Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 10/09/2024 của TAND huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 39/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 39/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 39/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 10/09/2024 của TAND huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Phú Riềng (TAND tỉnh Bình Phước) |
Số hiệu: | 39/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Đ và bà H tranh chấp quyền sử dụng đất là lối đi ông Đ đã sử dụng từ năm 2001 nhưng UBND huyện P đã cấp lối đi này vào GCNQSDĐ của bà H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚ RIỀNG
TỈNH B PHƢỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 39/2024/DS-ST
Ngày: 10-9-2024
V/v: “Tranh chấp quyền
sử dụng đất là lối đi”
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG- TỈNH B PHƢỚC
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Hải
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Sỹ Luận
Ông Phạm Văn Khuyến
Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Duyên – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Phú
Riềng, tỉnh B Phước.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng tham gia phiên tòa: Ông Bùi
Quang Thế – Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 219/2023/TLST - DS ngày 04-12-2023 về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất là lối đi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
31/2024/QĐST-DS ngày 22 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số
28/2024/QĐST-DS ngày 21/8/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ – sinh năm 1964. Có mặt
Bị đơn: Bà Võ Thị H – sinh năm 1959. Có mặt
Cùng địa chỉ: Thôn P, xã P, thị xã Phước Long, tỉnh B Phước.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1965. Có mặt
Địa chỉ: Thôn P, xã P, thị xã Phước Long, tỉnh B Phước.
2. Ông Mai Văn S – sinh năm 1968. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn P, xã P, thị xã Phước Long, tỉnh B Phước
3. Ông Mai Văn B – sinh năm 1970. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn Đồng Tiến, xã Phước Tân, huyện Phú Riềng, tỉnh B Phước
4. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh B Phƣớc
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Anh N – Chủ tịch
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Danh T – Trưởng phòng Tài nguyên
và Môi trường. Vắng mặt

2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Năm 2002, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của ông Mai Văn B miếng đất có
diện tích khoảng 1,7ha toạ lạc tại thôn B Trung, xã Phước Tân, huyện Phú Riềng. Đất có
tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Mai Văn S, phía Tây và phía Nam giáp đất bà H, đất ông
Đ và lối đi chung, phía Bắc giáp đất ông Trần Văn T. Thời điểm nhận chuyển nhượng
đất của ông B, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện nay cũng
chưa được cấp. Năm 2012, nhà nước tiến hành đo đạc đại trà cho các hộ dân để làm sổ
trong đó có đất của gia đình ông. Đo nhưng không yêu cầu các hộ giáp ranh ký và không
chỉ ranh giới nên trên thực tế đo nhầm đất của các hộ dân rất nhiều. Lúc đó do hoàn cảnh
khó khăn nên ông bà chưa làm thủ tục cấp sổ, đến sau này ông bà muốn làm thủ tục cấp
sổ thì xảy ra tranh chấp đất với bà H. Vợ chồng ông trực tiếp quản lý và sử dụng đất từ
năm 2002 đến nay. Ông B không phải là người khai phá đất mà ông B nhận chuyển
nhượng của người khác (ông không biết là ai). Khi vợ chồng ông nhận chuyển nhượng
đất, trên đất có lối mòn nối từ lối đi chung của các hộ dân vào trong rẫy, lối đi này dài
khoảng 60m, đầu phía Nam rộng khoảng 7m, đầu phía Bắc rộng khoảng 09m. Lối đi có
tứ cận: Phía Đông giáp đất ông S, phía Tây giáp đất bà H, phía Nam giáp lối đi chung,
phía Bắc giáp đất của ông bà.
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng, lối đi phía giáp đất bà H là hàng cây cao su của
bà H, phía giáp đất ông S là hàng cây cao su do ông S trồng, lối đi này có từ thời chủ đầu
tiên khai phá. Khoảng năm 2010, do đất của ông có vị trí dưới dốc nên để chống xói
mòn đất vào mùa mưa, ông đã đào mương nước sát con đường giáp đất ông S để thoát
nước. Trước khi đào mương, vợ chồng ông có thống nhất với ông S, ông S đồng ý ông
bà mới đào. Mương nước này hiện vẫn còn và là ranh giới phân chia giữa đất của vợ
chồng ông và đất của ông S. Khoảng năm 2017, bà H tự đào mương nước theo đường
ranh cũ giáp lối đi. Ranh hiện nay giữa đất của ông và đất bà H là mương nước (phía
Tây).
Từ trước đến nay, vợ chồng ông vẫn sử dụng lối đi không xảy ra tranh chấp.
Khoảng tháng 8/2023, bà H đến nhà ông và nói lối đi của nhà ông đã được cấp vào sổ
của bà H, bà H đề nghị ông thương lượng nhưng ông không đồng ý vì lối đi gia đình ông
đã sử dụng từ cách đây H 20 năm rồi. Do các bên không thống nhất nên khiếu nại ra Uỷ
ban nhân dân xã Phước Tân. Tại buổi hoà giải tại xã, bà H đã thừa nhận phần đất có lối
đi của vợ chồng ông đã cấp nhầm vào sổ của bà H. Hai bên thống nhất bà H đi làm thủ
tục điểu chỉnh sổ, vợ chồng ông sẽ chịu mọi chi phí. Tuy nhiên, sau đó bà H không đồng
ý đi làm thủ tục điều chỉnh sổ mà lại cho rằng phần đất có lối đi là đất của bà H nên ông
mới phải khởi kiện ra toà. Ông đề nghị Toà án giải quyết công nhận phần đất hiện là lối
đi nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông.
* Bị đơn bà Võ Thị H trình bày:
Khoảng năm 1990, vợ chồng bà khai Hng được miếng đất có diện tích gần 01 ha tại
thôn B Trung, xã Phước Tân, huyện Phú Riềng để trồng cao su. Thửa đất có tứ cận: Phía
Đông giáp đường đất, phía Tây giáp đất ông B (nay là đất ông Đ), phía Nam giáp đất
ông Đồng, phía Bắc giáp đất ông S. Thời điểm đó, các hộ dân giáp đất của bà không có
đường vào rẫy mà họ đi từ đường (phía Đông) đi qua đất của ông Đồng (phía Nam) để
vào đất của họ. Miếng đất ông Đ hiện Đng sử dụng và có tranh chấp lối đi với bà trước
đây của nhiều chủ nhưng bà không biết họ là ai và họ đều đi qua đất của ông Đồng để
3
vào đất của họ. Chỉ đến đời chủ sau này là ông B thì bà mới biết ông B. Sau khi ông B
mua lại đất, gia đình ông B tự ý đi từ đường đất đi qua đất nhà bà (hướng Bắc) để vào
đất của ông B, bà cũng để cho họ đi mà không có ý kiến gì. Do gia đình ông B đi lâu
ngày nên tạo thành đường mòn có chiều ngang khoảng 3m, chiều dài từ đường đất qua
hết đất nhà bà vào đất nhà ông B dài khoảng 60m hoặc 70m. Sau này ông B chuyển
nhượng lại đất cho gia đình ông Đ (khoảng năm 2002) thì gia đình ông Đ tiếp tục đi qua
đất của bà vào rẫy của ông Đ. Cũng ngay trong năm 2002, ông Đ đã trồng 02 cây cao su
vào lối đi trên đất của bà. Khi ông Đ trồng cây thì bà có nói với ông Đ là đất của bà, bà
cho ông B đi ké thôi nhưng ông Đ lại nói ông Đ mua đất của ông B có lối đi đàng hoàng,
có giấy tờ đầy đủ. Do lúc đó đất của bà chưa được cấp sổ nên bà không có ý kiến gì và
không yêu cầu địa phương giải quyết. 02 cây cao su hiện nay vẫn còn trên lối đi.
Năm 2017, bà thanh lý cao su trên đất của bà thì ông Đ tiếp tục trồng cây sao, cây
dầu mỗi loại khoảng 2 – 3 cây trên lối đi nhưng vị trí trồng mở rộng thêm con đường
ông Đ Đng đi. Tức là trồng từ ranh đất của ông S qua đất nhà bà chiều ngang khoảng
10m, ông Đ cho rằng lối đi mua của ông B có chiều ngang 10m, chiều dài hết cạnh đất
phía Bắc của bà. Do đất của bà bị dốc, bà muốn làm mương để thoát nước thì ông Đ chỉ
cho bà làm mương sát với hàng cây dầu, cây sao thì bà cũng chấp nhận. Năm 2017, bà
làm mương thoát nước sát với hàng cây sao, cây dầu. Đến năm 2022, bà được Uỷ ban
nhân dân huyện Phú Riềng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 9.859,4m
2
đất rẫy thì bà thấy trong sổ không thể hiện lối đi nên bà mới mang sổ ra nói chuyện với
ông Đ là đất của bà giáp đất ông S (phía Bắc) chứ không có lối đi nào là đất của ông Đ
thì ông Đ mới đi kiện, yêu cầu bà phải trả đất là lối đi cho ông Đ. Trên thực tế hiện nay
lối đi này là đất của bà, nằm trên đất của bà nhưng gia đình ông Đ vẫn sử dụng. Lối đi có
chiều ngang 10m, chiều dài hết cạnh đất phía Bắc. Bà đề nghị Tòa án không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Tài sản trên lối đi Đng tranh chấp có vài cây cao su, cây
sao, cây dầu do ông Đ trồng. Số lượng bao nhiêu cây bà không nắm được.
Khi giải quyết tại Uỷ ban nhân dân xã Phước Tân, bà đã có ý kiến đồng ý cho ông
Đ lối đi có chiều ngang 3m nhưng ông Đ không đồng ý mà cứ đòi hết chiều ngang lối đi
phải là 10m nên bà không đồng ý.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà H thống
nhất với lời trình bày của ông Đ.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn B trình bày:
Năm 1999, ông nhận chuyển nhượng của ông Thanh (ông không biết họ, tên đệm
và địa chỉ hiện nay của ông Thanh, chỉ biết ông Thanh là người miền Bắc hiện đã về
Đồng Nai sinh sống) diện tích đất khoảng 1,7ha tại thôn B Trung, xã Phước Tân. Đất có
tứ cận: Phía Đông giáp đất ông S; phía Tây và phía Nam giáp đất bà H, đất ông Đồng và
lối đi Đng tranh chấp hiện nay; phía Bắc giáp đất ông Thịnh. Đất chưa có sổ nên hai bên
chỉ làm giấy tay với nhau. Thời điểm ông mua đất của ông Thanh thì đã có lối đi ngang
khoảng 10m, dài khoảng 60m nối từ đường thôn đi vào đất của ông, đất của bà H đã
trồng hết cao su. Phần giáp ranh giữa lối đi và đất bà H có 01 rãnh nước nhỏ do bà H đào
để thoát nước. Sau này, sau khi ông chuyển nhượng đất cho ông Đ thì bà H móc rãnh
nước sâu H để thoát nước như hiện nay. Khi mua đất thì ông mua luôn cả lối đi của ông
Thanh. Sau khi phát cỏ xong, ông có trồng 01 hàng điều chính giữa lối đi từ đường thôn
vào giáp đất ông Thịnh. Ranh giữa đường và đất của bà H là bụi tre lồ ô (không biết do
ai trồng), phần lối đi giáp đất ông S là vườn cao su do ông S trồng.
Năm 2002, ông chuyển nhượng toàn bộ thửa đất và con đường cho ông Đ. Ông Đ
4
thu hoạch khoảng 4 - 5 vụ điều thì phá hàng điều giữa con đường và trồng 2 hàng cây
giáp ranh đất của bà H và ông S như hiện nay. Ông khẳng định lối đi các bên Đng tranh
chấp hiện nay đã có từ thời xưa, thuộc quyền sử dụng của ông Đ. Từ thời ông Thanh,
đến ông và sau này là ông Đ đều sử dụng lối đi, không tranh chấp với bà H. Chỉ đến khi
Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H bao
gồm cả phần lối đi của ông Đ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H nên bà
H cho rằng đất của bà H thì 2 bên mới xảy ra tranh chấp. Ông đề nghị Toà án công nhận
lối đi Đng tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông Đ.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn S trình bày:
Năm 1990, ông khai phá được diện tích khoảng 2,5 ha đất nay thuộc thôn B Trung,
xã Phước Tân, huyện Phú Riềng. Đất có cạnh phía Nam giáp lối đi tranh chấp giữa ông
Đ và bà H. Thời điểm đó miếng đất ông Đ Đng sử dụng hiện nay là đất của ông B. Khi
khai phá đất, ông đã thấy có lối đi nối từ đường thôn vào đất ông B, lối đi có chiều
ngang giáp đường thôn khoảng 01m, chiều dài khoảng 60m. Lối đi này chỉ có gia đình
ông B sử dụng đi vào rẫy. Ông không biết lối đi này thuộc đất của ông B hay đất của bà
H. Hiện nay ranh giữa lối đi và đất của ông là mương nước do gia đình ông và ông Đ
thống nhất đào khoảng năm 2014. Ranh giữa đất của ông và lối đi tranh chấp tính từ
giữa mương nước. Hàng cây điều phía giáp mương nước bên đất của ông là do ông Đ
trồng, trồng từ khi nào ông không biết. Ranh giữa đất bà H và lối đi tranh chấp là rãnh
nước do bà H đào, đào từ khi nào ông không biết. Hàng cây bao gồm cây dầu, cây cao su
do ông Đ trồng sát rãnh nước của bà H. Lối đi Đng tranh chấp rộng như hiện nay là do
gia đình ông Đ mở rộng. Hiện trạng đất của ông sử dụng từ khi khai phá đến nay vẫn
đúng như vậy, không bị ai lấn. Lối đi không mở rộng về phía đất của ông. Lối đi hiện chỉ
gia đình ông Đ sử dụng để đi vào rẫy.
Các bên có nhiều năm không tranh chấp lối đi, gia đình ông Đ sử dụng lối đi hiện
trạng như hiện nay. Các bên mới xảy ra tranh chấp năm 2023, ông không biết lý do tại
sao.
Ông được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 44, tờ bản đồ số
38, diện tích 25.130m2, đất toạ lạc tại thôn B Trung, xã Phước Tân, huyện Phú Riềng,
cạnh phía Nam giáp lối đi dang tranh chấp và giáp đất ông Đ. Ông thừa nhận Mảnh trích
đo địa chính số TAPR 02-2024 đã thể hiện đúng phần đất sử dụng thực tế của ông và
ông Đ, vì tại buổi đo đạc, ông và ông Đ đã thống nhất chỉ ranh đất để cán bộ đo đạc thực
hiện việc đo đạc. Tuy nhiên, theo sơ đồ này thì lối đi tranh chấp giữa ông Đ và bà H có
231,7m
2
nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H, 341,7m
2
nằm
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông. Ông không biết 231,7m
2
đất tranh
chấp nằm trong sổ của bà H là đất của ông Đ hay của bà H, nhưng 341,7m
2
đất tranh
chấp mặc dù nằm trong sổ của ông nhưng không phải là đất của ông, cơ quan cấp đất đã
cấp nhầm một phần lối đi các bên Đng tranh chấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông. Ngoài ra, còn có 336,9m
2
đất của ông Đ lại cấp nhầm vào sổ của ông. Ông
sẽ thực hiện điểu chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đúng với diện tích
đất thực tế của ông và ông Đ Đng sử dụng khi được cơ quan nhà nước yêu cầu.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Phú Riềng –
Ngƣời đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Danh Tùng trình bày: Trong quá trình
giải quyết vụ án, mặc dù Toà án đã nhiều lần gửi giấy triệu tập và các văn bản tố tụng
khác nhưng ông Tùng không đến Toà án làm việc. Do đó, Toà án không lấy được lời
khai của ông Tùng.
5
Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ rút một phần yêu cầu khởi kiện: Đề
nghị Hội đồng xét xử công nhận một phần lối đi có diện tích 231,7m
2
hiện Uỷ ban nhân
dân huyện Phú Riềng cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H thuộc quyền
sử dụng của vợ chồng ông; Không đề nghị giải quyết đối với một phần lối đi có diện tích
341,7m
2
Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp nhầm vào giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông Mai Văn S.
Bị đơn bà Võ Thị H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S. Bà H đề nghị
Hội đồng xét xử công nhận phần lối đi có diện tích 231,7m
2
hiện Uỷ ban nhân dân
huyện Phú Riềng cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H là thuộc quyền
sử dụng của bà H. Còn một phần lối đi có diện tích 341,7m
2
Uỷ ban nhân dân huyện Phú
Riềng cấp nhầm vào sổ của ông Mai Văn S thì bà không có ý kiến gì.
* Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên toà: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử và thư ký phiên toà đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của của người tham gia tố tụng: Các đương
sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.
- Về nội dung vụ án: Áp dụng các điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều
175 Bộ luật dân sự năm 2015; các điều 106, 170 Luật Đất Đi năm 2013: Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ. Công
nhận phần diện tích 231,7m
2
nằm trong thửa số 1, tờ bản đồ số 51, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp cho bà H ngày 23/02/2022,
toạ lạc tại thôn Đồng Tiến (nay là thôn B Trung), xã Phước Tân, huyện Phú Riềng thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của ông Đ.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà,
lời trình bày của đương sự và căn cứ vào ý kiến của vị đại diện viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ khởi kiện yêu cầu
công nhận phần đất là lối đi Đng tranh chấp toạ lạc tại thôn B Trung, xã Phước Tân,
huyện Phú Riềng, tỉnh B Phước thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Đ. Hội đồng
xét xử xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp quyền sử dụng đất là lối đi”,
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và Toà án nhân dân huyện Phú Riềng giải
quyết là đúng quy định tại các điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về sự vắng mặt của đương sự: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Mai Văn S, ông Mai Văn B đều có đơn đề nghị giải quyết vụ án vắng mặt. Người
đại diện theo uỷ quyền của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân
huyện Phú Riềng là ông Nguyễn Danh Tùng mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng
vẫn vắng mặt 02 lần tại phiên toà. Căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về nguồn gốc đất của bà Võ Thị H:
6
Diện tích đất bà H Đng sử dụng có nguồn gốc là đất tách ra khỏi lâm phần sau
quy hoạch 03 loại rừng, bà H được Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng giao đất theo
Quyết định số 5045/QĐ-UBND ngày 29/11/2021. Ngày 23/02/2022, bà H được Uỷ
ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ 069731
đối với thửa đất số 1, tờ bản đồ số 51, diện tích 9.859,4m
2
tại thôn Đồng Tiến (nay là
thôn B Trung), xã Phước Tân, huyện Phú Riềng, tỉnh B Phước.
[2.2] Về nguồn gốc đất của ông Nguyễn Văn Đ:
Theo lời khai của các đương sự thì năm 2002, vợ chồng ông Đ, bà H nhận
chuyển nhượng của ông Mai Văn B thửa đất có diện tích khoảng 1,7ha nay thuộc thôn
B Trung, xã Phước Tân, huyện Phú Riềng. Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng theo bản đồ địa chính hiện nay của xã Phước Tân thì phần đất ông Đ
nhận chuyển nhượng của ông B gồm 2 thửa là thửa số 48 tờ bản đồ số 38 và thửa số 2
tờ bản đồ số 51.
[2.3] Theo lời khai của ông Đ: Năm 2002, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng
của ông Mai Văn B diện tích đất nêu trên, tại thời điểm nhận chuyển nhượng đất đã có
lối đi. Bà H cho rằng đất ông Đ không có lối đi, các đời chủ trước là bà cho đi nhờ qua
đất của bà để vào đất của họ.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy: Ngày
21/11/2002, vợ chồng ông Mai Văn B và bà Lương Thị Huyền chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H vườn cà phê có diện tích 16.748m
2
, lối
đường đi vào rẫy chiều ngang mặt đường 07m, giá chuyển nhượng 105 triệu đồng. Hai
bên viết giấy bán đất vườn cà phê (bút lục 105). Như vậy, tại thời điểm vợ chồng ông
Đ nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông B, lối đi vào đất đã có trên thực tế. Mặt
khác, theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 17/01/2024 thể hiện: Phần lối đi
cạnh phía Nam giáp đất bà H là rãnh nước do bà H đào năm 2017, giáp rãnh nước là 01
hàng cây trồng từ phía Đông kéo dài về phía Tây gồm 05 cây dầu, 05 cây sao và 05 cây
cao su (bút lục 72). Quá trình giải quyết vụ án, ông Đ và bà H đều trình bày 05 cây
dầu, 05 cây sao do ông Đ trồng năm 2017 (bút lục 100). Ông Đ trình bày 05 cây cao su
do ông Đ trồng năm 2008, bà H trình bày 05 cây cao su do ông Đ trồng ngay sau khi
nhận chuyển nhượng đất của ông B (bút lục 100). Phần lối đi cạnh phía Bắc giáp đất
ông S là rãnh nước do ông S và ông Đ thống nhất đào năm 2014, giáp rãnh nước là 01
hàng cây gồm 17 cây điều, 16 cây sao và một số cây bụi nhỏ do ông Đ trồng năm 2016
(bút lục 72). Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thì lối đi tranh chấp có ranh giới
rõ ràng: Phía giáp đất bà H là rãnh nước do bà H đào và hàng cây do ông Đ trồng, phía
giáp đất ông S là rãnh nước do ông S đào và hàng cây do ông Đ trồng. Như vậy, ranh
giữa lối đi tranh chấp với đất của bà H và đất của ông S đã có từ trước khi Uỷ ban nhân
dân huyện Phú Riềng tiến hành đo đạc và cấp sổ cho bà H và ông S. Tuy nhiên Uỷ ban
nhân dân huyện Phú Riềng khi tiến hành đo đạc các ngày 03/01/2021 (bút lục số 49),
10/3/2023 (bút lục số 68) đã đo toàn bộ diện tích lối đi này vào đất của bà H và đất của
ông S dẫn đến phần lối đi tranh chấp nằm cả trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của bà H và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S. Cụ thể: Theo Mảnh trích
đo địa chính số TAPR 02-2024 do Công ty TNHH MTV Đo đạc bản đồ Tấn Thành
thực hiện thì lối đi có diện tích 573,4m
2
trong đó có 231,7m
2
được cấp vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của bà Võ Thị H (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ
069731 do Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp ngày 23/02/2023, thửa số 1, tờ bản
đồ số 51, diện tích 9.849,4m
2
); 341,7m
2
được cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng
7
đất của ông Mai Văn S và bà Lê Thị K (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK
018747, thửa số 44, tờ bản đồ số 38, diện tích 25.130,6m
2
). Tại Biên bản lấy lời khai
ngày 29/5/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn S thừa nhận phần
lối đi tranh chấp có diện tích 341,7m
2
mặc dù nằm trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông nhưng không phải là đất của gia đình ông, cơ quan cấp đất đã cấp
nhầm diện tích đất này vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông. Ông sẽ thực
hiện việc điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đúng với thực tế khi
được cơ quan nhà nước có yêu cầu (bút lục 31). Ông Đ không yêu cầu giải quyết phần
lối đi hiện cấp nhầm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S. Bà H không
có ý kiến gì đối với phần lối đi được cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông S. Bà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử công nhận phần lối đi có diện tích 231,7m
2
được cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà là đất của bà, do bà được nhà
nước công nhận. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết phần lối đi tranh chấp
có diện tích 231,7m
2
hiện cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H.
Như đã phân tích nêu trên, lối đi tranh chấp tồn tại từ lâu, có ranh giới rõ ràng từ
trước khi bà H được Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, do gia đình ông Đ trực tiếp quản lý và sử dụng. Các bên chỉ nảy sinh tranh
chấp sau khi bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì bà H cho rằng phần
lối đi tranh chấp được cấp vào sổ của bà là thuộc quyền sử dụng của bà. Ngoài ra tại
phiên toà, bà H thừa nhận bà chỉ có căn cứ chứng minh phần lối đi tranh chấp thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của bà là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện phần
lối đi tranh chấp trong sổ của bà, ngoài ra bà không có căn cứ chứng minh nào khác.
Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ, công nhận
một phần lối đi có diện tích 231,7m
2
hiện được cấp vào giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của bà H là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Đ, bà H.
[2.4] Theo mảnh trích đo địa chính số TAPR 02-2024 thể hiện: Cạnh đất phía Tây
phía giáp thửa số 48 của ông Đ và thửa số 1 của bà H có 369,7m
2
đất nằm trong ranh
hiện trạng bà H sử dụng nhưng lại nằm ngoài ranh giấy chứng nhận của bà H; cạnh đất
phía Tây Nam có 336,9m
2
đất nằm trong ranh hiện trạng ông Đ sử dụng nhưng lại nằm
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S. Các đương sự đều không yêu cầu
Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.5] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc: Là 27.051.000đ (Hai mươi
bảy triệu không trăm năm mươi mốt nghìn đồng). Ông Đ đã nộp đủ. Do một phần lối
đi tranh chấp nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H, một phần nằm
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S. Ông Đ chỉ yêu cầu giải quyết
phần lối đi tranh chấp được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H nên
ông Đ và bà H mỗi bên phải chịu ½ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc là
13.525.500đ (Mười ba triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn năm trăm đồng). Bà H phải
trả lại ông Đ số tiền 13.525.500đ (Mười ba triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn năm
trăm đồng).
[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên
nguyên đơn không phải chịu án phí. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên do bị đơn bà H là người cao tuổi, đồng thời bà H có đơn đề nghị miễn án phí
nên Hội đồng xét xử miễn án phí cho bà H theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,

8
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 228 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ các điều 106, 170 và 203 Luật Đất Đi năm 2013;
Căn cứ Nghị Quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Toà án.
Xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ.
Công nhận phần đất tranh chấp là lối đi có diện tích 231,7m
2
toạ lạc tại thôn
Đồng Tiến (nay là thôn B Trung), xã Phước Tân, huyện Phú Riềng, tỉnh B Phước, tứ
cận: Cạnh phía Đông dài 9,71m, cạnh phía Đông Bắc dài 56,77m, cạnh phía Tây Nam
dài 66,28m (phần lối đi này hiện nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ
069731 do Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp ngày 23/02/2023, thửa số 1, tờ bản
đồ số 51, diện tích 9.849,4m
2
cho bà Võ Thị H) thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn
Văn Đ và bà Nguyễn Thị H. Tài sản trên đất gồm có: 05 cây dầu, 05 cây sao trồng năm
2016, 05 cây cao su trồng năm 2009.
Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DĐ 069731 do Uỷ ban nhân dân huyện Phú Riềng cấp ngày 23/02/2023
cho bà Võ Thị H để điều chỉnh, cấp lại theo đúng hiện trạng, diện tích thực tế sử dụng.
(Kèm theo bản án là Mảnh trích đo địa chính số TAPR 02-2024 ngày 17/01/2024
của Công ty TNHH MTV Đo đạc Bản đồ Tấn Thành, được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B Phước duyệt ngày 20/5/2024).
2/ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc không yêu cầu giải
quyết phần lối đi có diện tích 341,7m
2
hiện nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số DK 018747 đối với thửa số 44, tờ bản đồ số 38, diện tích 25.130,6m
2
do Uỷ ban
nhân dân huyện Phú Riềng cấp ngày 17/11/2023 cho ông Mai Văn S và bà Lê Thị Kỷ.
3/Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc: Là 27.051.000đ (Hai mươi
bảy triệu không trăm năm mươi mốt nghìn đồng). Ông Đ và bà H mỗi người phải chịu
13.525.500đ (Mười ba triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn năm trăm đồng). Bà H phải
trả lại ông Đ số tiền 13.525.500đ (Mười ba triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn năm
trăm đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu
bà H chưa trả số tiền nêu trên thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4/Về án phí: Trả lại ông Nguyễn Văn Đ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0016509 ngày 04/12/2023 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Phú Riềng, tỉnh B Phước.
Miễn án phí cho bà Võ Thị H.
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có

9
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân
sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- VKSND H. Phú Riềng;
- TAND tỉnh B Phước;
- Chi cục THADS H. Phú Riềng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Đinh Thị Hải
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm