Bản án số 243/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 243/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 243/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 243/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đỗ Viết V yêu cầu ông Đ bà T phải trả đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 243/2025/DS-PT
Ngày 16/6/2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
-
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Huyền
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Sỹ Thành và bà Lưu Thị Thu Hường
- Thư phiên tòa
:
Phan Thị Linh Chi - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
-
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa
:
Thị Bích Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sthụ số 149/2025/TLPT-DS ngày 26/02/2025 về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do Quyết định Giám đốc thẩm của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng huỷ Bản án phúc thẩm số 130/2024/DSPT ngày 04/4/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
số 209/2025/QĐ-PT ngày 23 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đỗ Viết V bà Nguyễn Thị S; cùng địa chỉ: Xóm 2, thôn
15, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, đều có mặt.
Người đại diện theo y quyền: Ông Trần Minh L (Vắng mặt) ông Trần Minh
T (Có mặt); địa chỉ: Thôn 4, E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn Đ và Nguyễn Thị T1; cùng địa chỉ: Thôn 15,
E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, đều có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn H; địa chỉ: Buôn M, thtrấn E,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
2
+ Anh Đỗ Viết T2, chị Đỗ Thị S1; cùng địa chỉ: Thôn 15, xã E, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk; đều vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Toại: Bà Huỳnh Thị Thanh C; địa chỉ:
111 Lê Thị Hồng Gấm, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
+ UBND xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh H1; C/v: Chủ tịch UBND
xã E, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*
Người đại diện ủy quyền nguyên đơn ông Trần Minh T trình bày
:
Về nguồn gốc của diện tích đất 1770m
2
, thửa s236, tờ bản đồ số 17, suất phát
từ việc ông VS đổi đất cho ông Đỗ Đình H2 từ năm 1996, ông S bà V lấy đất tại
thôn 15, xã E, còn ông H2 lấy đất tại thôn 6, xã E. Ông V, bà S canh tác trên đất từ
năm 1996 đến tháng 07/2003 tlàm thủ tục được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Năm 2005, ông chuyển nhượng 360m
2
đất của thửa đất số 236 cho vợ chồng
ông Nguyễn Văn L1, Trần Thị M với giá 27.000.000 đồng, sau đó tiếp tục chuyển
nhượng diện tích đất chiều ngang mặt đường 7m, tổng diện tích khoảng 280m
2
đất cho vợ chồng ông Hoàng Văn Đ, bà Nguyễn Thị T1 với giá 18.000.000 đồng,
lập giấy viết tay (ông Đ T1 đang giữ), các bên đo đạc, giao đất trên thực địa
và thỏa thuận ông Đ, bà T có trách nhiệm thực hiện thủ tục tách thửa. Phần diện tích
còn lại sau khi được tách thửa gia đình ông V S sử dụng một thời gian sau đó phát
hiện ông Đ T sử dụng luôn phần diện tích đất không chuyển nhượng để trồng cây.
Ông V, S khẳng định năm 1996 không chuyển nhượng diện tích đất chiều
ngang mặt tiền đường 13m cho ông Đ, T1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/9/2005 mà ông Đ, bà T1 xuất trình ghi ông Đ, bà T1 nhận chuyển
nhượng 900m
2
(tương ứng chiều ngang mặt tiền đường 20m) là giả tạo, không phải
chữ ký chữ viết của ông V bà S.
Việc ông Đ, T1 cho rằng phần diện tích 13m ngang đang quản lý, sử dụng
từ năm 1996 cho đến nay là không đúng, do phần diện tích này không có ranh giới,
sử dụng chung, năm 1995 gia đình ông V bà S chưa chuyển đến ở, mà đang ở thôn
06, E. Toàn bộ tài sản trên đất hiện nay đang tranh chấp do ông Đ, T1 tạo
lập, trường hợp được chấp nhận yêu cầu khởi kiện, thì gia đình ông V bà S đồng ý
trả lại giá trị tài sản trên đất cho ông Đ, bà T1.
3
Thời điểm đổi đất năm 1996 gia đình ông V S không điều kiện để làm
thủ tục cấp đất, mãi đến năm 2003 mới thực hiện. Để điều kiện cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là nhờ công sức đóng góp bằng tiền của các con là ông T2,
S1 nộp các loại thuế, phí để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do
thửa đất số 236, tờ bản đồ số 17 cấp đứng tên hộ gia đình, nên căn cứ Điều 212 của
Bộ luật dân sự, khoản 29 Điều 3 của Luật đất đai, thì việc xác lập hợp đồng chuyển
nhượng phải sự đồng ý của ông T2, S1. Ông V S đồng ý với yêu cầu độc
lập của ông T2, bà S1.
Tại đơn khởi kiện ông V S yêu cầu ông Đ, T1 trả lại diện tích 620m
2
,
nhưng quá trình giải quyết vụ án, theo kết quả đo đạc thực tế phần đất tranh chấp
diện tích 609,7m
2
đúng nên ông V bà S xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện,
buộc ông Đ, bà T1 trách nhiệm trả lại 609,7m
2
đất là một phần diện tích của thửa
đất số 340, tờ bản đồ số 17.
*
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày
:
Phần diện tích đất tranh chấp năm 1996 ông Đ, T1 thỏa thuận nhận chuyển
nhượng 13m chiều ngang theo mặt đường tứ cận: Phía Đông giáp đường liên thôn
15 (trước kia là thôn 6); phía Tây dài hết thửa đất; phía Nam giáp đất ông Đ, bà T1;
phía Bắc giáp đất ông V S. Việc chuyển nhượng các bên chỉ thỏa thuận miệng
với nhau mối quan hchị em ruột sử dụng, canh tác ổn định từ thời điểm
năm 1996 cho đến nay. Năm 2005, ông V S tiếp tục chuyển nhượng cho ông Đ,
T1 07m ngang theo mặt đường tiếp giáp với phần diện tích đất trước đó đã chuyển
nhượng, đã giao đủ tiền. Như vậy, tổng diện tích qua hai lần chuyển nhượng ngang
20m mặt đường liên thôn, thời điểm này các bên có đến Ủy ban nhân dân E lập
hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất của cả 2 lần chuyển nhượng 900m
2
với giá 30.000.000 đồng, theo hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 10/09/2005, theo
cam kết bên chuyển nhượng ông V bà S có trách nhiệm tách thửa cho ông Đ, bà T1
và chiu trách nhiệm nộp các khoản thuế và lệ phí chuyển nhượng tách thửa.
Từ thời điểm nhận chuyển nhượng cho đến nay, ông Đ, bà T1 quản lý, sử dụng
ổn định không tranh chấp và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau
khi tách thửa xong thì chính ông V đã giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AĐ 550276, được cấp ngày 29/11/2005 về cho ông Đ, bà T1.
Đối với nội dung ông V S cho rằng chỉ chuyển nhượng cho ông Đ, T1
280m
2
đất không chính xác, việc chuyển nhượng làm 02 lần, đã được các
bên tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng tại Ủy ban nhân dân E vào ngày
4
10/09/2005 đối với tổng diện tích 900m
2
(gộp 02 lần chuyển nhượng), việc chuyển
nhượng được ông V S đồng ý vào mục bên chuyển nhượng, nghĩa vụ giữa các
bên đã được thực hiện đầy đủ, sau đó được UBND E xác nhận tính pháp của
hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 20/09/2005, hiện đã được cấp Giấy chứng nhận
đúng pháp luật cho ông Đ, T1. Hơn nữa tại thời điểm xác lập hợp đồng chuyển
nhượng ông V bà S đầy đủ năng lực để thiết lập hợp đồng nêu trên, nên hợp đồng
gtrị pháp lý. Vì vậy, ông V bà S cho rằng không chuyển nhượng phần diện tích
620m
2
là không đúng.
Về nội dung ông T2, bà S1 có yêu cầu độc lập đề nghị tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/09/2005 giữa ông V bà S với ông Đ hiệu;
kiến nghị hủy giá trị pháp đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
ông Đ, T1 không sở. Vì, nguồn gốc diện tích đất ông V S chuyển
nhượng cho ông Đ, bà T1 là do ông S2, bà C1 (bố mẹ bà S) tặng cho một phần diện
tích năm 1995, một phần diện tích là do đổi đất với ông H2, tại thời điểm này bà S1
mới 12 tuổi, ông T2 mới 09 tuổi, đang còn nhỏ và đi học, không công sức đóng
góp đối với tài sản trên nên không quyền yêu cầu độc lập để xác định công sức
đóng góp của mình; mặt khác theo luật đất đai năm 2003 thì đất được cấp cho
nhân sẽ được cấp cho hộ gia đình và người chủ hộ là người thay mặt các thành viên
đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ không phải cho cá nhân theo
quy định hiện hành. vậy, ông V S đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất điều dể hiểu và đây xác lập quyền sử dụng đất riêng về tài sản cho ông
V S không liên quan tài sản chung của hộ gia đình. Do đó, việc chuyển nhượng
đã hoàn thành nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại bản tự khai ngày 16/06/2023, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan anh Đỗ Viết T2, chị Đỗ Thị S1 trình bày:
Anh chị là con đẻ của ông Đỗ Viết V, bà Nguyễn Thị S. Trước đây cả gia đình
sinh sống tại thôn 15, xã E, huyện E, trên phần diện tích 1.770m
2
, nguồn gốc đất
do đổi của ông Nguyễn Đình H2, phần diện tích đất trên đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào năm 2003.
Thời điểm hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/09/2005, đối với diện tích đất
900m
2
thuộc quyền quản lý, sử dụng của hộ gia đình ông V bà S nhưng lại không
chữ ký và xác nhận của các đồng sở hữu anh T2, chị S1 là không đúng quy định của
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu (là thành
viên hộ gia đình). vậy, anh T2, chị S1 yêu cầu độc lập yêu cầu Toà án hủy Hợp
5
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/09/2005, giữa vợ chồng ông V
bà S với ông Đ. Đồng thời kiến nghị hủy giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AD 550276 do Ủy ban nhân dân huyện E cấp ngày 29/11/2005 cho
hộ ông Hoàng Văn Đ, Nguyễn Thị T1 đối với thửa đất số 340, tờ bản đồ số 17,
diện tích 900m
2
do việc ký hợp đồng giữa các bên là trái pháp luật.
* Tại văn bản ngày 30/08/2023, Ủy ban nhân dân xã E trình bày:
Vào ngày 20/09/2005 đại diện Ủy ban nhân dân xã E khi đó ông Hà Ngọc Y là
chủ tịch, được sự tham mưu của cán bộ địa chính đã ký xác nhận nội dung hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên bán là ông Đỗ Viết V, bà Nguyễn Thị S
bên mua ông Hoàng Văn Đ, phần diện tích ghi trong hợp đồng là 900m
2
,
một phần diện tích của thửa đất số 236, tờ bản đố số 17, mục đích sử dụng: đất ở +
đất màu. Việc hợp đồng mua bán nêu trên được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023
của Tòa án nhân
dân huyện Ea Kar đã quyết định:
- Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 91, Điều 147, Điều 161, Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Điều 501, 502, 503 của Bộ Luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 ca Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Viết V
Nguyễn Thị S.
Không chấp nhận đối với yêu cầu độc lập của ông Đỗ Viết T2, bà Đỗ Thị S1.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo.
Ngày 03/10/2023, nguyên đơn ông V bà S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan anh T2, chị S1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
Bản án dân sự phúc thẩm số 130/2024/DSPT ngày 04/4/2024 của Toà án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk tuyên huỷ bản án n sự thẩm số 70/2023/DS-ST ngày
22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar chuyển hồ vụ án cho Toà án
cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục thẩm. Đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với yêu cầu kháng cáo của bà Đỗ Thị S1.
6
Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 25/4/2024 bị đơn ông Đ, bà T1 đơn đề nghị
kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm, để nghị xem xét giám đốc thẩm huỷ Bản án
phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 42/2024/KN-DS ngày 18/11/2024, Chánh án
TAND cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Uỷ ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử giám đốc thẩm hu toàn bộ bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đắk Lắk để xét
xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 90/2024/DS-GĐT ngày 23/12/2024 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm
số 130/2024/DSPT ngày 04/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên toà, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, đơn kháng cáo.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông T2 ginguyên yêu cầu phản tố, đơn
kháng cáo.
* Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thưphiên tòa và các đương sđã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 đề nghị HĐXX: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đỗ
Viết V, bà Nguyễn Thị S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Viết T2
- Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk về phần tuyên án. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với yêu cầu kháng cáo của chị Đỗ Thị S1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào c chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về ttụng: Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Đỗ Thị S1 người
kháng cáo, đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý
do, thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ
luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xxét thấy, cần đình chỉ xét xphúc thẩm đối với
yêu cầu kháng cáo của chị S1.
7
[2] Về nội dung:
[2.1]. Về nguồn gốc đất tranh chấp: Năm 1980, ông Đỗ Viết V, bà Nguyễn Thị
S khai hoang được một đất tại thôn 6, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Đến năm
1996, ông V, bà S đổi đất cho ông Đỗ Đình H2 để lấy thửa đất của ông H2 tại thôn
15, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 18/12/2003, Ủy ban nhân dân huyện E cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 138209, đối với diện tích 1.770m
2
, thuộc
thửa đất số 236, tờ bản đồ số 17 tại xã E, huyện E cho hộ ông Đ Viết V.
Ngày 10/09/2005, vợ chồng ông V S xác lập hợp đồng chuyển nhượng
900m
2
đất là một phần diện tích của thửa đất s236, tờ bản đồ số 17 cho ông Hoàng
Văn Đ, cùng thời điểm này vợ chồng ông V S cũng chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn L1 360m
2
đất của thửa đất số 236, sau đó cả ba gia đình cùng thực hiện
thủ tục tách thửa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày
29/11/2005. Theo đó ông Nguyễn n Đ, Nguyễn Thị T1 được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AD 550276, đối với diện tích 900m
2
; ông Nguyễn Văn
L1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 550277, đối với diện tích
360m
2
; ông Đỗ Viết V và bà Nguyễn Thị S được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AD 550278 đối với diện tích 510m
2
.
[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông ĐViết V, Nguyễn Thị
S, xét thấy: Ông V S cho rằng thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng ngày
10/09/2005 ông không mặt, không vào hợp đồng chuyển nhượng đất cho
ông Đ 900m
2
đất, mà chỉ chuyển nhượng 280m
2
đất, được các bên xác lập bằng
giấy viết tay ông Đ đang giữ, xét thấy: Diện tích đất ông V bà S được UBND huyện
E cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 550278 ngày 29/11/2005 là trùng
khớp và phù hợp với diện tích đất còn lại sau khi ông VS đã chuyển nhượng cho
ông Đ và ông L1 {1.1770m2 - (900m2 + 360m2)}= 510m
2
. Sau khi được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/11/2005, ông V S đã nhận Giấy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không khiếu nại quan cấp Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất. Từ thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho đến nay gia đình ông Đ, bà T1 đã nhận đất quản lý, sử dụng ổn định, chuyển đổi
cây trồng trên toàn bộ diện ch nhận chuyển nhượng; gia đình ông V S biết
không ý kiến phản đối gì. Mặt khác, tại Kết luận giám định số 914/KL-KTHS,
ngày 10 tháng 08 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, đã
kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Đỗ Viết V, Nguyễn Thị S dưới mục “Đại diện
bên chuyển nhượng” trên các tài liệu cần giám định so với chữ ký, chữ viết trên các
8
tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký và viết ra. Do đó, việc ông V bà S cho
rằng không vào hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/09/2005 để chuyển nhượng
cho ông Đ, T1 900m
2
đất không đúng. Tòa án cấp thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông V bà S là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.3] Đối với yêu cầu độc lập của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh
Đỗ Viết T2 chị Đỗ Thị S1 cho rằng thời điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa vợ chồng ông V bà S với ông Đ không có anh T2, chị S1 tham gia
nên đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
10/09/2005 giữa ông V bà S với ông Đ vô hiệu, kiến nghị hủy giá trị pháp lý đối với
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đ, bà T1. Xét thấy: Nguồn gốc đất
tranh chấp là vào năm 1980 ông V S khai hoang, đến năm 1996 ông V S đối
đất cho ông Đỗ Đình H2, để lấy thửa đất đang tranh chấp tại thôn 15, E. Như vậy,
thời điểm này anh T2 sinh năm 1986 mới mười tuổi, chị S1 sinh năm 1983 mới mười
ba tuổi, còn nhỏ nên chưa công sức đóng góp tạo lập tài sản trên, đồng thời t
thời điểm ông V S chuyển nhượng đất cho ông Đ, T1 từ năm 2005 đến nay
anh T2, chị S1 biết nhưng không có ý kiến phản đối về việc chuyển nhượng. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu độc lập của anh T2, chị S1 là có căn cứ.
[2.4] Tuy nhiên, Toà án cấp thẩm thiếu sót khi tuyên án không ràng
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan nên cấp phúc thẩm cần sửa lại phần tuyên án cho đầy đủ.
[2.5] Từ những phân ch nhận định nêu trên, xét thấy không căn cứ để
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông V S người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan anh T2 - Cần giữ nguyên nội dung bản ánthẩm nhưng sửa phần tuyên
án như đã nhận định ở mc [2.4].
[3]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên người kháng cáo phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm. Nguyên đơn ông Đỗ Viết V và bà Nguyễn Thị S thuộc
trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đỗ Viết V, Nguyễn
Thị Sngười có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Viết T2 - Sửa Bản án dân s
thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh
Đắk Lắk về phần tuyên án
9
Tuyên xử:
- Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Viết V và bà Nguyễn Thị S về
việc yêu cầu ông Hoàng Văn Đ, Nguyễn Thị T1 trả lại diện tích đất lấn chiếm
620m
2
, thuộc một phần thửa đất số 340, tờ bản đồ số 17 tại thôn 15, xã E, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk
- Bác yêu cầu độc lập của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Viết
T2, chị Đỗ Thị S1 vviệc yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/9/2005 giữa ông Đỗ Viết V, Nguyễn Thị S ông Hoàng
Văn Đ đối với diện tích đất 900m
2
, thuộc thửa đất số 236 (nay là thừa đất số 340),
tờ bản đồ số 17 tại thôn 15, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng n sự. Đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của chị Đỗ Thị S1.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Đỗ Viết V và bà Nguyễn Thị S thuộc trường hợp người cao tuổi nên được
miễn án phí dân sự phúc thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Anh Đỗ Viết T2 chị Đỗ Thị S1 mỗi người phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng)
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0001071 ngày 24/3/2025
do bà Thái Thị Thanh X nộp thay tại Chi cục thi hành án dân sự huyện E.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
-
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Ea Kar;
- Chi cục THADS huyện E;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lê Thị Thanh Huyền
Tải về
Bản án số 243/2025/DS-PT Bản án số 243/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 243/2025/DS-PT Bản án số 243/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất