Bản án số 129/2025/DS-ST ngày 23/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 15 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 129/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 129/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 129/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 129/2025/DS-ST ngày 23/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 15 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 15 - An Giang, tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 129/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Nuôi cho rằng phần đất ông Cu quản lý, sử dụng là đất của vợ chồng bà bán cho ông Hó (cha ông Cu) còn chừa lại và bồi lắng thêm. Do bà Nuôi không cung cấp được chứng cứ và không có quá trình sử dụng, nên không chấp nhận yêu cầu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN AN PHÚ
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 129/2025/DS-ST
Ngày 23 tháng 6 năm 2025
Về tranh chấp quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA N NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG
- Vi thnh phn Hi đng xt x sơ thẩm gm c:
Thm phn- Ch ta phiên ta: Ông Trần Văn Sáu.
Cc Hi thm nhân dân: Ông Ngô Văn Thi, bà Nguyễn Thị Kim Uyên.
- Thư k phiên ta: Bà Trần Thanh Trúc Phương - Thư ký Ta án nhân dân
huyn An Phú, tỉnh An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang tham gia
phiên tòa: Bà Lâm Thị Thanh Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 6 năm 2025, ti trụ s Ta án nhân dân huyn An Phú xt xử
sơ thm công khai vụ án thụ lý số: 520/2024/TLST-DS, ngày 21 tháng 10 năm 2024
về vic “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xt xử số:
144/2025/QĐXXST-DS, ngày 04 tháng 6 năm 2025, gia các đương s:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1953; bà Nguyễn Kim H, sinh năm
1974; ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1975; bà Nguyễn Thị L H1, sinh năm 1978;
cùng cư trú: Tổ A, khóm A, thị trấn A, huyn A, tỉnh An Giang.
Đại diện theo y quyền ca cc ông, bà Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T,
Nguyễn Thị Lệ H1: Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1953; cư trú: Tổ A, khóm A, thị
trấn A, huyn A, tỉnh An Giang. (Theo Văn bản ủy quyền ngày 12/12/2023). (Có
mặt)
Bị đơn: Ông Lê Văn C, sinh năm 1962; nơi cư trú: Tổ C, ấp P, xã P, huyn A,
tỉnh An Giang. (Có mặt)
Người đại diện theo y quyền ca ông Lê Văn C: Ông Lê Văn B, sinh ngày
29/8/1984; nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyn A, tỉnh An Giang. (Theo Văn bản ủy quyền
ngày 30/10/2024). (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ N:
Theo đơn khi kin, bản t khai của nguyên đơn; trình bày của bị đơn cùng
các tài liu chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến ti phiên ta, nội dung vụ án như
sau:
Theo đồng nguyên đơn, nguồn gốc đất tranh chấp là của cha mẹ chồng bà N
2
(ông Nguyễn Văn K, bà Võ Thị H2) to lập chia cho bà Nguyễn Kim N và ông
Nguyễn Văn X (ông X là chồng bà N và là cha của các ông, bà H, T, H1). Theo đó,
vợ chồng bà N được chia phần đất din tích ngang 06m, dài 36m. Sau khi ông
Nguyễn Văn X chết, năm 1985 bà N chuyển nhượng một phần din tích đất cho ông
Lê Văn H3 ngang 06m, dài 25m từ chân lộ 957 vào đất ruộng với giá 100.000 đồng,
khi chuyển nhượng các bên chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Phần đất đối din ngang lộ
cặp m sông C bà N không bán, nên vẫn cn của gia đình bà N. Khi đó, phần đất
này có din tích ngang khoảng 06m, dài khoảng 03m. Sau nhiều năm lan bồi thêm,
hin ti là ngang 06m, dài khoảng 28m. Theo Bản đồ hin trng khu đất ngày
07/9/2023 của Văn phng đăng ký đất chi nhánh A thì tổng din tích là 166,6 m
2
,
hin ông Lê Văn C chiếm sử dụng.
Bà Nguyễn Kim N cùng các con là Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T, Nguyễn
Thị L H1 yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho các ông, bà và yêu cầu ông Lê
Văn C trả li phần đất din tích 166,6 m
2
, tọa lc ti ấp P, xã P, huyn A, tỉnh An
Giang theo Bản đồ hin trng khu đất ngày 07/9/2023 của Văn phng đăng ký đất
chi nhánh A.
Theo ông Lê Văn C, phần đất tranh chấp trước đây là cha ông tên Lê Văn H3
mua từ bà Võ Thị H2. Mua khoảng năm 1978, về cất nhà từ năm 1984. Sau đó
ông H3 cho li ông Lê Văn C. Khi mua bán đất thì chưa có lộ 957, đến khi làm lộ
957 (khoảng năm 2012 - 2013) cắt ngang phần đất, phần trong lộ thì ông C tiếp tục
cất nhà ; phần ngoài lộ thì làm rẫy, trồng bch đàn. Năm 2021 ông C h cây, đỗ
móng, trụ cất nhà thì bà N ngăn cản.
Vic mua bán đất chỉ trao đổi bằng lời nói, không có làm giấy tờ, bi hai bên
là họ hàng. Khi hai bên mua bán đất thì đất trồng lúa và trồng cây, không có nhà
trên đất. Vic bà N nói bán ngang 6m x 25m cn dư 3m cặp sông là không đúng.
Phần đất từ sông vào đều do gia đình ông C quản lý, sử dụng từ trước đến nay, dưới
m sông có đặt máy chy nước vào ruộng. Đồng thời, năm 2012 khi Nhà nước làm
lộ 957 thì có bồi thường giá trị đất và cây trên đất cho ông C. Như vậy, phần đất này
sau khi ông H3 mua thì gia đình trc tiếp quản lý, khai thác, sử dụng ổn định, do đó
ông C không đồng ý vic đi li đất của bà N.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn P cho biết: Trước đây mẹ ông tên Võ Thị
H2 có chia đất cho anh, em ông, trong đó có cho vợ chồng ông X, bà N phần đất
din tích ngang 6m, dài khoảng 36m. Sau khi ông X chết thì bà N bán đất này li
cho ông H3 (cha ông Cu). Vic hai bên giao kết mua bán thế nào ông không biết.
Riêng Tờ chia đất nền nhà cho con hin ông P đang gi.
Người làm chứng ông Kiều Văn L cho biết: Phần đất ông L đang cất nhà và
sinh sống hin nay trước đây gia đình ông cũng mua từ bà 5 Hến (mẹ của ông X),
ngang 12 mt, dài khoảng 50 mt từ ruộng ra sông (mua trước năm 1975). Phần đất
của ông khi mua là từ ruộng ra sông, khi đó có đường mn cắt ngang, vị trí đường
mn cách sông khoảng 5 mt, cn lộ 957 hin nay là làm lùi vào trong đồng, cách
đường mn cũ khoảng 5 mt. Đất ông từ khi mua đến nay thì có bồi lắng thêm
nhưng chỉ khoảng 5 mét.
Về phần đất của gia đình ông C, trước đây, khoảng năm 1978 (thời điểm xảy
3
ra chiến tranh biên giới Tây – N) thì bà 5 Hến bán cho ông Lê Văn H3 (ông Tư H4
là cha ông Cu) phần đất chiều ngang 8m, chiều dài từ đất ruộng ra sông (khi đó ông
P con bà 5 Hến đứng ra cấm trụ ranh, ông L cũng có tham gia). Khi ông H4 mua đất
thì trên đất có 5 cây me tây, ông H4 đốn 5 cây me tây cất nhà. Trên đất khi đó là đất
trống, không có nhà, ông H4 có làm đường nước chy vào ruộng từ trước đến nay.
Vic bà H2 bán phần đất này là lấy tiền trị bnh cho ông X (chồng bà N), sau khi bà
H2 bán đất được vài tháng sau thì ông X chết.
Khoảng năm 2005 ông H4 cho li ông C, giấy cho đất ông C thì có ông L và
ông P ký tên giáp cận. Đồng thời khi Nhà nước làm lộ 957 (khoảng năm 2012) thì
các chủ đất liền kề ký tên làm ranh để Nhà nước bồi thường đất, cây trồng thì ông L
và ông P cũng có ký tên cho ông C được bồi thường. Ông L xác định ông C là chủ
của phần đất này.
Ta án tiến hành thu thập chứng cứ, ghi lời khai người làm chứng; đo đc;
xem xt thm định ti chỗ, định giá trị tài sản tranh chấp.
Theo Bản đồ hin trng khu đất ngày 07/9/2023 của Văn phng Đ1 chi nhánh
A thì phần đất tranh chấp có din tích 166,6m
2
. Đất chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Vụ án này Ta án nhân dân huyn An Phú đã thụ lý số 228/2022/TLST-DS,
ngày 22/12/2022 nhưng sau đó bà N rút li yêu cầu khi kin và Ta án đã đình chỉ
giải quyết vụ án theo Quyết định số 362/2023/QĐST-DS, ngày 25/12/2023.
Sau khi thụ lý li, Ta án tiến hành xem xt thm định ti chỗ, định giá và thu
thập tài liu, chứng cứ, trong đó có nhng tài liu, chứng cứ được thu thập trong vụ
án thụ lý số 228/2022/TLST-DS, ngày 22/12/2022.
Theo Biên bản xem xt thm định ti chỗ ngày 10/3/2025 xác định được,
phần đất tranh tọa lc ấp P, xã P, huyn A, tỉnh An Giang. Trên đất có đổ móng, trụ
bê tông; dng cột bằng sắt (chưa đổ bê tông); xây nhà v sinh bằng gch. Hai bên
khu đất là nhà của ông Nguyễn Văn P và nhà ông Kiều Văn L; một mặt giáp sông
và một mặt giáp lộ 957.
Theo Biên bản định giá ngày 10/3/2025, kết quả: Giá trị đất 550.000
đồng/m
2
; tổng giá trị công trình ông C xây dng là 20.147.408 đồng.
Quan điểm của đi din Vin kiểm sát nhân dân huyn An Phú:
Về tố tụng: Ta án thụ lý, xác định quan h tranh chấp, tiến hành thu thập
chứng cứ đúng quy định của pháp luật; thành phần Hội đồng xt xử không thuộc
trường hợp phải thay đổi.
Về nội dung: Theo các tài liu, chứng cứ có trong hồ sơ, có căn cứ xác định,
phần đất các đương s tranh chấp có một phần do ông H4 nhận chuyển nhượng và
một phần đất lan bồi. Toàn bộ phần đất này từ trước đến nay do gia đình ông Lê
Văn C quản lý, sử dụng. Vic bà N cho rằng phần đất này bà được bên chồng chia
cho, bà là người bán cho ông H4 và khi bán có chừa li 03m mt cặp bờ sông nhưng
bà không có tài liu, chứng cứ chứng minh vic bà bán và vic chừa li; đồng thời
4
bà cũng không có quá trình quản lý, sử dụng đất từ khi chuyển nhượng đến nay. Nên
đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đồng nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA N:
Sau khi nghiên cứu các tài liu có trong hồ sơ vụ án được thm tra ti phiên
ta và căn cứ vào kết quả tranh luận ti phiên ta, quan điểm của đi din Vin kiểm
sát, Hội đồng xt xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan h tranh chấp và thm quyền giải quyết: Các ông bà Nguyễn
Kim N, Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T, Nguyễn Thị L H1 kin yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu ông Lê Văn C trả li phần đất din tích 166.6m
2
.
Xác định quan h tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” và “yêu cầu trả lại
đất”, là tranh chấp dân s. Đối tượng tranh chấp là bất động sản tọa lc ấp P, xã P,
huyn A, nên vụ kin thuộc thm quyền giải quyết của Ta án nhân dân huyn An
Phú theo quy định ti các Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân s.
[1.2] Về thời hiu: Các đương s không yêu cầu áp dụng thời hiu. Đồng thời
theo quy định ti khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân s thì tranh chấp về quyền sử dụng
đất không áp dụng thời hiu.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về nguồn gốc phần đất tranh chấp: Theo trình bày của đồng nguyên
đơn, bị đơn và nhng người làm chứng thì nguồn gốc phần đất là của ông Nguyễn
Văn K và bà Võ Thị H2 (cha, mẹ chồng bà N) và một phần lan bồi. Phần đất này bị
cắt ngang bi lộ 957, các đương s không tranh chấp phần đất trong lộ, chỉ tranh
chấp phần đất từ lộ 957 đến giáp sông theo Bản đồ hin trng khu đất ngày
07/9/2023 của Văn phng Đ1 chi nhánh A. Phần đất chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Vic này đã được các đương s thừa nhận, thống nhất và
được Văn phng Đ1 chi nhánh A xác định, nên các tình tiết này không cần phải
chứng minh theo quy định ti điểm a khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân s.
[2.2] Về người chuyển nhượng và thời gian chuyển nhượng: Theo đơn khi
kin và trình bày trong quá trình ha giải, thì bà N xác định bà N là người chuyển
nhượng cho ông H4 vào năm 1985. Theo ông C thì vic chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là gia bà Võ Thị H2 với cha ông tên Lê Văn H3 là vào khoảng năm 1978
– 1979.
Theo bà N, thì phần đất này bà H2 đã cho li vợ chồng bà N, ông X theo “Tờ
chia đất nền nhà cho con” nhưng bà không nhớ năm nào nhưng khi đó bà được 28
tuổi. Sau khi ông X chết, năm 1985 bà N bán đất cho ông H3. Thm tra “Tờ chia đất
nền nhà cho con” thì không ghi ngày tháng năm, nhưng có ghi nhận khi đó bà H2 50
tuổi, bà N và ông X 28 tuổi. So sánh năm sinh thì tuổi của các đương s được ghi
trong “Tờ chia đất nền nhà cho con” hoàn toàn không phù hợp. Bi bà H2 sinh năm
1922, bà N sinh năm 1953, ông X sinh năm 1956, ông P sinh năm 1962. Như vậy,
khi bà H2 50 tuổi thì ông X mới 19 tuổi, bà N 16 tuổi và ông P mới 10 tuổi.
Đồng thời, theo trình bày của các ông, bà Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn G,
5
Nguyễn Thị P1, Nguyễn Thị T1 ti Vi bằng do Văn phng T2 lập ngày 04/4/2022
thì phần đất bà N, ông X được chia cn có 05 công đất ruộng. Các lời trình bày này
hoàn toàn mâu thuẫn với nội dung “Tờ chia đất nền nhà cho con” về mặt thời gian
và phần đất ông X, bà N được chia.
Mặt khác, khi đối chiếu bản chính nhận thấy “Tờ chia đất nền nhà cho con”
được viết bằng bút bi, trên giấy caro, sáng bóng. Đối chiếu tuổi bà H2 thì Tờ giấy
này được viết khoảng năm 1972 (khi bà H2 50 tuổi). Theo ông P, Tờ chia đất này do
ông 7 L1 viết (ông 7 L1 đã chết), nên không thể xác định được người viết, thời gian.
“Tờ chia đất nền nhà cho con” cũng không có điểm chỉ của bà H2 (không có ký tên
hoặc lăn tay); nội dung cũng không nói gì đến 05 công đất ruộng; không nói gì đến
phần của nhng người con khác được chia. Bà N, ông X được chia đất nhưng “Tờ
chia đất nền nhà cho con” li do ông P gi mà không giao cho gia đình bà N gi;
ông P ký tên thừa kế khi mới 10 tuổi là vô lý. Từ đó cho thấy, “Tờ chia đất nền nhà
cho con” do đương s cung cấp không đảm bảo tính xác thc, mà mang tính đối
phó.
Theo trình bày của ông Lê Văn B (đi din theo ủy quyền của ông C) và ông
Kiều Văn L thì phần đất bà N tranh chấp hin ông C đang quản lý, sử dụng là của
cha ông Cu tên Lê Văn H3 mua từ bà Võ Thị H2 vào khoảng năm 1978 - 1979. Năm
1984 ông C đã về cất nhà trên đất, năm 2005 ông H3 chính thức di nguyn cho li
ông C và được thể hin bằng “Tờ phân chia đất ruộng và nền nhà cho con” ngày
10/7/2005. Theo Tờ phân chia này thì phần đất khi đó có chiều ngang khoảng 8m,
chiều dài khoảng 60m từ ruộng đến sông. “Tờ phân chia đất ruộng và nền nhà cho
con” ngày 10/7/2005 do ông H3 lập thì có cả ông L, ông P đều biết và ký tên làm
chứng. Theo lời khai ngày 07/5/2025 thì ông P xác định ông không có ký vì phần
chiều ngang ghi không đúng nhưng ông không có ý kiến về chiều dài khu đất là từ
ruộng tới sông. Như vậy, chiều dài khu đất ông H3 nhận chuyển nhượng vào thời
điểm năm 2005 là từ đất ruộng đến sông khoảng 60m. Kích thước này là tương đối
phù hợp hin trng hin nay.
Theo ông L, vic các bên chuyển nhượng là sau khi chiến tranh biên giới Tây
– Nam tr về. Sau khi bà H2 chuyển nhượng thì vài tháng sau ông X chết. Theo lời
khai của bà N ti Vi Bằng do Văn phng T2 lập và trình bày trong đơn khi kin thì
ông X chết năm 1984. Theo tài liu chứng cứ chứng minh được ông X sinh năm
1953, chết năm 1979. Từ đó xác định lời khai của ông L là có căn cứ. Đồng thời,
theo trình bày của các ông, bà Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn G, Nguyễn Thị P1,
Nguyễn Thị T1 ti Vi bằng do Văn phng T2 lập ngày 04/4/2022 thì bà H2 chia đất
cho các con là vào năm 1980. Từ đó có căn cứ xác định, phần đất ông C hin đang
quản lý, sử dụng là của ông Lê Văn H3 nhận chuyển nhượng từ bà Võ Thị H2 vào
khoảng năm 1978 – 1979. Lời trình bày của bà N chính bà là người chuyển nhượng
đất cho ông H3 vào năm 1985 là không có cơ s.
[2.2] Về phần din tích đất lan bồi: Theo trình bày của ông Kiều Văn L thì gia
đình ông cũng là người nhận chuyển nhượng đất từ bà H2 trước năm 1975, kích
thước từ ruộng ra sông, nhưng từ đó đến nay phần đất có lan bồi thêm khoảng 5m.
6
Điều này trái ngược với trình bày của bà N, theo bà N thì từ khi bà bán đất cho ông
H3 năm 1985 đến nay thì phần đất này được lan bồi thêm khoảng 25m. Theo thm
định ti chỗ thì phần đất tranh chấp là đất cứng, trên đất cn li nhng gốc cây gáo,
bch đàn có hoành từ 1m đến 1,6m được gia đình ông Cu Đ h năm 2021 cn li
trên đất. Theo ông C, nhng cây này được gia đình ông C trồng từ khoảng năm
1990. Điều này chứng tỏ phần đất này không phải mới lan bồi. Hin trng này cũng
phù hợp lời khai của ông L, phần đất bồi thêm từ năm 1979 đến nay khoảng 5m.
Quá trình xác minh cũng xác định được, L2 957 hin nay không nằm trên lối đi
(đường đất cũ), mà lối đi trước năm 2011 là cặp bờ sông. Tình tiết này cũng được bà
N xác nhận ti phiên ta “Lộ 957 hin nay không nằm trên lối đi mn ngày xưa”.
Tuy nhiên khi tiến hành đo đc, thm định và ha giải thì bà N li xác định phần đất
bà chừa li 3m cặp sông là từ chân lộ 957 hin nay. Trong khi thời điểm các bên
chuyển nhượng là chưa có lộ 957 (Lộ 957 được khi công từ năm 2012); đường đất
cũ trước đây là nằm cặp bờ sông (cách chân lộ 957 hin nay khoảng 5m). Từ đó cho
thấy trình bày của bà N “khi bà bán đất cn chừa li 3m cặp sông và từ đó đến nay
bồi thêm khoảng 25m” là hoàn toàn không có cơ s, mà có căn cứ phần đất lan bồi
từ ngày ông H3 nhận chuyển nhượng đến nay là khoảng 5m.
Như vậy, có căn cứ xác định phần đất hin gia đình ông C hin quản lý, sử
dụng là của ông Lê Văn H3 mua từ bà Võ Thị H2 khoảng năm 1978 – 1979, có bồi
thêm khoảng 5m. Lời trình bày của bà N là phần đất này bà N bán cho ông H3 vào
năm 1985, chừa li 3m cặp sông và bồi thêm khoảng 25m là hoàn toàn không có căn
cứ.
[2.3] Về quá trình sử dụng: Theo trình bày của ông C thì từ ngày cha ông
nhận chuyển nhượng đất từ bà H2 đến nay thì toàn bộ phần đất này do gia đình ông
quản lý, sử dụng. Lời trình bày này phù hợp với trình bày của bà N “sau khi bán đất,
bà cùng các con về thị trấn A sinh sống”. Tình tiết này cũng phù hợp trình bày của
nhng người làm chứng. Đồng thời khi Nhà nước thc hin làm lộ 957 thì gia đình
ông C được Nhà nước bồi thường giá trị đất và cây trồng trên đất theo Quyết định
thu hồi đất số 2456/QĐ-UBND và Quyết định bồi thường số 3258/QĐ-UBND cùng
ngày 26/12/2012 của Ủy ban nhân dân huyn A. Như vậy, có căn cứ xác định, phần
đất tranh chấp (có cả đất nhận chuyển nhượng và đất lan bồi) đều do gia đình ông
Lê Văn C quản lý, sử dụng từ ngày ông H3 nhận chuyển nhượng đến nay, đồng
nguyên đơn không có quá trình quản lý, sử dụng trên phần đất này. Ngoài ra, theo
phong tục, tập quán ti địa phương thì người có đất cặp bờ sông nếu được lan bồi
thêm thì họ được hưng, nếu st lỡ mất thì họ phải chịu. Cho nên, nếu phần đất này
có lan bồi thêm thì cũng là gia đình ông Lê Văn C được hưng.
[2.4] Từ nhng phân tích có căn cứ xác định, phần đất tranh chấp có một phần
din tích được ông Lê Văn H3 nhận chuyển nhượng và một phần din tích lan bồi.
Toàn bộ phần đất này đều do gia đình ông Lê Văn C quản lý, sử dụng, khai thác, thụ
hưng hoa lợi, lợi tức từ khi nhận chuyển nhượng đến nay. Đồng thời vic chuyển
nhượng này được thc hin trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nên được pháp luật
thừa nhận. Các ông, bà Nguyễn Kim N, Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T và
Nguyễn Thị L H1 không chứng minh được quyền s hu và không có quá trình
quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp. Do đó không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
7
đồng nguyên đơn, ông Lê Văn C được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp
theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo Công văn số 1618/UBND-NC, ngày 29/12/2023 của Ủy ban nhân dân
huyn A thì din tích đất theo Bản đồ hin trng khu đất ngày 07/9/2023 của Văn
phng Đ1 chi nhánh A có một phần được xác định đất . Tuy nhiên do bị đơn không
có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, nên không xem xt giải quyết.
[3] Về án phí và chi phí tố tụng:
[4.1] Về án phí:
Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên đồng nguyên đơn
phải chịu án phí dân s sơ thm. Trong đó, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất
theo mức án phí không có giá ngch và yêu cầu trả li đất theo mức án phí có giá
ngch. Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, thì bà N thuộc trường hợp được miễn án phí. Do đó các
ông, bà Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T và Nguyễn Thị L H1 có trách nhim liên
đới chịu án phí dân s sơ thm theo quy định.
[4.2] Về chi phí tố tụng
Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận, nên đồng nguyên đơn
phải chịu toàn bộ chi phí đo đc, thm định ti chỗ và định giá. Quá trình giải quyết
vụ án trước (Thụ lý số 228/2022/TLST-DS, ngày 22/12/2022, đình chỉ số
362/2023/QĐST-DS, ngày 25/12/2023) nguyên đơn tm ứng chi phí đo đc, thm
định, định giá. Trong vụ án này, bị đơn tm ứng chi phí thm định, định giá 800.000
đồng. Lẽ ra nguyên đơn phải hoàn li chi phí tố tụng này cho bị đơn. Tuy nhiên bị
đơn không có yêu cầu nguyên đơn hoàn trả li là có lợi cho đồng nguyên đơn. Phần
chi phí tố tụng các đương s đã thc hin xong.
Vì các lẽ trên,
QUYT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26; các Điều 147, 157, 165, 273 Bộ luật Tố tụng dân s
năm 2015;
Căn cứ các Điều 26, 31, 137, 138 Luật Đất đai năm 2024;
Căn cứ Điều 236 Bộ luật Dân s năm 2015;
Căn cứ Điều 12; khoản 1, khoản 3 Điều 26; khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn về vic công nhận quyền
sử dụng đất và yêu cầu ông Lê Văn C trả li phần đất din tích 166,6m
2
tọa lc ấp P,
xã P, huyn A, tỉnh An Giang theo Bản vẽ hin trng khu đất ngày 07/9/2023 của
Văn phng đăng ký đất chi nhánh A.
Về án phí: Các ông, bà Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T và Nguyễn Thị L
H1 có trách nhim liên đới chịu 4.865.000 (bốn triu tám trăm sáu mươi lăm nghìn)
đồng án phí dân s sơ thm. Số tiền này được khấu trừ vào 900.000 (chín trăm
8
nghìn) đồng tiền tm ứng án phí mà các đương s đã nộp ti Chi cục thi hành án dân
s huyn An Phú theo các Biên lai thu số 0010043, 0010044, 0010045 cùng ngày
17/10/2024. Các ông, bà Nguyễn Kim H, Nguyễn Thành T và Nguyễn Thị L H1
cn phải nộp thêm 3.965.000 (ba triu chín trăm sáu mươi lăm nghìn) đồng.
Về quyền kháng cáo: Án tuyên công khai có mặt bà Nguyễn Kim N và ông Lê
Văn B. Thời hn kháng cáo của của các đương s là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
(Ngày 23 tháng 6 năm 2025).
(Kèm theo và không tch rời Bản n này là bản sao Bản vẽ hiện trạng khu đất
ngày 07/9/2023 ca Văn phng đăng ký đất chi nhánh A).
Nơi nhận:
- TAND tỉnh An Giang (1);
- VKSND tỉnh An Giang (1);
- VKSND huyn An Phú (1);
- THADS huyn An Phú (1);
- Các đương s (5);
- Lưu văn phng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Trần Văn Sáu
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 11/06/2025 của TAND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp đất đai
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm