Bản án số 01/2024/LĐ-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2024/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 01/2024/LĐ-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 01/2024/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/06/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Anh K - Công ty cổ phần LTVP
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 01/2024/DS-PT
Ngày 28 tháng 6 năm 2024
“V/v Tranh chấp bồi thường thiệt hại,
trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Nguyễn Thị Thu Hà
Các Thẩm phán: Ông Vũ Văn Mạnh và bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư phiên toà: Trần Thị Thu Hương - Thư Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên toà:
Bà Cao Thị Thanh Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử công khai vụ án lao động phúc thẩm thụ số 01/2024/TLPT- ngày 19
tháng 02 năm 2024.
Do Bản án lao động thẩm số 01/2023/-ST ngày 06 tháng 10 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2024/QĐ-PT ngày
15 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Anh K, sinh năm 1973, (Có mặt).
Địa chỉ: Khu 5, phường MN, thành phố VT, tỉnh PT
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần LTVP .
Địa chỉ trụ sở: Đường Ngô Quyền, phường Đ, thành phố VY, tỉnh VP.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1959; địa chỉ: Số
nhà 26, đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường HH, thành phố VY, tỉnh VP và ông
Dương Văn C1, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn Nha, CH, huyện VT, tỉnh VP
đại diện theo uỷ quyền (Văn bản uỷ quyền ngày 01/4/2024 của người đại diện theo
pháp luật của Công ty là ông Nguyễn Thành C2Chức vụ: Giám đốc), (Có mặt).
3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Anh K là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 3 năm 2021 quá trình tố tụng,
nguyên đơn ông Nguyễn Anh K trình bày:
Giữa ông Công ty Cổ phần LTVP (Viết tắt : Công ty) hợp đồng
lao động không xác định thời hạn số 110/HĐLĐ ngày 04/12/2007. Theo hợp
đồng, ông được bố trí làm việc tại phòng Kinh doanh từ ngày 04/12/2007 với hệ
số lương là 2,34. Đến ngày 30/11/2015, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Kế toán
trưởng, hưởng mức lương theo hệ số 4,99. Ngày 09/7/2016, ông gặp tai nạn bị
gãy chân, tay nên phải nghỉ việc Công ty đến tháng 11 năm 2016 mới đi làm
trở lại. Trong thời gian đó, sngày công thể hiện ông đến Công ty làm việc
và số ngày nghỉ cụ thể từng tháng như sau:
Tháng 7 năm 2016: Ông đi làm 08 ngày ng, thực nhận ơng 1.937.000
đồng. Khi nghỉ ông giấy xác nhận của bác sỹ chỉ định báo cho ông Triệu
Đức H Trưởng phòng Tchức Hành chính biết. Thời gian nghỉ ốm, ông
được Công ty tổ chức đi thăm.
Tháng 8 năm 2016: Ông không đi làm nên không được trả lương. Thời
điểm này ông cũng làm đơn xin nghỉ trình bày vì lý do bị tại nạn. Trong khi nghỉ
ông vẫn điều hành công việc của mình từ xa bằng điện thoại.
Tháng 9 10 năm 2016: Ông không đi làm nên không được trả lương.
Tháng 11 12 năm 2016: Ông đã đi làm trở lại đạt đủ ngày công nên
nhận đủ lương là 6.040.000 đồng.
Tương tự, các tháng 01, 02 năm 2017: Ông đều đi làm đủ đều được trả
lương.
Tngày 01 đến 15/3/2017, ông đi làm nhưng không chấm công, sau đó
cũng không nhận lương nên không theo dõi cụ thể.
Sau khi đi làm trở lại ông thấy ông Nguyễn Văn C đã cho người phá tủ lấy
hết tài liệu, sổ sách kế toán của ông không cho ông được làm việc. Đặc biệt,
ông C còn chỉ đạo nhân viên Công ty không cung cấp các chứng từ, tài liệu cho
ông để làm. thế các chứng từ kế toán từ tháng 7 năm 2016 trở đi ông
không được xác nhận. Tại các cuộc họp của Công ty, ông C luôn dùng lời lẽ
ép buộc để ông nghỉ việc. Đỉnh điểm mâu thuẫn o dịp giáp Tết nguyên đán
năm 2017, con ông C anh Nguyễn Thành C2 (khi đó cổ đông của Công ty)
đã đến phòng làm việc của ông ép ông phải nghỉ việc. bị chèn ép dẫn đến bức
xúc nên ngày 15/3/2017 ông tiếp tục nộp đơn xin tạm nghỉ trong thời gian 03
tháng cho Trưởng phòng T chức Hành chính của Công ty rồi nghỉ luôn nên
không biết Công ty có đồng ý cho ông nghỉ hay không và sự việc sau đó như thế
nào. Sau này khi quay trlại Công ty ông được biết ông Nguyễn Văn C giám
đốc Công ty đã Quyết định số 12/QĐ-LTVP ngày 27/3/2017 để miễn nhiệm
3
chức vụ kế toán trưởng hạ bậc lương của ông từ 5.739.000 đồng xuống còn
3.552.000 đồng kể từ ngày 01/4/2017. Đến tháng 4 năm 2018, thì Công ty đã
ngừng đóng bảo hiểm không thông báo gì cho ông biết. Ông đã đề nghị với
ông T - Pgiám đốc; ông C - Giám đốc Công ty ng như những người khác
trong Ban lãnh đạo phải bố trí công việc để ông đi làm trở lại lấy thu nhập trả
dần số tiền đã tạm ứng 250.000.000 đồng nhưng không được ai đồng ý. Tài liệu
để chứng minh ông không được làm việc các chứng từ bảng chấm công
của Công ty đều không chữ của ông; ngoài ra ông không tài liệu nào
khác về việc bị ép phải nghỉ việc.
Công ty đã cách chức, hạ bậc lương chấm dứt hợp đồng lao động
không thông báo cho ông biết vi phạm pháp luật lao động, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng quyền lợi của ông. Vì vậy ông khởi kiện yêu cầu Tòa án:
+ Buộc Công ty bồi thường cho ông 1.054.239.900 đồng (Một tỷ không
trăm năm mươi triệu hai trăm ba mươi chín nghìn chín trăm đồng), gồm các
khoản:
Tiền lương: 78 tháng = 4.99 x 1.800.000 đồng/tháng = 700.596.000 đồng.
Tiền bảo hiểm hội: Bổ sung khoản chênh lệch tiền lương từ 3.522.000
đồng so với 5.739.000 đồng 2.217.000 đồng/tháng, cụ thể: Khoản 1, 12
tháng, từ tháng 4/2017 đến tháng 3/2018: 12 x 2.217.000 đồng = 5.719.900đ;
khoản 2 từ tháng 4 năm 2018 đến tháng 9 năm 2023 66 tháng = 66 x 4,99 x
1.800.000 đồng x 21,5 % = 127.454.600đ. Tổng là: 133.174.500đ.
Các khoản thu nhập khác 148.613.400 đồng, gồm: Phụ cấp các khoản
thu nhập bị mất: 78 tháng x 4,99 x 1.800.000 đồng = 58.383.000 đồng; tổn thất
tinh thần cho những ngày không được đi làm 1 tháng lương/năm, theo quy
định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động = 78 x 1.800.000 đồng x 4.99 =
58.383.000 đồng; Bị mất chế độ nghphép: 12 ngày/năm, hưởng 100 % lương
được quy định tại điểm a khoản 1, 3 Điều 113 Bộ luật Lao động: 31.847.400đ;
Tiền trợ cấp thôi việc: 71.856.000 đồng.
+ Buộc Công ty phải bố trí việc làm theo đúng chức danh chuyên môn
nghiệp vụ, phục hồi lương theo chức danh Kế toán trưởng trả Sổ bảo hiểm xã
hội cho ông.
Tại phiên tòa thẩm, ông K rút một phần yêu cầu khởi kiện, không đề
nghị Toà án buộc Công ty phải bố trí việc m theo đúng chức danh chuyên môn
nghiệp vụ, phục hồi lương theo chức danh kế toán trưởng trả sổ bảo hiểm
hội cho ông.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty Cổ phần LTVP trình bày:
4
Việc kết hợp đồng lao động bổ nhiệm chức vụ Kế toán trưởng như
ông K trình bày là đúng. Nhưng trong quá trình làm việc, ông K đã vi phạm hợp
đồng tự ý nghỉ việc không được Công ty cho phép. Qua theo dõi bảng
chấm công thì ông K đã vi phạm như sau: Tháng 01/2015, đi làm 24 ng vi
phạm 02 ngày công; tháng 03/2015, đi làm 22 công vi phạm 03 ngày công;
tháng 06/2015, đi làm 23 công vi phạm 03 ngày công; tháng 08/2015, đi làm 21
công vi phạm 05 ngày công; tháng 09/2015, đi làm 24 công vi phạm 02 ngày
công; tháng 01/2016, đi làm 23 công vi phạm 02 ngày công; tháng 03/2016, đi
làm 25 công vi phạm 03 ngày công; tháng 04/2016, đi làm 23 công vi phạm 03
ngày công; tháng 05/2016, đi làm 24 công vi phạm 02 ngày công; tháng
06/2016, đi làm 22 công vi phạm 04 ngày công; tháng 7 năm 2016: Ông K đi
làm 8 ngày; tháng 8, 9, 10 năm 2016: Ông K không đi làm; tháng 11 năm 2016:
Ông K đi làm 16 ngày; tháng 12 năm 2016: Ông K đi làm 15 ngày; tháng 01
năm 2017: Ông K đi làm 16 ngày; tháng 02 năm 2017: Ông K đi làm 11 ngày,
nghỉ 11 ngày công; tngày 02/3/2017 đến ngày 15/3/2017, ông K tự ý nghỉ việc
không có lý do.
Như ông K đã trình bày thì thời điểm ông K phải nghỉ việc bị tai nạn
đúng, Công ty cũng được biết tổ chức đi thăm, với do nghỉ này Công ty
xác định chính đáng. Nhưng những lần khác ông K cố tình nghỉ việc
thái độ không hợp tác với Ban giám đốc công ty, cũng như không có thiện chí
làm công c chuyên môn. Minh chứng những lần nghviệc sau này, ông K
chỉ viết đơn gửi đến Trưởng phòng Tchức Hành chính như một thông báo
cho Công ty được biết không cần lãnh đạo đồng ý hay không. Trong khi
ông K Kế toán trưởng nắm giữ vai trò quan trọng trong công việc nên việc
báo cáo trực tiếp với Giám đốc hoặc Ban lãnh đạo để nghỉ và phối hợp công tác
không gặp khó khăn trở ngại gì nhưng ông K lại không hỏi ý kiến trước.
Đến ngày 15/3/2017, Phòng Tchức Hành chính báo cáo tới Ban giam
đốc của Công ty về việc ông K tiếp tục có đơn xin nghỉ với nội dung: “...do nhà
xa, sức khỏe chưa bình phục hẳn nên việc đi lại, thực hiện nhiệm vụ hết sức khó
khăn. Mặc đã cố gắng nhưng với tình trạng sức khỏe hiện nay tôi thấy mình
không đáp ứng được công việc. Ngoài ra hiện nay Công ty cũng rất khó khăn,
cán bộ công nhân không việc làm. Do đó, để thuận lợi cho cả Công ty
người lao động trước mắt tôi xin tạm nghỉ 03 tháng để đi giám định y khoa
điều trị phục hồi sức khỏe. Sau khi điều trị nếu sức khỏe tố đáp ứng được công
việc thì tôi xin trở lại làm việc, nếu không thì tôi sẽ xin nghỉ, chuyển công tác
hoặc tìm một công việc khác phù hợp với sức khỏe của mình...”. Trong khi thời
gian này Công ty đang bị Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra sổ sách tài chính
và các chứng từ kế toán, ông K biết nhưng không hợp tác thực hiện nhiệm vụ
ngược lại còn thể hiện thái độ trốn tránh trách nhiệm công việc. Do đó,
5
Hội đồng quản trị của Công ty đã tiến hành họp, biểu quyết ban hành Quyết
định số 12/-LTVP ngày 27/3/2017 về việc miễn nhiệm chức danh Kế toán
trưởng của ông K. Mục đích là để kịp thời bố trí nhân sự thực hiện nhiệm vụ cấp
bách của Công ty cũng như để bố trí một công việc mới cho ông K theo hợp
đồng lao động đã ký. Ông K cho rằng trong giai đoạn tháng 11/2016, ông vẫn đi
làm bình thường nhưng Công ty không giao việc không đúng. trong giai
đoạn này, Công ty vẫn giao công việc cho ông K bình thường ông K vẫn ch
đạo các kế toán khác làm việc được trả lương theo quy định. Điều này cũng
đã được thể hiện rõ trong biên bản họp của Công ty.
Mặt khác, trong quá trình làm việc ông K còn một số vi phạm như: Vi
phạm Điều 2 Hợp đồng lao động, về thời gian làm việc 48h/tuần, chỉ được
nghỉ việc vào ngày Chủ nhật và những ngày nghỉ do Bộ luật Lao động quy định;
vi phạm điều 4 Nội quy lao động của Công ty: Quy định về thời giờ làm việc; vi
phạm Điều 11 của Thỏa ước lao động tập thể năm 2014 quy định về thời giờ làm
việc bình thường. Ngoài 3 vi phạm nói trên ông K còn vi phạm về nghiệp vụ
tài chính kế toán như: Vi phạm do lập khống biên bản kiểm quỹ thời điểm 0h
ngày 01 tháng 01 năm 2016 (Biên bản đề năm 2016, không ghi ngày tháng):
do khống bởi thực tế Công ty không khoản tiền mặt tồn 2.168.608.577 đồng
lập không biến bản kiểm quỹ tiền mặt đề ngày 31/12/2015 bởi theo sổ quỹ
tiền mặt quý 4 năm 2015 thực tồn 2.168.608.577 đồng không phải
114.505.000 đồng. Lập xác nhận công nợ của Chi nhánh LT không đúng: số
nợ phát sinh 957.653.901 đồng nhưng ông K chỉ xác định công nợ
538.791.824 đồng còn thiếu 418.862.887 đồng. Ngày 31/7/2015, Đỗ Thị
Xuân H (Thủ quỹ) đã tự động ứng tiền cho ông K 203.000.000 đồng không
được giám đốc duyệt (Nhưng lại phiếu chi tiền 250.000.000 đồng cho ông K
chữ của ông Nguyễn Văn C duyệt chi). Ngày 25/6/2016, Đỗ Thị
Xuân H (Thủ quỹ) đã tự động ứng tiền cho ông K 250.000.000 đồng không
được giám đốc duyệt. Như vậy, giữa ông K (Kế toán) H (Thủ quỹ) đã
thông đồng lấy tiền mặt của Công ty để chi tiêu nhân, vi phạm Điều 47 của
Điều lệ công ty; ngày 01/7/2016, ông K đã bán cổ phiếu của ông K cho ông
Nguyễn Hữu Ngọ thu được 57.300.000 đồng nhưng không trả tiền cho Công ty;
Lập sai 02 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2010 vì bình thường quy
định chỉ được phép lập 01 báo cáo.
Từ những căn cứ trên, Công ty cho rằng yêu cầu khởi kiện của ông K là vô
căn cứ, vì: Theo hợp đồng thì ông K vào Công ty làm việc tại Phòng Kinh
doanh, thực hiện công việc theo sự phân công của Trưởng phòng. Sau này, Công
ty căn cứ yêu cầu công việc, trình độ chuyên môn của ông K nên đã cân nhắc để
bổ nhiệm chức Kế toán trưởng cho ông K không phải theo hợp đồng bắt
buộc ông K phải Kế toán trưởng. Đến khi xét theo tình hình thực tế yêu
6
cầu công việc cũng như khả năng trình độ của ông K, Công ty đã miễn nhiệm
chức vụ Kế toán trưởng để bố trí công việc khác phù hợp theo như hợp đồng đã
. Như vậy, Công ty không việc chấm dứt hợp đồng lao động, không vi
phạm hợp đồng lao động như ông K nêu trong đơn khởi kiện. Do đó Công ty
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông K đưa ra.
Với nội dung như trên, tại Bản án lao động thẩm số 01/2023/ DS-ST
ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố VY, tỉnh VP, đã
quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39;
khon 3 Điu 144, khon 1 Điu 146, khon 1 Điu 147, Điu 217, Điu 227,
Điu 266, Điu 271, Điu 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; c điều 22, 38, 41,
42, 48, 123, 124, khon 1 Điu 201, khon 2 Điu 202 Bộ luật Lao động 2012;
Điu 12, Điu 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định vmức thu, miễm, gim, thu, nộp, qun
lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Anh K đối
với Công ty Cổ phần LTVP về việc bồi thường khoản tiền lương 78 tháng =
4.99 x 1.800.000 đồng/tháng = 700.596.000 đồng; tiền bảo hiểm hội tổng
133.174.500 đồng, gồm: Khoản 1 (12 tháng từ tháng 4/2017 đến tháng 3/2018):
12 x 2.217.000 đồng = 5.719.900 đồng; khoản 2 từ tháng 4/2018 đến 9/2023
66 tháng = 66 x 4,99 x 1.800.000 đồng x 21,5 % = 127.454.600 đồng. Các
khoản thu nhập khác 148.613.400 đồng gồm: Phụ cấp các khoản thu nhập
bị mất: 78 tháng x 4,99 x 1.800.000 đồng = 58.383.000 đồng; tổn thất tinh thần
cho những ngày không được đi làm 1 tháng lương/năm, theo quy định tại
khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động = 78 x 1.800.000 đồng x 4.99 = 58.383.000
đồng; Bị mất chế độ nghỉ phép: 12 ngày/năm, hưởng 100 % lương được quy
định tại điểm a khoản 1, 3 Điều 113 Bộ luật Lao động 31.847.400 đồng; tiền trợ
cấp thôi việc: 71.856.000 đồng; tổng cộng là 1.054.239.900 đồng (Một tỷ không
trăm năm mươi tư triệu hai trăm ba mươi chín nghìn chín trăm đồng).
Đình chỉ đối với yêu cầu buộc Công ty bố trí việc làm theo đúng chức
danh, chuyên môn nghiệp vụ và trả sổ bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo cho các đương
sự.
Ngày 12 tháng 10 năm 2023, nguyên đơn ông Nguyễn Anh K đơn
kháng cáo, nội dung: Không đồng ý với bản án thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm
huỷ bản án thẩm do vi phạm nghiêm trọng trong xác định thu thập, đánh
giá chứng cứ; vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật lao động để
bác đơn khởi kiện.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên nội dung khởi kiện, nội
dung kháng cáo. Các đương sự không thoả thuận được với nhau về nội dung vụ
án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh VP phát biểu quan điểm khẳng định
trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm Thẩm phán,
Thư Tòa án Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng
theo quy định; các đương sự đều chấp hành đúng quy định của pháp luật. Kiểm
sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án lao động
thẩm số số 01/2023/LĐ-ST ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân
thành phố VY, tỉnh VP.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Anh K làm đúng quy
định tại Điều 271, Điều 272 khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên
được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Nguyên đơn ông Nguyễn Anh K khởi kiện yêu cầu bị đơn ng ty Cổ phần
LTVP (Viết tắt Công ty) phải bồi thường tiền lương, tiền bảo hiểm hội
các khoản thu nhập khác do bị chấm dứt hợp đồng lao động cho nguyên đơn với
tổng số tiền 1.054.239.900 đồng; yêu cầu bđơn phải bố trí việc làm theo đúng
chức danh chuyên môn nghiệp vụ, phục hồi lương theo chức danh Kế toán
trưởng trả sổ bảo hiểm hội cho nguyên đơn. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều
32, điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố
VY thụ lý giải quyết vụ án và xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về bồi
thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồnglà có căn cứ.
Tại phiên toà thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
yêu cầu bị đơn phải bố trí việc làm theo đúng chức danh chuyên môn nghiệp vụ,
phục hồi lương theo chức danh kế toán trưởng trả sổ bảo hiểm hội cho
nguyên đơn. Toà án cấpthẩm đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút của
nguyên đơn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, khi Quyết định cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 244
áp dụng Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự áp dụng chưa đúng điều luật, nhưng
thiếu sót này chưa làm ảnh ởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự
nên cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh về áp dụng Điều luật khi quyết định, Toà án
cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
8
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Đến trước khi Hội đồng xét xử thẩm nghị
án, không đương sự nào đề nghị áp dụng thời hiệu nên Toà án cấp thẩm
đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định.
[2] ] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn đề nghị huỷ bản án thẩm,
Hội đồng xét xử xem xét toàn bộ nội dung vụ án, thấy rằng:
[2.1] Ngày 04/12/2007, ng ty với ông Nguyễn Anh K ký kết Hợp đồng
lao động số 110, thể hiện nội dung: Ông K đến làm việc tại Phòng kinh doanh
Công ty từ ngày 04/12/2007. Công viêc cụ thể do ông Trưởng phòng phân
công;… tiền lương của ông K được trả theo thời gian và được trả hàng tháng vào
ngày cuối tháng với hệ số lương 2,34.
Ngày 30/11/2015, Giám đốc Công ty ban hành Quyết định số 18L/TCHC-
về việc bổ nhiệm cán bộ, theo đó ông Nguyễn Anh K được bổ nhiệm giữ chức
vụ Kế toán trưởng từ ngày 01/12/2015; ông K được hưởng lương hệ số: 4,99.
Ngày 09/7/2016, ông K bị tai nạn giao thông và vào điều trị tại Bệnh viện
Đa khoa tỉnh PT từ ngày 09/7/2016 đến ngày 21/7/2016 thì ra viện.
Ngày 01/8/2016, ông K có đơn gửi Giám đốc Công ty, với nội dung: Hiện
nay tôi đang phải điều trị theo chỉ định của bác sỹ. Vì tình trạng thương tật nặng
nên theo tiên lượng của bác sỹ thì tôi phải điều trị ít nhất ba tháng trở lên mới có
khả năng bình phục... Vậy tôi làm giấy này báo cáo để Giám đốc biết và tạo điều
kiện giúp đỡ.
Sau khi ông K bị tai nạn, Công ty đã bổ nhiệm Kiều ThV giữ chức
Quyền Kế toán Trưởng; sau bổ nhiệm Trịnh Thị H - Phụ trách phòng Kế
toán.
Ngày 15/3/2017, ông K có đơn xin tạm nghỉ việc để điều trị bệnh với thời
gian 03 tháng. Cùng ngày15/3/2017, Hội đồng quản trị Công ty họp, với nội
dung: Căn cứ vào năng lực trình độ, sức khỏe hạn của cán bộ, xét đề
nghị của Giám đốc công ty, Hội đồng quản trị thống nhất miễn nhiệm chức vụ
Kế toán trưởng Công đối với ông Nguyễn Anh K, kể từ ngày 01 tháng 04 năm
2017. Hội đồng quản trị giao Giám đốc ng ty ra quyết định miễn nhiệm.
Ngày 27/3/2017, Giám đốc Công ty ban hành Quyết định số 12/QĐ-
LTVP về việc miễn nhiệm chức vụ Kế toán trưởng đối với ông Nguyễn Anh K
kể từ ngày 01/4/2017. Ông Nguyễn Anh K nhận nhiệm vụ mới từ ngày
01/4/2017.
Kể từ ngày 01/4/2017 đến nay ông Nguyễn Anh K không làm việc tại
Công ty.
[2.2] Nguyên đơn ông Nguyễn Anh K khởi kiện cho rằng từ tháng
11/2016 nguyên đơn không được bố trí việc làm, không được cung cấp các
chứng từ để nguyên đơn thực hiện công việc chuyên môn, bị Giám đốc Công ty
yêu cầu phải nghỉ việc. Công ty đã cách chức, hạ bậc lương chấm dứt hợp
đồng lao động không thông báo cho nguyên đơn biết vi phạm pháp luật
lao động, làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền lợi của nguyên đơn; đồng thời
9
kháng cáo cho rằng Công ty đã vi phạm quy định về việc thông báo điều chuyển
người lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Bộ luật Lao động, vi phạm v
việc giữ lương theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Lao động năm
2019, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Căn cứ vào Hợp đồng lao động được ký kết giữa nguyên đơn với Công ty,
thì thời gian làm việc của nguyên đơn 48 giờ/tuần, được nghỉ việc o ngày
Chủ nhật các ngày nghỉ do Bộ luật Lao động quy đnh; nghĩa vụ chấp
hành tốt những nội quy, quy định về kỷ luật lao động. Tại phiên toà phúc thẩm,
nguyên đơn thừa nhận trong thời gian từ khi bị tại nạn giao thông ngày
09/7/2016 đến nay thì nguyên đơn 02 lần làm đơn xin nghỉ đó ngày
01/8/2016 xin nghỉ 03 tháng đề điều trị bệnh (tức từ ngày 01/8/2016
31/10/2016) ngày 15/3/2017 xin nghỉ tiếp 03 tháng, còn lại nguyên đơn
không làm đơn xin nghỉ chỉ thông báo xin nghỉ, đồng thời cũng không trực
tiếp đề xuất với Giám đốc Công ty xin nghỉ.
Nguyên đơn cho rằng, Công ty không bố tviệc làm cho mình từ tháng
11 năm 2016, nhưng nguyên đơn lại thừa nhận sau khi nghỉ việc điều trị thì
tháng 11 12 năm 2016, nguyên đơn đã đi làm trở lại và đạt đủ ngày công nên
được nhận đủ lương 6.040.000 đồng. ơng tự, c tháng 01, 02 năm 2017,
nguyên đơn đều đi làm đủ đều được trả lương; tngày 01 đến 15/3/2017,
nguyên đi làm nhưng không chấm công, sau đó cũng không nhận lương nên
không theo dõi cụ thể. Nguyên đơn cho rằng Công ty đã không cung cấp tài liệu,
sổ sách cho nguyên đơn làm công việc chuyên môn, thậm trí còn bị ép nghỉ việc
nhưng lại không tài liệu chứng cứ nào để chứng minh cho những nội dung
này. Mặt khác, căn cứ vào bảng chấm công của Công ty cung cấp thể hiện:
Tháng 11 năm 2016, nguyên đơn đi làm 16 ngày (thiếu 10 ngày so với Hp
đồng lao động); tháng 12 năm 2016, nguyên đơn đi làm 15 ngày (thiếu 11 ngày
so với Hợp đồng lao động); tháng 01 năm 2017, nguyên đơn đi làm 16 ngày
(thiếu 08 ngày so với Hợp đồng lao động); tháng 2 năm 2017, nguyên đơn đi
làm 11 ngày (thiếu 11 ngày so với Hợp đồng lao động) và tháng 03 năm 2017
tính đến ngày nguyên đơn có đơn xin tạm nghỉ việc 03 tháng thì nguyên đơn chỉ
đi làm 0,5 ngày đều không đủ thời gian làm việc theo Hợp đồng lao động đã
kết giữa nguyên đơn với Công ty ngay 04/12/2007. Nvậy, căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ nêu trên thể hiện nguyên đơn đã vi phạm về nghĩa vụ của
người lao động quy định tại Điều 2, Điều 3 của Hợp đồng lao động; Điều 4
Điều 6 Nội quy Lao động của Công ty; khoản 2 Điều 5 của Luật Doanh nghiệp
năm 2014.
Trong thời gian nguyên đơn nghỉ việc theo đơn xin nghỉ ngày 01/8/2016,
để bảo đảm cho hoạt động của Công ty, Hội đồng quản trCông ty đã họp và bổ
nhiệm Kiều Thị Ánh V giữ chức vụ Quyền Kế toán trưởng theo Quyết định
số 98 ngày 23/8/2016 để thực hiện công việc của Công ty, sau đó bổ nhiệm
Trịnh Thị H - Phó phòng kế toán Phụ trách phòng Kế toán để thực hiện công
việc của Công ty theo Quyết định số 68 ngày 30/10/2016.
10
Ngày 15/3/2017, nguyên đơn tiếp tục đơn xin tạm nghỉ việc 03 tháng
để điều trị bệnh, nội dung thể hiện: Năm 2016 tôi bị tai nạn giao thông, sau
khi điều trị 4 tháng tôi đã trở lại làm việc. Nhưng do nhà xa, sức khỏe chưa
bình phục hẳn nên việc đi lại, thực hiện nhiệm vụ hết sức khó khăn. Mặc dù đã
cố gắng nhưng với tình trạng sức khỏe hiện nay tôi thấy mình không đáp ứng
được công việc. Ngoài ra, hiện nay Công ty cũng rất khó khó khăn, cán bộ
công nhân viên không việc làm. Do đó, để thuận lợi cho cả Công ty
người lao động trước mắt tôi xin tạm nghỉ 03 tháng để đi giám định y khoa
điều trị phục hồi sức khỏe. Sau khi điều trị nếu sức khỏe tốt đáp ứng được
công việc thì tôi xin trở lại làm việc, nếu không thì tôi sẽ xin nghỉ, chuyển
công tác hoặc tìm một công việc khác phù hợp với sức khỏe của mình. Do
đó, cùng ngày15/3/2017, Hội đồng quản trị Công ty họp, nội dung: Căn cứ vào
năng lực trình độ, sức khỏe hạn của cán bộ, xét đề nghị của Giám đốc
công ty, Hội đồng quản trị thống nhất miễn nhiệm chức vụ Kế toán trưởng
Công ty đối với ông Nguyễn Anh K, kể từ ngày 01 tháng 04 năm 2017. Hội
đồng quản trị giao Giám đốc Công ty ra quyết định miễn nhiệm.
Ngày 27/3/2017, Giám đốc Công ty ban hành Quyết định số 12/QĐ-
LTVP về việc miễn nhiệm chức vụ Kế toán trưởng đối với ông Nguyễn Anh K
kể từ ngày 01/4/2017. Ông Nguyễn Anh K nhận nhiệm vụ mới từ ngày
01/4/2017.
Như vậy, căn cứ tình hình hoạt động, năng lực, trình độ sức khỏe của
ông Nguyễn Anh K, Công ty đã tiến hành làm các thủ tục và ra Quyết định miễn
nhiệm chức vụ Kế toán trưởng đối với ông K (đây không phải là hình thức xử
kỷ luật lao động theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2012 nay
Điều 124 Bộ luật Lao động năm 2019 như nguyên đơn trình bày) có căn cứ
theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 149, điểm d khoản 3 Điều 157 của Luật
Doanh nghiệp năm 2014; điểm n khoản 2 Điều 35, điểm d khoản 3 Điều 43
khoản 1 Điều 47 Điều lệ của Công ty.
Sau khi ban hành Quyết định miễm nhiệm chức vụ đối với ông K, ông K
cho rằng ông K không được thông báo, Công ty đã vi phạm Điều 29 Bộ luật Lao
động năm 2019 về việc thông báo cho người lao động trước 03 ngày làm việc.
Tuy nhiên, tại Đơn kêu cứu đề ngày 01/8/2018 của ông K gửi Giám đốc Sở lao
động Thương binh hội tỉnh VP, ng như Đơn đề nghị của ông K gửi
Phòng Lao động Thương binh Xã hội ngày 14/01/2021, ông K đều trình bày:
Ngày 27/3/2017, tôi nhận được một tin nhắn ảnh gửi Zalo của ông Triệu Đức H
khi đó Trưởng phòng Tổ chức Hành chính chụp quyết định của ông Nguyễn
Văn C với nội dung cắt chức Kế toán trưởng, hạ bậc lương đóng bảo hiểm từ:
5.739.000 đồng xuống 3.552.000 đồng. Do đó, căn cứ khẳng định ông K đã
được Công ty thông o Quyết định miễn nhiệm chức vụ Kế toán trưởng từ
ngày 27/3/2017, đồng thời được biết về việc ông K nhận nhiệm vụ mới từ ngày
01/4/2017, nên Công ty không vi phạm Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012,
nay là Điều 29 Bộ luật Lao động năm 2019.
11
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm các đương sự đều
khẳng định từ khi Công ty ban hành Quyết định miễn nhiệm chức vụ Kế toán
trưởng đối với ông K cho đến nay thì Công ty chưa Quyết định chấm dứt
Hợp đồng lao động với ông K, Công ty vẫn đóng bảo hiểm cho ông K đến hết
tháng 3 năm 2018. Việc ông K không đến Công ty làm việc từ ngày 15/3/2017
cho đến nay do chính ông K, không phải Công ty đã đơn phương chấm dứt
Hợp đồng đối với ông K trái pháp luật theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao
động năm 2012, nên Công ty không phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng
lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy
định tại Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012, đồng thời Công ty không trách
nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định tại Điều 48 Bộ
luật Lao động năm 2012. Do đó, không căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Anh K về việc buộc bị đơn Công ty Cổ phần
LTVP phải bồi hoàn các khoản tiền lương, tiền bảo hiểm hội, các khoản thu
nhập khác cho nguyên đơn với tổng số tiền 1.054.239.900 đồng.
[3] Từ phân tích trên, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn căn cứ. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn không được
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận, cần giữ nguyên bản án thẩm như đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh VP.
[4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
nguyên đơn không phải chịu án phí lao động thẩm án phí lao động phúc
thẩm.
Do nguyên đơn thuộc trường hợp không phải nộp tạm ứng án phí án
phí thẩm nhưng Toà án cấp thẩm khi quyết định lại áp dụng khon 3 Điu
144, khon 1 Điu 146, khon 1 Điu 147 Bộ luật Tố tụng dân sự không
đúng, do đó Toà án cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại các Điều luật áp dụng của
cấp sơ thẩm, cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khon 1 Điu 308 Blut T tụng dân sự: Không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án thẩm số 01/2023/-ST ngày
06 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố VY, tỉnh VP.
2. Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Cổ phần LTVP phải bố trí việc làm
theo đúng chức danh chuyên môn nghiệp vụ, phục hồi lương theo chức danh kế
toán trưởng trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Anh K.
3. Căn cứ khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39;
Điu 271, Điu 273 của Bộ luật Ttụng dân sự; Điều 5 Bộ luật Lao động năm
2012; Điều 149, 157 Luật Doanh nghiệp năm 2014; Điều 12 Nghị quyết số
12
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định vmức thu, miễm, gim, thu, nộp, qun sử dụng án phí lệ phí tòa
án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Anh K về việc yêu
cầu Công ty Cổ phần LTVP bồi thường tổng số tiền 1.054.239.900 đồng (Một
tỷ, không trăm năm mươi triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn, chín trăm đồng),
gồm: Bồi thường 78 tháng lương 700.596.000 đồng; tiền bảo hiểm hội
133.174.500 đồng; các khoản thu nhập khác 148.613.400 đồng (gồm phụ cấp
và các khoản thu nhập bị mất của 78 tháng là 58.383.000 đồng; tổn thất tinh thần
cho những ngày không được đi làm là 58.383.000 đồng; bị mất chế độ nghỉ phép
31.847.400 đồng) và bồi thường tiền trợ cấp thôi việc là 71.856.000 đồng.
4. Về án phí: Ông Nguyễn Anh K không phải chịu án phí lao động
thẩm và án phí lao động phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh VP;
- TAND thành phố VY;
- VKSND thành phố VY;
- Chi cục THADS thành phố VY;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Thu Hà
13
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
Nguyễn Thị Thu Hà
14
15
Về diện tích thửa đất của hộ gia đình cụ Trắc thể hiện tại Bản đồ 299
3.248m
2
nhưng sổ mục sổ địa chính cũng như Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thể hiện 3.108m
2
(giảm 140m
2
so với GCNQSDĐ), theo bản đồ VN
2000 3.244,1m
2
(tăng so với GCNQSDĐ cấp cho hộ cụ Trắc 136,1m
2
).
Theo cung cấp của UBND xã Hoa Sơn thì UBMD không nắm được về diện tích
tăng, giảm nêu trên.
Về diện ch thửa đất của hộ gia đình bà Thành thể hiện tại Bản đồ 299
sổ địa chính 1.144m
2
nhưng sổ mục kê là 4.144m
2
và theo bản đồ VN 2000 là
2.884,4m
2
theo địa phương thông tin sử dụng của hộ Thành tại Bản đồ 299
chỉ sử dụng thửa 06 nhưng tại sổ mục thể hiện sử dụng gồm 02 thửa thửa
05 thửa 06, còn bản đồ VN 2000 thể hiện sử dụng thửa 06 một phần thửa
05 và một phần thửa 07.
Tải về
Bản án số 01/2024/LĐ-PT Bản án số 01/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2024/LĐ-PT Bản án số 01/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất