Bản án số 41/2024/LĐ-PT ngày 04/04/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/LĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/LĐ-PT ngày 04/04/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hồ Chí Minh |
Số hiệu: | 41/2024/LĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/04/2024 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp đòi tiền lương và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 41/2024/LĐ-PT
Ngày: 04/4/2024
V/v tranh chấp đòi tiền lương và
đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Ngọc Tài
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thoa
Bà Phạm Thị Thanh Trúc
- Thư ký phiên tòa: Bà Tăng Thị Hồng Thanh, Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Bà
Nguyễn Thị Kim Sen – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 18 tháng 3 và ngày 04 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động
thụ lý số 06/2024/TLPT-LĐ ngày 03 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp
đòi tiền lương và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 4017/2023/LĐ-ST ngày 28 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 666/2024/QĐ-PT ngày
19 tháng 02 năm 2024 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 3287/2024/QĐ-PT
ngày 18/3/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Công D, sinh năm 1989; Địa chỉ: H Khu phố E,
phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1991 và/hoặc bà Nguyễn
Hồ Thu T, sinh năm 1996; cùng địa chỉ: Số A đường P, Khu phố E, phường T,
thành phố B, tỉnh Đồng Nai – là người đại diện theo ủy quyền. (Theo Giấy ủy
quyền số công chứng số: 18781, quyền số: 11/2021 TP/CC-SCC/HDGD ngày
10/11/2021).
2
Bị đơn:
1. Công ty Cổ phần T2; Địa chỉ trụ sở: 34, Đường F, Khu phố C, phường
B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty Cổ phần T2: Ông Phan Văn
T1, sinh năm 1966; Địa chỉ: F C, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh -
là người đại diện theo ủy quyền (Theo Giấy ủy quyền số: 01/2024/GUQ/NK
ngày 04/3/2022).
2. Công ty Cổ phần T3;
Địa chỉ: Số C, đường F, khu phố C, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty Cổ phần T3: Ông Phan Văn
T1, sinh năm 1966; Địa chỉ: F C, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh -
là người đại diện theo ủy quyền (Theo Giấy ủy quyền số: 01/2024/GUQ/NK
ngày 04/3/2024).
Người kháng cáo:
- Ông Trần Công D – Nguyên đơn
- Công ty Cổ phần T3 - Bị đơn
- Công ty Cổ phần T2 - Bị đơn
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có bà
Nguyễn Hồ Thu T là người đại diện hợp pháp trình bày:
Ngày 01/08/2019, ông Trần Công D được Công ty Cổ phần T2 (viết tắt
Công ty T2) tuyển dụng vào làm việc. Sau thời gian thử việc (từ ngày 01/8/2019
đến ngày 20/9/2019), ông D với Công ty T2 ký hợp đồng lao động có thời hạn là
01 năm (từ ngày 01/10/2019 đến 30/9/2020), với công việc là quay phim, làm
việc tại văn phòng Công ty.
Sau khi Hợp đồng lao động được ký kết, ông D đã chấp hành nội quy cũng
như các quy định của Công ty T2 và chưa có bất kỳ vi phạm nào. Đến cuối
tháng 02/2020, ông D được bà Đỗ Thị Thu H1, Giám đốc Công ty T2 bố trí làm
thêm công việc cho Công ty cổ phần T3 (viết tắt Công ty T3) cũng do bà Đỗ Thị
Thu H1 làm Giám đốc tại thời điểm đó. Ngày 06/3/2020 ông D được Công ty T2
chuyển khoản thanh toán tiền lương thông qua Ngân hàng Á, số tiền là
9.200.000 đồng, với nội dung “BHV thanh toán lương T2/2020” và kể từ kỳ
lương tháng 3/2020 cho đến khi Hợp đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV hết
hạn là ngày 30/9/2020 thì Công ty T2 không còn trả lương cho ông D nữa. Theo
yêu cầu của bà Đỗ Thị Thu H1 thì ông D đã làm việc cho Công ty T3 từ tháng
3/2020, giữa Công ty T3 và ông D không ký hợp đồng lao động. Về tiền lương
thì ngày 07/4/2020, ông D được Công ty T3 chuyển khoản thanh toán thông qua
Ngân hàng A, số tiền là 10.000.000 đồng, với nội dung “Nam Kinh thanh toán
3
lương T3/2020”. Tuy nhiên vào ngày 21/4/2020, Công ty T3 ban hành Thông
báo số 02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt hợp đồng lao động, trong đó Công ty
thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng lao động với ông D kể từ ngày 21/5/2020, với
lý do “Theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động”, trong
khi giữa ông D và Công ty T3 cũng như Công ty T2 chưa hề ký bất kỳ thỏa
thuận nào về việc chấm dứt Hợp đồng lao động như nêu trong Thông báo trên.
Thông báo số 02/2020/QĐ/NK cũng do bà Đỗ Thị Thu H1 ký với chức vụ là
Giám đốc Công ty T3. Đến ngày 20/5/2020, Công ty T3 ban hành Quyết định số
02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt Hợp đồng lao động, trong đó Công ty T3
quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động với ông D kể từ ngày 21/5/2020 cũng
với lý do “Theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động”.
Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động này lại do bà Nguyễn Thị Ngọc B ký
với chức vụ là Giám đốc Công ty T3. Ngày 21/5/2020, ông D nhận được quyết
định nêu trên và ông D đã nhiều lần đến Công ty T2 và Công ty T3 để thắc mắc
về tiền lương, chế độ bảo hiểm cũng như việc bị đơn phương chấm dứt Hợp
đồng lao động trái pháp luật nhưng không được các Công ty nói trên giải quyết
thỏa đáng. Bên cạnh đó, khi bị chấm dứt hợp đồng lao động, ông D yêu cầu các
Công ty hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế và bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cho ông D theo quy định của pháp luật thì
cả hai Công ty đều cố tình tránh né, không cung cấp xác nhận thời gian đóng các
chế độ bảo hiểm nói trên mà ngược lại, Công ty T3 giao cho ông D “Biên bản
xác nhận số Bảo hiểm xã hội của người lao động” ký ngày 02/6/2020, với nội
dung là “Bên A (Công ty T3) xác nhận không giữ sổ bảo hiểm xã hội của anh
Trần Công D".
Việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, đồng thời cố ý vi phạm
các quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc đóng các khoản
bảo hiểm cho người lao động của Công ty T2 và Công ty T3 đã ảnh đến quyền
lợi của người lao động nên ông D khởi kiện yêu cầu:
1. Buộc Công ty T2:
(a) Phải trả khoản tiền lương còn nợ chưa thanh toán kể từ kỳ lương tháng
3/2020 cho đến tháng 9/2020 (khi Hợp đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV
hết hạn) là 07 tháng tính theo mức lương của tháng 02 năm 2020 là 9.200.000
đồng/tháng, với số tiền là: 9.200.000 x 7 tháng = 64.400.000 đồng;
(b) Phải truy đóng hoặc trả các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
bảo hiểm thất nghiệp trong suốt thời gian Hợp đồng lao động số
40/2019/HĐLĐ/BHV có hiệu lực (từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/9/2020) là
12 tháng tính theo mức lương là 9.200.000 đồng/tháng và mức đóng thuộc nghĩa
vụ của người sử dụng lao động là 21,5%/tháng, với số tiền là: 9.200.000
đồng/tháng x 21,5%/tháng x 12 tháng = 23.736.000 đồng. Tổng cộng là
88.136.000 đồng.
2. Buộc Công ty cổ phần T3:
4
(a) Phải nhận ông D trở lại làm việc theo công việc lúc Công ty đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Trường hợp, nếu Công ty
không muốn nhận trở lại làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả như được nêu
dưới đây, Công ty phải thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm để chấm dứt hợp
đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động.
(b) Phải trả tiền lương trong những ngày ông D không được làm việc do
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, tạm tính kể từ ngày
chấm dứt hợp đồng lao động 21/5/2020 đến ngày 21/8/2022 là 27 tháng theo
mức lương của tháng cuối cùng khi bị chấm dứt hợp đồng là 10.000.000
đồng/tháng với số tiền là: 10.000.000 đồng/tháng x 27 tháng = 270.000.000
đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, yêu cầu được tính với thời hạn kể từ ngày chấm dứt
hợp đồng lao động 21/5/2020 đến ngày 21/9/2023 là 40 tháng theo mức lương
của tháng cuối cùng khi bị chấm dứt hợp đồng là 10.000.000 đồng/tháng, với số
tiền là: 10.000.000 đồng/tháng x 40 tháng = 400.000.000 đồng.
(c) Phải trả thêm cho ông D một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền
lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với số tiền là:
10.000.000 đồng/tháng x 02 tháng = 20.000.000 đồng.
(d) Phải truy đóng hoặc trả các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày ông D không được làm việc do đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, tạm tính từ tháng 10/2020
khi Hợp đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV hết thời hạn đến tháng 8/2022
là 22 tháng với mức đóng thuộc nghĩa vụ của người sử dụng lao động là
21,5%/tháng, với số tiền là: 10.000.000 đồng/tháng x 21,5%/tháng x 22 tháng =
47.300.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, yêu cầu này được xác định với thời hạn
tính từ tháng 10/2020 (khi Hợp đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV hết thời
hạn) đến tháng 9/2023 là 35 tháng, với mức đóng thuộc nghĩa vụ của người sử
dụng lao động là 21,5%/tháng với số tiền là: 10.000.000 đồng/tháng x
21,5%/tháng x 35 tháng = 75.250.000.
Tổng cộng là 495.250.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có ông Phan Văn Trọng đại d theo
ủy quyền trình bày:
1. Đối với yêu cầu khởi kiện mà nguyên đơn kiện Công ty T2, bị đơn có
kiến như sau: Về việc ký hợp đồng lao động như phía nguyên đơn trình bày, nay
trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với Công ty T2, bị đơn không đồng
ý. Do đó, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Đối với yêu cầu khởi kiện mà nguyên đơn kiện Công ty T3, bị đơn có ý
kiến như sau:
Ông D bắt đầu làm việc tại Công ty T3 từ ngày 01/03/2020 chức danh quay
phim, thời gian thử việc là 2 tháng (từ ngày 01/03/2020 đến ngày 30/04/2020).
Trước đó, ngày 28/2/2020, Phòng Hành chính – Nhân sự của Công ty T3 có
buổi làm việc tập trung tất cả người lao động để thông qua nội quy lao động và
5
xúc tiến ký kết hợp đồng lao động với nhân sự mới; Phòng Hành chính – Nhân
sự đã đọc, phân tích, tập trung nhấn mạnh về chính sách, chế độ, quyền lợi dành
cho người lao động cũng như loại hình lao động (chính thức hoặc thử việc), tùy
thuộc vào bộ phận, vị trí mà người lao động được bố trí sau khi tiếp nhận. Tất cả
mọi người đều hiểu và đồng ý ký kết hợp đồng lao động riêng chỉ có ông D sau
khi nghe nội quy và hiểu mình phải thử việc nên không ký hợp đồng lao động.
Do ông D đang trong giai đoạn thử việc tại Công ty T3 nên Công ty đã lập Hợp
đồng lao động theo mẫu chung của và Công ty T3 ký phát hành, trong đó thể
hiện rất rõ: “Loại hợp đồng: Hợp đồng lao động xác định thời hạn 12 tháng từ
01.05.2020 đến 30.04.2021... Thời gian thử việc từ 01.03.2020 đến
30.04.2020...”. Tuy nhiên, ông D không chịu ký Hợp đồng lao động theo mẫu
chung của Công ty M Phòng Hành chính – Nhân sự của Công ty thông báo
miệng mời nhiều lần. Theo suy đoán vì ông D nghĩ rằng với tay nghề quay phim
của mình sẽ không cần thử việc, tuy nhiên theo Nội quy Lao động của Công ty
T3 ký phát ngày 10.12.2019 thì với chức danh quay phim của ông D buộc phải
thử việc 02 tháng.
Quá trình làm việc của ông D tại Công ty T3, Công ty đã thanh toán lương
như sau: Lương tháng 03/2020: Thu nhập thực tế là 10.000.000 đồng, tương ứng
26 ngày công, thanh toán vào ngày 07.04.2020; Lương tháng 4/2020: Thu nhập
thực tế: 10.000.000 đồng, tương ứng 24 ngày công và 02 ngày lễ, thanh toán vào
ngày 05.05.2020; Tháng 5/2020: Thu nhập thực tế: 6.538.462 đồng, tương ứng
với 16 ngày công và 01 ngày lễ, thanh toán vào ngày 05.06.2020.
Nay yêu cầu khởi kiện của ông Trần Công D đối với Công ty T3 về việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không có căn cứ, cụ
thể:
- Về thử việc: Căn cứ theo quy định của pháp luật lao động và nội quy
Công ty T3 thì Công ty có quyền tuyển dụng người lao động và bố trí công việc
phù hợp với tình hình hoạt động của mình. Do đó, trước khi nhận ông D vào làm
việc chính thức thì Công ty T3 có quyền bố trí ông D thử việc theo một thời hạn
nhất định theo nội quy lao động và những quy định chung của Công ty.
- Về hình thức hợp đồng thử việc: Theo Điều 26.1 Bộ luật Lao động năm
2012, luật không có quy định về hình thức của hợp đồng thử việc. Trong trường
hợp này, việc thử việc giữa các bên được xác lập bằng hình thức hợp đồng lao
động và thời gian thử việc đã được Công ty T3 thể hiện trong nội dung hợp đồng
lao động đã được Công ty ký phát hành (trong đó ông D không ký) là phù hợp
theo quy định của pháp luật.
- Về thời hạn thử việc: Theo Điều 27.1 Bộ luật Lao động năm 2012: “Thời
gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ
được thử việc 01 lần đối với một công việc và bảo đảm các điều kiện sau đây: 1.
Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên
môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên...” và theo Điều 7.1 Nghị định 05/2015/NĐ-
CP quy định: “Trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời gian thử việc đối
6
với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 1 và
2 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho
người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công
việc làm thử đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao
động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động.”. Ngày
21/04/2020, Công ty T3 ra Thông báo số 02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt hợp
đồng. Như vậy, Công ty đã thông báo kết quả thử việc cho ông D là quyết định
chấm dứt tuyển dụng trong thời hạn luật định. Trong thông báo cũng như Quyết
định chấm dứt hợp đồng lao động, Công ty T3 ghi nhận chấm dứt hợp đồng lao
động với ông D kể từ ngày 21.05.2020.
- Về việc ông D cho rằng giữa ông D và Công ty T3 đã xác lập hợp đồng
lao động không thời hạn: Phía ông D cho rằng giữa hai bên không có thỏa thuận
về việc thử việc, đồng thời trên Thông báo và Quyết định chấm dứt hợp đồng
lao động có thể hiện nội dung “chấm dứt hợp đồng lao động” nên ông có quyền
nghĩ hai bên đã xác lập hợp đồng lao động không thời hạn. Lập luận này của ông
D là không đủ căn cứ, bởi lẽ:
Giữa ông D và Công ty T3 không có thư mời nhận việc hay văn bản nào
khác thể hiện nội dung giao kết hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, tổng thời gian
ông D làm việc tại Công ty T3 là chưa đến 02 tháng (từ ngày 01/03/2020 đến
ngày 21/04/2020) đã nhận được thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động
(chưa hết thời gian thử việc thông thường theo luật định). Từ đó không thể mặc
nhiên khi ông D vào làm việc tại Công ty T3 là hai bên đã xác lập hợp đồng lao
động có thời hạn.
Trong Quyết định về việc chấm dứt hợp đồng lao động ký ngày 20/05/2020
có nội dung: “Theo Thông báo thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động với anh
Trần Công D” cần hiểu đúng là căn cứ “Theo Thông báo về việc chấm dứt hợp
đồng lao động” Công ty T3 phát hành ngày 21/04/2020 (nghĩa là Thông báo về
việc chấm dứt hợp đồng lao động do Công ty T3 ký phát hành đã thông báo cho
ông D trước 01 tháng và đây cũng là một trong 4 căn cứ khi lập Quyết định về
việc chấm dứt hợp đồng lao động với Ông D). Như vậy, khi nhận “Thông báo về
việc chấm dứt hợp đồng lao động” và “Quyết định về việc chấm dứt hợp đồng
lao động”, ông D hoàn toàn không có ý kiến gì ngay sau khi nhận đồng nghĩa
với việc ông D đã chấp nhận thôi việc hợp pháp và Công ty T3 cho thôi việc
đúng theo quy định.
- Điều 29 Bộ luật Lao động năm 2012: “Trong thời gian thử việc, mỗi bên
có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi
thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.” và Điều
2.1.b Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định một trong những trường hợp người
lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là có hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng.... Theo quy định trên, người
lao động làm việc theo hợp đồng thử việc sẽ không thuộc đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc. Do đó, thời gian thử việc của người lao động trong
trường hợp này sẽ không được tính tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
7
Bởi những lẽ trên, Công ty T3 khẳng định yêu cầu khởi kiện của ông D về
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không có căn cứ.
Các nội dung yêu cầu khởi kiện của ông D là không có cơ sở chấp nhận. Bị đơn
không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn, đề nghị Tòa
án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật
Bản án lao động sơ thẩm số 4017/2023/LĐ-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã xử:
Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều
22, Điều 38, Điều 41, Điều 42, Điều 201 và Điều 202 Bộ luật lao động 2012;
Điều 468 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật Thi hành án dân sự;
Xử:
1. Hủy Quyết định số 02/2020/QĐ/NK ngày 20/5/2020 của Công ty Cổ
phần T3 về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông Trần Công D.
2. Đình chỉ yêu cầu của ông Trần Công D buộc Công ty Cổ phần T2 phải
trả khoản tiền lương còn nợ chưa thanh toán kể từ kỷ lương tháng 3/2020 cho
đến tháng 9/2020 (khi Hợp đồng lao động số 40/2019/HDLD/BHV hết hạn) là
07 tháng tính theo mức lương của tháng 02 năm 2020 là 9.200.000 đồng/tháng,
với số tiền là: 9.200.000 x 7 tháng = 64.400.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Công
D:
3.1. Buộc Công ty Cổ phần T3 trả cho ông Trần Công D số tiền
113.000.000 đồng, bao gồm: Tiền lương trong những ngày ông D không làm
việc là 93.000.000 và bồi thường cho ông D 02 tháng tiền lương là 20.000.000
đồng. Thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày ông Trần Công D có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty T3
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nêu trên, thì hàng tháng
Công ty Cổ phần T3 còn phải chịu trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng
với thời gian chậm trả theo mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng
không được vượt quá 20%/năm, nếu không có thỏa thuận thì mức lãi suất bằng
50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
3.2. Buộc ông Trần Công D và Công ty Cổ phần T2 cùng có nghĩa vụ thực
hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
cho ông D tại Cơ quan Bảo hiểm xã hội có thẩm quyền, thời gian từ ngày
01/10/2019 đến hết tháng 02/2020; đóng trên mức lương 4.473.000 đồng.
3.3. Buộc ông Trần Công D và Công ty Cổ phần T3- cùng có nghĩa vụ thực
hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
cho ông D tại Cơ quan Bảo hiểm xã hội có thẩm quyền mức lương đóng bảo
8
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp 10.000.000 đồng; thời gian
đóng từ ngày 01/03/2020 đến ngày 01/03/2021.
Các bên thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền
4. Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Công D:
- Buộc Công ty Cổ phần T2 phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
bảo hiểm thất nghiệp cho ông Trần Công D giai đoạn từ ngày 01/03/2020 đến
ngày 30/9/2020.
- Buộc Công ty Cổ phần T3 phải nhận ông D trở lại làm việc theo công
việc lúc Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
- Buộc Công ty Cổ phần T3 thanh toán tiền lương trong những ngày không
được làm việc là số tiền 307.000.000 đồng.
5. Về án phí: Công ty Cổ phần T3 phải chịu là 3.390.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quy định về thi hành
án cho các bên đương sự.
Ngày 11/10/2023, bị đơn Công ty Cổ phần T2 nộp đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm với đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 11/10/2023, bị đơn Công ty Cổ phần T3 nộp đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm với đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 12/10/2023, nguyên đơn nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
với đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo, nguyên đơn ông Trần Công D có bà Đỗ Thị H đại diện
theo ủy quyền trình bày: Nguyên đơn kháng cáo, không đồng ý với quyết định
của Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Đức, bởi các lý do:
1/ Đối với Công ty T2: Cấp sơ thẩm nhận định rằng yêu cầu khởi kiện của
ông D đã hết thời hiệu khởi kiện và đình chỉ yêu cầu của ông Trần Công D đối
với yêu cầu buộc Công ty T2 hoàn trả tiền lương chưa thanh toán từ kỳ lương
tháng 03/2020 cho đến tháng 9/2020 và không chấp nhận yêu cầu buộc Công ty
T2 phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho ông
Trần Công D giai đoạn từ 01/03/2020 đến ngày 30/09/2020 là không đúng theo
quy định của pháp luật vì:
Ngày 01/8/2019, ông D được Công ty T2 do bà Đỗ Thị Thu H1 làm Giám
đốc tuyển dụng vào làm việc cho Công ty. Sau khi hết thời gian thử việc (từ
ngày 01/8/2019 đến ngày 30/9/2019) thì hai bên ký Hợp đồng lao động số
40/2019/HDLD/BHV ký ngày 01/10/2019 xác định thời hạn từ ngày 01/10/2019
đến ngày 30/9/2020. Cho đến thời điểm hiện tại, Công ty T2 chưa ban hành bất
9
kỳ một thông báo hay quyết định nào về việc chấm dứt Hợp đồng lao động nêu
trên với ông D. Trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động trên, từ tháng
03/2020, Công ty T2 thông báo với ông D vì tình hình dịch bệnh covid gặp
nhiều khó khăn nên thời gian Công ty sẽ thanh toán lương chậm hơn so với thỏa
thuận trong hợp đồng nhưng không nói thời gian chậm là đến khi nào. Đồng
thời, tại thời điểm đó ông D được bà bà Đỗ Thị Thu H1 - Giám đốc Công ty T3
(đồng thời cũng là Giám đốc Công ty T2) tuyển dụng, bố trí làm thêm công việc
tại Công ty T3. Đến ngày 20/5/2020 Công ty T3 ban hành Quyết định số
02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt Hợp đồng lao động với ông D kể từ ngày
21/5/2020. Do thời điểm đấy, ông D đang làm việc cho cả Công ty T2 và Công
ty T3. Sau khi nhận được thông báo này thì bản thân ông D mới nhận thức được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm vì vậy ông D đã nhiều lần đến cả
02 công ty để hỏi về lương cũng như chế độ bảo hiểm và Công ty T3 giao cho
ông D “Biên bản xác nhận số Bảo hiểm xã hội của người lao động” ký ngày
02/6/2020 với nội dung là “Bên A (Công ty T3) xác nhận không giữ số BHXH
của anh Trần Công D”. Căn cứ tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật lao động 2012, thời
điểm kể từ ngày ông D “phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm” là ngày 21/05/2020 (ngày ông D
nhận được Quyết định thôi việc) đến ngày ông D nộp đơn khởi kiện tại TAND
TP. Thủ Đức là ngày 11/5/2021 - là hoàn toàn trong thời hiệu khởi kiện theo quy
định pháp luật. Vì vậy, việc ông Trần Công D khởi kiện buộc Công ty T2 hoàn
trả tiền lương chưa thanh toán từ kỳ lương tháng 03/2020 cho đến tháng 9/2020
và buộc Công ty T2 phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất
nghiệp cho ông Trần Công D giai đoạn từ ngày 01/03/2020 đến ngày 30/09/2020
là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật.
Cấp sơ thẩm căn cứ vào Hợp đồng lao động số số 40/2019/HĐLĐ ngày
01/10/2019, mức lương của ông D là 4.473.000 đồng và xác định mức lương
đóng các khoản BHXH, BHYT và BHTN là 4.473.000 đồng là không đúng theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm tại khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội
2014, khoản 2 Điều 17 Nghị định 115/2015/NĐ-CP, khoản 1 Điều 30 Thông tư
59/2015/TT-BLĐTBXH, điểm c khoản 5 Điều 3 Thông tư số 10/2020/TT-
BLĐTBXH. Tiền lương được tính để đóng Bảo hiểm xã hội của ông D khi làm
việc tại Công ty T2 sẽ bao gồm “mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ
sung khác theo quy định của pháp luật về lao động”. Quá trình làm việc tại Công
ty T2 ông D cũng đã cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm bản sao kê tài khoản
ngân hàng trong đó thể hiện rất rõ số tiền lương hàng tháng ông D nhận được từ
Công ty T2, mức lương ông D được nhận đều hàng tháng là 10.000.000 đồng,
mới nhất là kỳ lương tháng 03/2020 ông D được nhận là 9.200.000 đồng. Đồng
thời, tại phiên xét xử sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát cũng có cùng quan điểm
với nguyên đơn về mức đóng các khoản BHXH, BHYT và BHTN là 9.2000.000
đồng nhưng lại không được Cấp sơ thẩm xem xét giải quyết. Cấp sơ thẩm căn
cứ vào Hợp đồng lao động số số 40/2019/HĐLĐ ngày 01/10/2019, mức lương
của ông D là 4.473.000 đồng để xác định mức lương đóng các loại bảo hiểm trên
là không đúng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm. Ông D yêu cầu Công ty
10
T2 phải truy đóng hoặc trả các khoản BHXH, BHYT và BHTN trong suốt thời
gian Hợp đồng lao động số 40/2019/HDLD/BHV có hiệu lực (từ ngày
01/10/2019 đến ngày 30/9/2020) là 12 tháng tính theo mức lương là 9.200.000
đồng.
2/ Cấp sơ thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012
xác định Hợp đồng lao động giữa ông D với Công ty T3 là Hợp đồng xác định
thời hạn 12 tháng, tính từ ngày 01/03/2020 đến ngày 01/03/2021 là không đúng
theo quy định của pháp luật vì: Đến cuối tháng 02/2020 ông D được bà Đỗ Thị
Thu H1, Giám đốc Công ty T2 bố trí làm thêm công việc cho Công ty T3 cũng
do bà Đỗ Thị Thu H1 làm Giám đốc tại thời điểm đó, không ký Hợp đồng lao
động. Về tiền lương: Công ty T3 đã thanh toán tiền lương cho ông D tháng
3/2020 là 10.000.000 đồng, tháng 4/2020 là 10.000.000 đồng và tháng 5/2020 là
6.538.462 đồng Ngày 21/4/2020 Công ty T3 ban hành Thông báo số
02/2020/QĐ/NK với nội dung sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động với ông D kể từ
ngày 21/5/2020 theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Đến ngày 20/5/2020 Công ty T3 ban hành Quyết định số 02/2020/QĐ/NK về
việc chấm dứt Hợp đồng lao độngvới ông D kể từ ngày 21/5/2020 cũng với lý
do “Theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động”. Căn cứ
theo khoản 1 Điều 7, Điều 15, khoản 1 Điều 18 Bộ luật Lao động năm 2012 có
căn cứ xác định thực tế giữa ông D và Công ty T3 đã phát sinh quan hệ lao động
mặc dù không giao kết hợp đồng.
Khi làm việc cho Công ty T3, giữa ông D và Công ty T3 không có ký kết
bất kỳ Hợp đồng lao động nào có xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt trong
khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. Thông báo số 02/2020/QĐ/NK và
Quyết định số 02/2020/QĐ/NK không có bất kỳ nội dung nào thể hiện việc
chấm dứt Hợp đồng lao động có xác định thời hạn nào cả. Cấp sơ thẩm căn cứ
điểm b khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012 xác định Hợp đồng lao
động giữa ông D với Công ty T3 là Hợp đồng xác định thời hạn 12 tháng, tính từ
ngày 01/03/2020 đến ngày 01/03/2021 là không có căn cứ. Theo nguyên đơn
Hợp đồng lao động giữa ông D với Công ty T3 phải là Hợp đồng không xác
định thời hạn là phù hợp với quy định điểm a, b khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao
động năm 2012 .
Cấp sơ thẩm xác định Công ty T3 đã có hành vi đơn phương chấm dứt Hợp
đồng lao động trái pháp luật và tuyên xử “Hủy Quyết định số 02/2020/QĐ/NK
ngày 20/05/2020 của Công ty Cổ phần T3 về việc chấm dứt hợp đồng lao động
đối với ông Trần Công D” nhưng không xem xét một cách chính xác về hậu quả
pháp lý của việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động theo quy định của Bộ
luật lao động. Căn cứ khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012, do Công ty T3
phải nhận ông D trở lại làm việc, phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế trong những ngày ông D không được làm việc cho đến khi ông D trở lại làm
việc và phải bồi thường 2 tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động. Tuy nhiên,
Bản án sơ thẩm cho rằng Hợp đồng lao động giữa ông D và Công ty T3 là hợp
đồng xác định 12 tháng tính từ ngày 01/03/2020 đến 01/03/2021 và cho rằng
11
Hợp đồng lao động này đã chấm dứt nên Công ty T3 không phải nhận ông D trở
lại làm việc và chỉ phải ông Danh số tiền 113.000.000 đồng trong những ngày
ông D không được làm việc là không đúng quy định của pháp luật lao động.
Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét, giải quyết cho ông D việc sau đây: Tuyên sửa toàn bộ Bản án sơ
thẩm số 4017/2023/LĐST ngày 28/09/2023 của TAND Tp. Thủ Đức, Tp . theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người kháng cáo, bị đơn Công ty Cổ phần T2 có ông Phan Văn Trọng đại
d trình bày: Bị đơn Công ty T2 kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc Công ty T2 yêu cầu áp dụng thời
hiệu là có căn cứ và yêu cầu này đã được Cấp sơ thẩm chấp nhận theo đúng quy
định của pháp luật. Công ty T2 không đồng ý với nội dung kháng cáo của
nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. .
Người kháng cáo, bị đơn Công ty Cổ phần T3 có ông Phan Văn Trọng đại
d trình bày: Bị đơn Công ty T3 kháng cáo toàn bộ bản án mà Toà án nhân dân
thành phố Thủ Đức đã tuyên vào ngày 28/09/2023. Lý do kháng cáo: Tại Bản án
sơ thẩm, Toà án nhân dân thành phố Thủ Đức đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Điều này đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty
T3. Bị đơn không đồng ý với nội dung kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo của Công ty T3, không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn và các bị đơn nằm trong hạn
luật định nên được chấp nhận hợp lệ. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp
luật của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm kể từ
khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án đúng theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Về nội dung, sau khi phân tích những tình tiết có liên quan đến vụ án, trên
cơ sở Bộ luật lao động, xét thấy Cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận một phần các yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định.
Đối với quan hệ tranh chấp lao động giữa ông Trần Công D với Công ty
T2, do Cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu áp dụng thời hiệu của Công ty T2
nhưng vẫn xem xét giải quyết và chấp nhận một phần yêu cầu buộc Công ty T2
truy đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN của ông D là không đúng quy định nên đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét đình chỉ giải quyết phần yêu cầu này
đã được cấp sơ thẩm chấp nhận.
12
Đối với quan hệ tranh chấp lao động giữa ông Trần Công D với Công ty
T3, Cấp sơ thẩm xác định hợp đồng lao động giữa hai bên là loại hợp đồng lao
động có thời hạn 12 tháng là phù hợp, xác định Công ty T3 đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và buộc bồi thường do đơn phương trái là
đúng quy định tại khoản 1 Điều 42. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các
đương sự ở nội dung này.
Do sửa một phần nội dung về việc đình chỉ giải quyết yêu cầu buộc Công
ty T2 truy đóng tiền BHXH, BHYT, NHTN của ông Trần Công D, Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo
của nguyên đơn và các bị đơn Công ty T3, Công ty T2, sửa một phần bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn và các bị đơn nằm trong hạn luật định phù
hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.
[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Cấp
sơ thẩm xác định nguyên đơn khởi kiện về đòi tiền lương, đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động đối với Công ty T2 và Công ty T3, theo điểm a khoản 1 Điều
32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là tranh chấp về lao động nên vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án và xác định do Công ty T2 và Công ty T3 có
địa chỉ tại thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ điểm a khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh là đúng quy định.
[1.3] Về phạm vi khởi kiện:
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự thì “1. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan
với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án”.
Trong vụ kiện này nguyên đơn ông Trần Công D khởi kiện đối với hai bị
đơn là Công ty T2 và Công ty T3 là hai pháp nhân độc lập, trên cơ sở hai quan
hệ lao động khác nhau, không có liên quan với nhau. Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Đức thụ lý vụ án trên cơ sở đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với hai bị
đơn độc lập trên hai quan hệ pháp luật lao động không có liên quan là không
đúng quy định về tố tụng. Tuy có vi phạm về thủ tục tố tụng nhưng không ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, nên không thuộc trường
hợp phải hủy án theo quy định tại khoản 3 Điều 308, khoản 2 Điều 310. Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Đức cần rút kinh nghiệm về việc thụ lý vụ án trong các
trường hợp tương tự nhằm đảm bảo thực hiện đúng các quy định về thủ tục tố
tụng dân sự.
13
[1.4] Về thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Tòa
án giải quyết: Đối với yêu cầu khởi kiện buộc của nguyên đơn về việc yêu cầu
Công ty T2 hoàn trả tiền lương từ kỳ lương tháng 3/2020 cho đến tháng 9/2020,
C sơ thẩm căn cứ theo Điều 201 Bộ luật Lao động 2012 xác định yêu cầu này
phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Tòa
án giải quyết, tuy nhiên các bên không thực hiện. Trong quá trình giải quyết vụ
án, ngày 14/7/2023, ông Trần Công D có đơn đề nghị hòa giải tranh chấp lao
động tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T. Cùng ngày
Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T ban hành Công văn
813/LĐTBXH, với nội dung yêu cầu hòa giải của ông D đã hết thời hiệu yêu cầu
hòa giải theo quy định. Cấp sơ thẩm xác định yêu cầu của ông D về tranh chấp
tiền lương thuộc trường hợp không thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên
lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết được do hết thời hiệu yêu cầu hòa
giải là phù hợp.
[1.5] Về yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của bị đơn Công ty T2 đối với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án giải
quyết vụ việc, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Quan hệ lao động giữa ông D với Công ty T2 và quan hệ lao động giữa ông
D với Công ty T3 là hai quan hệ độc lập. Do đó, việc xác định thời điểm bắt đầu
tính thời hiệu khởi kiện theo yêu cầu áp dụng thời hiệu căn cứ trên quá trình
giao kết, thực hiện, chấm dứt quan hệ hợp đồng lao động giữa hai bên là ông D
với Công ty T2. Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật lao động 2012, các
bên đương sự có quyền thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động. Quy định này
không bắt buộc việc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động phải lập bằng văn
bản. Theo quy định tại: khoản 6 Điều 3 Bộ luật lao động 2012 thì “quan hệ lao
động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả
lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”; khoản 1 Điều 90 Bộ
luật lao động 2012 thì “tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả
cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận”; Điều 21 Bộ luật lao
động 2012 thì người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người
sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao
kết. Nguyên đơn không chứng minh được kể từ ngày 01/3/2020 đến 30/9/2020,
khi nguyên đơn làm việc cho Công ty T3 thì nguyên đơn vẫn làm việc cho Công
ty T2. Việc ông D trình bày “từ tháng 03/2020, Công ty T2 thông báo với ông D
vì tình hình dịch bệnh covid gặp nhiều khó khăn nên thời gian Công ty sẽ thanh
toán lương chậm hơn so với thỏa thuận trong hợp đồng” nhưng không cung cấp
được tài liệu chứng minh Công ty T2 có thông báo chậm trả lương nên không
thuyết phục và không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Theo thỏa thuận tại
Điều 3 (khoản 3.1) Hợp đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV về ngày trả
lương được thực hiện ngày 5 hàng tháng, trong trường hợp ông D có làm việc
tháng 3/2020 thì ngày trả lương là ngày 05/4/2020, nếu Công ty T2 không thực
hiện trả lương đúng thời hạn thỏa thuận, khi đó quyền, lợi ích hợp pháp của ông
D mới bị xâm phạm. Khi giao kết hợp đồng lao động, người lao động đã biết và
14
phải biết quyền lợi này của mình. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 154 Bộ luật
dân sự 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có
quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, do đó thời điểm bắt đầu tính
thời hiệu đối với yêu cầu về tiền lương được xác định là ngày 06/4/2020. Cấp sơ
thẩm căn cứ theo khoản 2 Điều 202 Bộ luật Lao động 2012 xác định yêu cầu của
nguyên đơn về việc buộc Công ty T2 hoàn trả tiền lương từ kỳ lương tháng
3/2020 cho đến tháng 9/2020 đã hết thời hiệu khởi kiện là đúng quy định tại
khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.6] Theo Bản tự khai của Công ty T2 (không ghi ngày tháng của năm
2022, Công ty T2 yêu cầu áp dụng thời hiệu đối với các yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đối với Công ty T2. Cấp sơ thẩm chỉ xét áp dụng thời hiệu đối với
yêu cầu về tiền lương là có thiếu sót. Đối với yêu cầu Công ty T2 phải phải truy
đóng hoặc trả các khoản BHXH, BHYT và BHTN trong suốt thời gian Hợp
đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ BHV có hiệu lực (từ ngày 01/10/2019 đến
ngày 30/9/2020) là 12 tháng tính theo mức lương là 9.200.000 VNĐ/tháng và
mức đóng thuộc nghĩa vụ của người sử dụng lao động là 21,5%/tháng với số tiền
là: 9.200.000 VNĐ/tháng x 21,5%/tháng x 12 tháng - 23.736.000 VND, Hội
đồng xét xử nhận thấy:
Theo thỏa thuận về BHXH, BHYT, BHTN tại Điều 3 (khoản 3.1) Hợp
đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV thì: Người sử dụng lao động đóng 22%
và người lao động đóng 10,5% trên mức lương chính. Mức đồng này được thay
đổi theo quy định của Nhà nước. Theo các chứng từ thanh toán lương, sao kê
ngân hàng của người lao động thì Công ty T2 không trừ khoản tiền BHXH,
BHYT, BHTN mà người lao động phải nộp cho cơ quan BHXH khi thanh toán
tiền lương, không kê khai đăng ký BHXH tại cơ quan BHXH theo quy định.
Thời điểm người lao động phải biết quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm là ngay từ khi thanh toán tháng lương đầu tiên (tháng 10/2019) theo hợp
đồng lao động. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 154 Bộ luật dân sự 2015 xác
định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu đối với yêu cầu về truy nộp BHXH được
xác định là ngày 06/11/2019.
[1.7] Căn cứ khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “3. Thời hiệu
khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn
đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”; Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015 về các
trường hợp không áp dụng thời hiệu và quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu áp dụng thời hiệu của bị đơn Công ty T2
yêu cầu này của ông D đã hết thời hiệu khởi kiện, ông D mất quyền khởi kiện
nên xét đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty T2 phải trả khoản tiền
lương còn nợ chưa thanh toán kể từ kỳ lương tháng 3/2020 cho đến tháng
9/2020 là đúng quy định. Tuy nhiên Cấp sơ thẩm vẫn giải quyết một phần yêu
cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty T2 phải truy đóng hoặc trả các khoản
15
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp trong suốt thời gian Hợp
đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV có hiệu lực (từ ngày 01/10/2019 đến hết
tháng 02/2020) là không đúng quy định về áp dụng thời hiệu và Tòa án không
giải quyết đối với các yêu cầu nguyên đơn do nguyên đơn mất quyền khởi kiện
khi áp dụng quy định về thời hiệu. Cấp sơ thẩm cần lưu ý, áp dụng quy định về
thời hiệu là thuộc trường hợp xem xét về quy định tố tụng, nếu chấp nhận thì
Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của đương sự do đương sự mất
quyền khởi kiện. Cấp sơ thẩm không cần thiết xem xét giải quyết yêu cầu của
đương sự tại phần nhận định về nội dung của bản án sơ thẩm.
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn
Công ty T2, cần sửa án sơ thẩm ở nội dung này và đình chỉ giải quyết của
nguyên đơn về việc buộc Công ty T2 phải truy đóng hoặc trả các khoản bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp trong suốt thời gian Hợp
đồng lao động số 40/2019/HĐLĐ/BHV có hiệu lực (từ ngày 01/10/2019 đến
ngày 30/9/2020).
[2] Về các quan hệ lao động bị tranh chấp:
[2.1] Do nguyên đơn bị mất quyền khởi kiện đối với bị đơn là Công ty T2
nên Hội đồng xét xử không xem xét quan hệ lao động giữa nguyên đơn ông Trần
Công D và bị đơn Công ty T2 và các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với
bị đơn là Công ty T2.
[2.2] Về quan hệ lao động giữa nguyên đơn ông Trần Công D và bị đơn
Công ty T3, các đương sự ông Trần Công D và Công ty T3 xác nhận: Hai bên
không ký kết hợp đồng lao động; Bắt đầu thực hiện quan hệ lao động từ ngày
01/3/2020 đến ngày 20/5/2020; Ngày 21/4/2020, Công ty T3 ban hành Thông
báo số 02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt hợp đồng lao động, trong đó Công ty
thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng lao động với ông D kể từ ngày 21/5/2020, với
lý do “Theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động”. Ngày
20/5/2020, Công ty T3 ban hành Quyết định số 02/2020/QĐ/NK về việc chấm
dứt Hợp đồng lao động, trong đó Công ty T3 quyết định chấm dứt Hợp đồng lao
động với ông D kể từ ngày 21/5/2020, với lý do “Theo thông báo thỏa thuận
chấm dứt HĐLĐ với anh Trần Công D”.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn và kháng cáo của bị đơn Công ty T3 về
quan hệ lao động giữa nguyên đơn ông Trần Công D và bị đơn Công ty T3:
[3.1] Cấp sơ thẩm căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 3 Bộ luật Lao động
2012 xác định ông D làm việc tại Công ty T3, các bên không ký hợp đồng lao
động nhưng thực tế đã phát sinh quan hệ lao động là đúng quy định.
[3.2] Về hợp đồng thử việc: Các bên đương sự xác định giữa hai bên không
có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng thử việc và không có bên nào trong
quan hệ lao động tranh chấp về hợp đồng thử việc. Tuy nhiên Cấp sơ thẩm đã
chủ quan khi nhận định có cơ sở xác định giữa ông D với Công ty T3 không ký
hợp đồng thử việc nhưng thực tế các bên đã xác lập quan hệ lao động. Nhận
định này là không cần thiết.
16
[3.3] Về lý do để bị đơn Công ty T3 chấm dứt hợp đồng lao động với
nguyên đơn, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày
21/4/2020, Công ty T3 ban hành Thông báo số 02/2020/QĐ- NK ngày
21/04/2020 về việc chấm dứt hợp đồng lao động, với lý do là: “Theo thỏa thuận
giữa người sử dụng lao động và người lao động”; Ngày 20/5/2020, Công ty T3
ban hành Quyết định số 02/2020/QĐ/NK về việc chấm dứt Hợp đồng lao động,
trong đó Công ty T3 quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động với ông D kể từ
ngày 21/5/2020, với lý do “Theo thông báo thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ với anh
Trần Công D”. Bị đơn Công ty T3 không cung cấp được tài liệu chứng cứ thể
hiện giữa Công ty T3 với ông D có sự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
Nguyên đơn ông D cũng xác định giữa ông và Công ty T3 không có bất kỳ thỏa
thuận nào liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động. Đủ cơ sở xác định bị
đơn Công ty T3 đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, không
đúng với quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật lao động 2012 về các trương hợp
chấm dứt hợp đồng lao động. Trong vụ kiện này, Cấp sơ thẩm áp dụng quy định
tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012 để xác định người sử dụng lao
động đơn phương chấm dứt hợp đòng lao động trái pháp luật là chưa chính xác.
[3.4] Cấp sơ thẩm xác định việc Công ty T3 ban hành Quyết định số
02/2020/QĐ/NK là không đúng quy định của pháp luật là có căn cứ. Tuy nhiên
Cấp sơ thẩm tuyên hủy Quyết định số 02/2020/QĐ/NK ngày 20/5/2020 về việc
chấm dứt hợp đồng lao đông đối với ông Trần Công D trong khi nguyên đơn
không có yêu cầu khởi kiện là không đúng quy định. Căn cứ quy định tại khoản
1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện của đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng cần sửa án sơ thẩm ở
nội dung này, không tuyên hủy Quyết định số 02/2020/QĐ/NK ngày 20/5/2020
về việc chấm dứt hợp đồng lao đông đối với ông Trần Công D.
[3.5] Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 16 Bộ luật lao động 2012 thì hợp
đồng lao động phải được lập thành văn bản. Các bên tham gia quan hệ lao động
không thực hiện đúng quy định tại Điều 18 Bộ luật lao động 2012 về nghĩa vụ
giao kết hợp đồng lao động. Do hai bên không có giao kết hợp đồng lao động để
làm căn cứ xác định thời hạn hợp đồng, cũng như loại hợp đồng có thời hạn hay
hợp đồng không có thời hạn. Việc không giao kết hợp đồng lao động theo đúng
quy định là lỗi của cả hai bên. Căn cứ việc hai bên xác lập quan hệ lao động lần
đầu tiên, tính chất công việc được các bên thỏa thuận trong quan hệ lao động, do
đó Cấp sơ thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012
xác định hợp đồng lao động giữa ông D với Công ty T3 là hợp đồng xác định
thời hạn 12 tháng là đúng quy định. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn của hợp
đồng lao động tính từ ngày 01/3/2020 đến ngày 01/03/2021 là phù hợp. Bị đơn
cho rằng đây là hợp đồng lao động không xác định thời hạn là không có căn cứ.
[3.6] Về xử lý hậu quả do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật:
- Do xác định Hợp đồng lao động giữa ông D với Công ty T3 đã chấm dứt
kể từ ngày 01/3/2021, trước thời điểm xét xử sơ thẩm nên Cấp sơ thẩm xác định
17
Công ty T3 không phải nhận ông D trở lại làm việc là phù hợp. Cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty T3 phải nhận ông D trở
lại làm việc theo công việc lúc Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật là đúng quy định.
- Đối với việc phải trả lương trong những ngày người lao động không được
làm việc, xét: Cấp sơ thẩm xác định mức lương ông D được thực nhận là
10.000.000 đồng/tháng là đúng với sự thừa nhận và các thực tiễn thanh toán tiền
lương giữa hai bên, ông D đã nhận lương đến 21/5/2020. Cấp sơ thẩm xác định
Công ty T3 còn phải trả lương cho ông Danh từ ngày 22/5/2020 đến 01/3/2021
là 9 tháng 9 ngày trên mức lương 10.000.000 đồng, cụ thể: (9 tháng 9 ngày x
10.000.000 đồng) = 93.000.000 đồng là đúng quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ
luật lao động 2012.
- Do xác định Hợp đồng lao động giữa nguyên đơn và bị đơn Công ty T3 là
loại hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng, Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn Công ty T3 phải trả số tiền lương trong
những ngày không được làm việc từ 01/5/2021 đến 28/9/2023 là (400.000.000 -
93.000.000 ) = 307.000.000 đồng là có căn cứ.
- Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty T3
còn phải bồi thường cho ông D 2 tháng tiền lương là 20.0000.000 đồng là đúng
quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012.
- Tổng cộng số tiền Công ty T3 phải trả cho ông D là 113.000.000 đồng.
- Cấp sơ thẩm xử buộc ông Trần Công D và Công ty T3 cùng có nghĩa vụ
thực hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp theo quy
định cho ông D tại cơ quan Bảo hiểm xã hội có thẩm quyền; mức lương đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp 10.000.000 (mười triệu)
đồng; thời gian đóng từ ngày 01/05/2020 đến ngày 30/4/2021 là đúng quy định
về bảo hiểm xã hội.
[4] Về án phí lao động sơ thẩm: Cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn không
phải chịu án phí lao động sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận, bị đơn
phải chịu án phí lao động sơ thẩm đối với yêu cầu nguyên đơn được chấp nhận
là đúng với quy định tại
[5] Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, chấp nhận một phần kháng cáo của
đương sự, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[6] Về án phí lao động phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu án
phí lao động phúc thẩm do sửa án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
18
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015;
- Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Công D, một
phần kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần T2 và một phần kháng cáo của bị
đơn Công ty Cổ phần T3, sửa bản án lao động sơ thẩm số 4017/2023/LĐ-ST
ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 184, Điều 185, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 16, Điều 18, điểm b khoản 1 Điều 22,
khoản 3 Điều 36, Điều 38, Điều 41, khoản 1 Điều 42, Điều 201 và Điều 202 Bộ
luật lao động 2012; khoản 3 Điều 150, Điều 155, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015;
Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án; Luật Thi hành án dân sự;
Xử:
1. Đình chỉ yêu cầu của ông Trần Công D về việc:
- Buộc Công ty Cổ phần T2 phải trả khoản tiền lương còn nợ chưa thanh
toán kể từ kỷ lương tháng 3/2020 cho đến tháng 9/2020 (khi Hợp đồng lao động
số 40/2019/HDLD/BHV hết hạn) là 07 tháng tính theo mức lương của tháng 02
năm 2020 là 9.200.000 đồng/tháng, với số tiền là: 9.200.000 x 7 tháng =
64.400.000 (sáu mươi bốn triệu bốn trăm nghìn) đồng;
- Buộc Công ty Cổ phần T2 có nghĩa vụ thực hiện đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp theo quy định cho ông D tại Cơ quan Bảo
hiểm xã hội có thẩm quyền, thời gian từ ngày 01/10/2019 đến hết tháng 02/2020.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Công
D:
- Buộc Công ty Cổ phần T3 trả cho ông Trần Công D số tiền 113.000.000
(một trăm mười ba triệu) đồng, bao gồm: Tiền lương trong những ngày ông D
không làm việc là 93.000.000 (chín mươi ba triệu đồng) và bồi thường cho ông
D 02 tháng tiền lương là 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng. Thanh toán làm một
lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Ông Trần Công D và Công ty Cổ phần T3 cùng có nghĩa vụ thực hiện
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp theo quy định cho
ông Trần Công D tại Cơ quan Bảo hiểm xã hội có thẩm quyền theo mức lương
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp 10.000.000 (mười
triệu) đồng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất
nghiệp từ ngày 01/03/2020 đến ngày 01/03/2021.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Công D về việc:
19
- Buộc Công ty Cổ phần T3 phải nhận ông Trần Công D trở lại làm việc
theo công việc lúc Công ty Cổ phần T3 đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật.
- Buộc Công ty Cổ phần T3 thanh toán tiền lương trong những ngày không
được làm việc từ ngày 01/5/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2023 là số tiền
307.000.000 đồng.
4. Về án phí lao động sơ thẩm: Ông Trần Công D không phải chịu án phí
sơ thẩm do được miễn án phí, Công ty Cổ phần T3 phải chịu là 3.996.780 (ba
triệu chín trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm tám mươi) đồng.
5. Án phí lao động phúc thẩm: nguyên đơn ông Trần Công D và các bị đơn
Công ty Cổ phần T2 và Công ty Cổ phần T3 không phải chịu án phí lao động
phúc thẩm. H2 lại cho Công ty Cổ phần T2 số tiền 300.000 đồng đã tạm nộp
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2023/0005815 ngày 18/10/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức. H2 lại cho Công ty Cổ phần T3
số tiền 300.000 đồng đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
AA/2023/0005814 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp.HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Tp.HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân Tp.HCM;
- Tòa án nhân dân TP Thủ Đức, TPHCM;
- Cục Thi hành án dân sự TPHCM;
- Chi cục Thi hành án dân sự TP Thủ Đức,
TPHCM;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Tài
20
Tải về
Bản án số 41/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 41/2024/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm