài sản thu thập chứng c22.339.767 đồng (hai mươi hai triệu ba trăm
ba mươi chín nghìn bảy trăm sáu bảy đồng). Anh H1 đã nộp 1.409.517 đồng (một
triệu bốn tẳm lẻ chín nghìn năm trăm mười bảy đồng). Chị Nguyễn Thị Thanh
T1, chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Thanh T đã tạm nộp s tin
20.930.250 đồng nên buộc anh H1 phải hoàn trả lại cho chị H, anh T, chị T1 số
tiền 20.930.250 đồng (hai mươi triệu chín trăm ba mươi nghìn hai trăm năm
mươi đồng).
- Ch Nguyễn Thị Thanh T1, chị Nguyễn Thị Thanh H anh Nguyễn Thanh
T phải chịu 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) chí phí giám định. Chị T1, chị H
và anh T đã nộp xong.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T1, anh
Nguyễn Thanh T, chị Nguyễn Thị Thanh H, mỗi người phải nộp 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí
đa nộp theo các Biên lai số 0014550 ngày 09/01/2025, Biên lai số 0014551 ngày
09/01/2025, Biên lai số 0014552 ngày 09/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Long Thành, tỉnh Đng Nai (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực
2 – Đồng Nai).
Bị đơn anh Lê Kim H1 phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sphúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh H1 đã nộp tại Biên
lai s0014578 ngày 16/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 2 – Đồng Nai).
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị ỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND Khu vực 2
- VKSND T. Đồng Nai;
- VKSND Khu vực 2;
- Phòng THADS Khu vực 2;
- Đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHTỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Mỹ Hạnh
Tải về
Bản án số 288/2025/DS-PT Bản án số 288/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 288/2025/DS-PT Bản án số 288/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất