Bản án số 384/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 384/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 384/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 384/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sửa một phần bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 384/2025/DS-PT
Ngày: 26 - 6 - 2025
V/v tranh chấp “Hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất và
đòi quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lưu Thị Thu Thủy
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Diệp Thuý
Ông Võ Trung Hiếu
- Thư phiên tòa: Ông Minh Thắm Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Phan Thị Thanh Xuân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 19 và 26 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang, t xử phúc thẩm công khai v án dân s thụ số:
191/2025/TLPT-DS ngày 08 tháng 4 năm 2025 về việc tranh chấp “Hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất và đòi quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 13/2025/DS-ST ngày 10 tháng 01 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 837/2025/QĐ-PT ngày
14 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyn Th Ẩ, sinh năm 1926.
Địa ch: p M, xã M, huyện C, tnh Tin Giang.
- Đại din theo y quyn: Bà Lê Thị Hng T, sinh năm 1983.
Địa ch: ấp T, T, huyện C, tnh Tin Giang. (Theo giy y quyền ngày
19/5/2020).
2. B đơn: Ông Nguyễn Văn Bé N, sinh năm 1966.
Địa ch: p M, xã M, huyện C, tnh Tin Giang.
- Đại din theo y quyn: Ông Lâm Hữu N1, sinh năm 1989.
2
Địa ch:7 T, Phường F, thành phố M, tnh Tin Giang (Theo Văn bản y
quyền ngày 18/6/2025).
3. Người có quyền li, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lê Thị T1, sinh năm 1966; (xin vắng mt).
3.2. Bà Nguyn Th Oanh K, sinh năm 1991; (xin vắng mt).
3.3. Bà Nguyn Th Kiu T2, sinh năm 1996; (xin vắng mt).
3.4. Ông Ngô Văn G, sinh năm 1985; (xin vắng mt).
Cùng địa ch: p M, xã M, huyn C, tnh Tin Giang.
3.5. Ông Nguyn Trng P, sinh năm 2005. Đa ch: Ấp M, M, huyện C,
tnh Tin Giang (xin vng mt).
3.6. Ông Nguyn Ngc P1, sinh năm 1976 (xin vắng mt);
3.7. Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1980 (xin vắng mt);
3.8. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1984 (xin vắng mt);
3.9. Bà Nguyn Th L, sinh năm 1986 (xin vắng mt);
3.10. Bà Nguyn Th Bé H, sinh năm 1981 (xin vắng mt);
Cùng địa ch: p M, xã M, huyn C, tnh Tin Giang.
3.11. Ông Nguyễn Văn N2, sinh năm 1979 (xin vng mt);
Địa ch: Khu ph T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3.12. Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn Đ - Chủ tịch Ủy ban nhân dân
(xin vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn - Bà Nguyễn Thị Ẩ.
5. Cơ quan kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Bản án sơ thẩm,
Nguyên đơn, Nguyễn Thị đại diện theo ủy quyền chị Thị
Hồng T trình bày:
Nguyễn Thị có quyền sdụng đất diện tích 2.049,9m
2
thuộc thửa đất
số 386, tờ bản đồ số 18 tại ấp M, M, huyện C, tỉnh Tiền Giang đã được Ủy
ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất số H02499 ngày
10/4/2008 cho hộ bà Nguyễn Thị đứng tên. Vào ngày 20/10/2018, một
người thanh niên (không biết họ, tên, địa chỉ) đến nhà của kêu bà Ẩ lăn tay
làm thủ tục cho ông Nguyễn Văn N 1.000m
2
đất. nói chỉ cho
3
1.000m
2
với điều kiện ông N phải nuôi dưỡng đến ngày chết nghĩa vụ
cúng giỗ người con trai thứ 6 của Ẩ, sự việc này các con của bà Ẩ, hàng
xóm T4 ấp đều biết. Do không biết chữ nên con ruột là ông N đã lợi
dụng việc này lập thủ tục chuyển quyền toàn bộ phần đất 2.049,9m
2
cho ông N
đứng tên. Năm 2019, vợ chồng ông N không chăm c, ngược đãi xua đuổi
bà Ẩ ra khỏi nhà, lúc này bà mới biết ông N đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng toàn bộ phần đất. Nay bà Ẩ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/10/2018 giữa
Nguyễn Thị Ẩ và ông Nguyễn Văn Bé N;
- Buộc ông Nguyễn Văn N trả lại cho phần đất diện tích 2.049,9m
2
,
thuộc thửa đất số 386, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại ấp M, M, huyện C, tỉnh
Tiền Giang theo Bản đồ địa chính khu đất trích đo ngày 08/9/2020 của Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện C. đồng ý hoàn trả lại cho ông N
giá trị các cây trồng trên đất theo biên bản định giá tài sản ngày 14/4/2021 của
Hội đồng định giá tài sản tranh chấp.
Bị đơn, ông Nguyễn Văn N đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn
Phước T5 trình bày:
Vào ngày 20/10/2018, ông N được mẹ ruột Nguyễn Thị ng các
thành viên trong hộ gia đình tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 386,
tờ bản đồ số 18, diện tích 2.049,9m
2
tọa lạc tại ấp M, M, huyện C, tỉnh Tiền
Giang. Việc tặng cho đất tự nguyện, không điều kiện mẹ tặng cho đất
cho con. Ông N đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng
nhận quyền sdụng đất số CS 02087, cấp ngày 14/01/2019 cho ông đứng tên,
nên ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Ẩ.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Thị T1, Nguyễn Thị Oanh
K, Nguyễn Thị Kiều T2 ông Ngô Văn G cùng ủy quyền cho ông Nguyễn
Phước T5 trình bày:
Thống nhất lời trình bày của ông N. Thời điểm ngày 20/10/2018, T1,
K T2 chung hộ với và ông N nên tên trong hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa và ông N, theo đó bà đồng ý tặng cho ông N
thửa đất số 386, tờ bản đồ số 18, diện tích 2.049,9m
2
tọa lạc tại ấp M, M,
huyện C, tỉnh Tiền Giang vì từ trước đến nay ông N là con chưa được chia đất.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Trọng P trình bày:
Ông con ông N, cháu nội Ẩ, ông thống nhất lời trình bày của ông N
và xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Ngọc P1, ông Nguyễn
Văn T3, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn N2, Nguyễn Thị L, Nguyễn
Thị Bé H trình bày:
Các ông, cháu nội của Ẩ. Thửa đất số 386, tbản đồ s18, diện
tích 2.049,9m
2
tọa lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang có nguồn gốc
4
của Ẩ. Việc bà khởi kiện đòi ông N trả lại đất các ông, thống nhất với
yêu cầu của Ẩ, không ý kiến xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng
giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân xã M trình bày:
Ngày 20/10/2018, Ủy ban nhân dân xã M có chứng thực hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị ông Nguyễn Văn N. Ủy ban
nhân dân xã N thấy việc chứng thực không đúng theo khoản 3 Điều 36 của Nghị
định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính Phủ. Tuy nhiên, tại thời
điểm tiếp nhận hồ sơ yêu cầu chứng thực, bà minh mẫn, nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình, tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng và điểm chỉ vào
hợp đồng trước mặt ông Trần Văn Đ1 Công chức pháp, hộ tịch M
người trực tiếp nhận hồ sơ. Về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho của bà , Ủy ban
nhân dân M để Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật xin vắng mặt
trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
* Bản án dân sự thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 19-5-2023 của Toà án
nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang căn cứ các Điều 122, 123, 129, 131, 500,
501, 502, 503 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166 Luật Đất đai năm 2013,
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ẩ.
- Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 20/10/2018 giữa
hộ bà Nguyễn Thị Ẩ với ông Nguyễn Văn Bé N hiệu.
- Buộc ông Nguyễn Văn N trả lại cho Nguyễn Thị quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất diện tích thực đo 1.920,3m
2
thuộc thửa đất số
386, tờ bản đồ 18, diện tích 2.049,9m
2
toạ lạc tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền
Giang. (có vị trí kèm theo).
- Buộc Nguyễn Thị trách nhiệm hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn
N trị giá cây trồng trên đất với stiền tổng cộng 92.678.000 đồng, thực
hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Sau khi hoàn trả số tiền trên xong
được quyền sở hữu đối với tất cả cây trồng trên đất.
- Nguyễn Thị được quyền liên hệ với quan quản Nhà nước về
đất đai địa phương đăng khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với phần đất nêu trên theo quy định của pháp luật về đất đai.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Văn Bé N có đơn kháng cáo.
* Bản án dân sự phúc thẩm số 614/2023/DS-PT ngày 07- 12-2023 của Toà
án nhân dân tỉnh Tiền Giang tuyên xử:
Huỷ Bản án dân sự thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 19-5-2023 của Toà án
nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Giao hồ vụ án về cho Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang giải
quyết lại theo thẩm quyền.
5
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2025/DS-ST ngày 10 -01- 2025 của Toà
án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ vào các Điều 116, 117, 118,
146, 457, 459 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166, 167, 168 Luật Đất đai năm
2013;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cu khi kin của Nguyn Th yêu cầu tuyên
b hợp đồng tng cho quyn s dụng đất được Ủy ban nhân dân M chng
thực ngày 20/10/2018 giữa Nguyn Th Ẩ, bà Thị T1, Nguyn Th
Kiu T2, bà Nguyn Th Oanh K với ông Nguyễn Văn Bé N đối vi thửa đất s
386, t bản đ s 18, diện tích 2054m
2
(diện tích thực đo 1920,3m
2
) do y ban
nhân dân huyn C cấp ngày 10/4/2008 cho hộ Nguyn Th là vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị yêu cầu ông
Nguyễn Văn N trả lại quyền sử dụng thửa đất số 386, tờ bản đồ số 18, diện
tích 2049,9m
2
(diện tích thực đo 1920,3m
2
) do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh T cấp ngày 14/01/2019 cho ông Nguyễn Văn N theo Bản đồ địa chính
khu đất trích đo ngày 08/9/2004 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện C (có sơ đồ kèm theo).
3. Ghi nhận ông Nguyễn Văn Bé N tự nguyện trả lại cho bà Nguyễn Thị Ẩn
S tiền 25.450.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất, số vào sổ cấp GCN: CS02087, số thửa 386, tờ bản đồ số 18, diện tích
2049,9m
2
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp ngày 14/01/2019 cho ông
Nguyễn Văn Bé N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của
đương sự theo quy định.
- Ngày 13 tháng 01 năm 2025, bà Nguyễn Thị có đơn kháng cáo yêu cầu
Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang sửa Bản án thẩm; chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
-Ngày 24 tháng 01 năm 2025, Viện kiểm sát nhân dân huyện C tỉnh Tiền
Giang ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 01/QĐ-VKS-DS đề nghị
Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang hủy bản án thẩm, chuyển hồ về Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
* Tại phiên tòa hôm nay:
- Đại diện uỷ quyền của nguyên đơn là bà Lê Thị Hồng Thu G1 nguyên yêu
cầu kháng cáo, yêu cầu hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo hướng chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
6
- Đại diện Viện kiểm sát trình bày kháng nghị cho rằng Bản án thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Ẩ, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ẩ. Toà án cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa
khách quan, toàn diện, đầy đủ chưa chính xác, vi phạm thủ tục tố tụng được
quy định tại Điều 108, điểm b khoản 2 Điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy
Viện kiểm sát nhân dân huyện C ban hành Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-
VKS-DS ngày 24 tháng 01 năm 2025 đề nghị cấp phúc thẩm huỷ bản án
thẩm.
- Đại diện uquyền của bị đơn ông Lâm Hữu N1 không đồng ý với yêu
cầu kháng cáo của nguyên đơn; không đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát
và yêu cầu hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên xử: Chấp nhận kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân huyện C; huỷ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ cho Toà án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên
những quy định pháp luật.
[1]. Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Quyết định kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân huyện C còn trong thời hạn quy định nên được xem xét
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về việc vắng mặt đương sự: Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đơn đnghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định .
[3]. Về nội dung kháng cáo, kháng nghị xét thấy:
[3.1]. Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Theo Công văn số 2019 ngày 30/12/2024 Công văn số 06 ngày
08/01/2025 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện C thì nguồn gốc
phần đất tranh chấp số thửa 1074, diện tích 5190m
2
được y ban nhân dân
huyện C cấp giấy chứng nhận số 00101 ngày 18/11/1996 cho Nguyễn Thị
(theo hồ sơ 299).
Ngày 25/11/2004, hộ Đơn đăng ký cấp đổi lại số thửa 309, t
bản đồ số 18, diện tích 6748m
2
, được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng
nhận số vào sổ H02499 ngày 10/4/2008 cho hộ bà Ẩ.
Năm 2009, tách thửa 309 thành thửa 330 và 331: Thửa 331, diện tích
994m
2
tặng cho hông Nguyễn Văn M ngày 17/11/2009; Thửa 330, tờ bản đồ
số 18, diện tích 5754m
2
là phần diện tích còn lại của hộ được Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện C xác nhận tại trang 4 ngày 11/11/2009.
7
Hộ bà thực hiện tách thửa 330, tờ bản đồ số 18, diện ch 5.754m
2
thành
các thửa 386, 387, 388, tờ bản đồ số 18 và tặng cho thửa 387, diện tích 3.000m
2
cho hộ ông Nguyễn Văn T3, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/12/2018; tặng cho thửa 388, diện tích
700m
2
cho hộ ông Nguyễn Văn M, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/12/2018. Diện tích còn lại
2054m
2
(điều chỉnh tại trang tại trang 4 giấy chứng nhận) tặng cho hộ ông
Nguyễn Văn N, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ngày 14/01/2019 số thửa 386, diện tích 2049,9m
2
hiện đang tranh chấp.
[3.2]. Theo Công văn s 49 ngày 02/11/2024 của Công an M nội
dung: Qua tra cứu tàng thư phát hiện 02 sổ hộ khẩu là: số 28495-
00519/ML được lập vào năm 1976 số 28495-001598/ML được lập vào năm
1986 số ri 590034055. Hộ 02 sổ hộ khẩu do hạn chế của công
tác quản nhân, hộ khẩu bằng phương pháp thủ công trước đây dẫn đến việc
công dân thể nhiều nơi thường trú hoặc nhiều sổ hộ khẩu. Hiện tại căn cứ
vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì số hồ sơ hộ khẩu 28495-001598/ML có
giá trị pháp lý. Thời điểm ngày 25/11/2004 và 10/4/2008, thành viên trong hộ bà
theo sổ hộ khẩu 28495-001598/ML gồm: (chủ hộ), ông N (con), T1
(dâu), bà T2, bà K và ông P (cháu nội, con ông N).
[3.3]. Ngày 20/10/2018, hộ Nguyễn Thị (gồm các thành viên trong hộ
nêu trên) lập hợp đồng tặng cho quyền s dụng thửa đất số 386, diện tích
2049,9m
2
cho ông Nguyễn Văn N được Ủy ban nhân dân M chứng
thực hợp đồng. Đến ngày 14/01/2019, hộ ông Nguyễn Văn N được Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa 386, tờ bản đồ số 18, diện tích 2049,9m
2
.
[4]. Xét tính hợp pháp của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa
và ông N, nhận thấy:
[4.1]. Về hình thức: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa
ông N tuy cách thức thực hiện chưa đúng quy trình (bà lăn tay, điểm chỉ tại
nhà) nhưng được lập thành văn bản, được Ủy ban nhân dân M chứng thực,
nên đã tuân thủ về mặt hình thức hợp đồng theo quy định tại Điều 457, 459 Bộ
luật Dân sự năm 2015 và Điều 166, 167, 168 Luật Đất đai năm 2013.
[4.2]. Về nội dung: Thửa đất bà tặng cho ông N được Nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho vào thời điểm tặng cho không tranh
chấp. tnguyện tặng cho ông N tự nguyện nhận, trong hợp đồng tặng
cho giữa hai bên không thỏa thuận, ràng buộc điều kiện gì. Mặc dù thửa đất tặng
cho có nguồn gốc của cá nhân bà nhưng tại thời điểm tặng cho được các thành
viên trong hộ gia đình cùng đồng ý tên chứng kiến, ghi nhận, đến nay ông N
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
[4.3]. Tại Văn bản số 190 ngày 21/6/2024 của Ủy ban nhân dân M
biên bản xác minh lời khai của ông Trần Văn Đ1 Công chức tư pháp hộ tịch xã
8
M, người trực tiếp nhận hồ thể hiện: Tại thời điểm tặng cho lớn tuổi
nhưng có giấy xác nhận là còn minh mẫn, sáng suốt, làm chủ nhận thức và hành
vi (có giấy khám sức khỏe tâm thần), tự nguyện giao kết hợp đồng, điểm
chỉ vào hợp đồng trước mặt ông Trần Văn Đ1. Trước khi điểm chỉ ông Đ1 đã
giải thích cho hậu quả pháp lý của việc tặng cho đất và có đọc lại cho bà
nghe nội dung trong hợp đồng, bà nghe và đồng ý nội dung mới điểm chỉ vào,
có 02 người làm chứng là ông Lê Văn T6 và ông Nguyễn Văn V chứng kiến.
[4.4]. Tại Đơn trình bày ý kiến người làm chứng, ông Văn T6 và ông
Nguyễn Văn V trình bày chứng kiến tên điểm chỉ vào hợp đồng tại
nhà Ẩ, ông N: “khi đó cán bộ M đọc lại hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất cho bà nghe, tôi có nói rõ cho bà rằng bà ký tên là cho đất khoảng
hơn 02 công cho con trai bà là Nguyễn Văn Bé N, bà còn nói với chúng tôi tại
UBND M việc cho đất ý của bà, biết không lẽ tao lật lọng hay sao
mà tụi bây nói như vậy”.
[5]. Tại khoản 3 Điều 36 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015
của Chính Phủ quy định:“ Trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký được
thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không ký,
không điểm chỉ được thì phải 02 (hai) người làm chứng. Người làm chứng
phải đủ năng lực hành vi dân sự không quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ
liên quan đến hợp đồng, giao dịch”.
Xét thấy, bà Ẩ tuy không biết chữ, không đọc được nhưng nghe được và đã
điểm chỉ vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trước mặt ông Trần Văn Đ1,
được ông Đ1 đã giải thích hậu quả pháp của việc tặng cho đất đọc lại
cho nghe nội dung trong hợp đồng nên không cần thiết phải 02 người
làm chứng kiến theo quy định nêu trên thì người làm chứng không phải
tên vào hợp đồng.
[6]. Từ những phân tích nhận định nêu trên cho thấy hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất lập ngày 20/10/2018 giữa hộ ông N tuy cách thức
thực hiện chưa đúng quy trình (bà lăn tay, điểm chỉ tại nhà) nhưng được lập
thành văn bản, được Ủy ban nhân dân M chứng thực nên đã tuân thủ về mặt
hình thức. Nội dung thể hiện đúng ý chí của Ẩ, phù hợp quy định tại Điều
116, 117, 118, 457, 459 Bluật Dân sự năm 2015; Điều 166, 167, 168 Luật đất
đai nên hợp pháp và được công nhận.
[7]. Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện C kháng cáo của
nguyên đơn cho rằng bị lừa dối khi lập hợp đồng; hình thức của hợp đồng
vi phạm khoản 3 Điều 36 Nghị định số 23/2015/MĐ-CP ngày 16/02/2015 của
Chính phủ; ông N đã vi phạm điều kiện tặng cho của hợp đồng nên đề nghị cấp
phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là không có cơ sở, không phù hợp với nhận định nêu trên.
Việc bà cho rằng bà chỉ tặng cho ông N 1.000m
2
đất với điều kiện ông N
phải phụng dưỡng cúng giỗ người em thứ sáu của ông N nhưng ông N
không thừa nhận trong nội dung của hợp đồng cũng không thể hiện điều kiện
9
này. cho rằng ông N xua đuổi, không chăm sóc, phụng dưỡng bà, các
ông Ngô Văn T7, Trần Văn H1, Phan Văn T8, Phan Văn M1 và Nguyễn Văn T9
biết nhưng chỉ mang giá trị tham khảo.
Xét thấy sau khi được tặng cho đất, ông N đã sử dụng đất ổn định, công
khai, liên tục, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đúng với quy định của Luật Đất đai. Trên đất ông N có trồng
nhiều loại cây lâu năm có giá trị thu hoạch cao nhưng bà Ẩ không ngăn cản. Cho
nên, việc yêu cầu tuyên huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
20/10/2018 yêu cầu ông N phải trả lại thửa đất 386 cho không phù
hợp pháp luật.
[8]. Tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền của bà trình bày nếu ông
N đồng ý hoàn giá trị sử dụng đất cho với số tiền 400.000.000 đồng thì
không yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/10/2018
giữa ông N, không yêu cầu ông N trả lại thửa đất 386 cho nhưng
ông N không đồng ý nên yêu cầu này của không được hội đồng xét xử
chấp nhận.
Ông N chỉ đồng ý hoàn giá trị tài sản trên đất cho 25.450.000 đồng
như Bản án thẩm đã tuyên xử, đồng thời hỗ trợ thêm cho Ẩn số tiền
10.000.000 đồng, tổng cộng 35.450.000 đồng nên hội đồng xét xử ghi nhận sự
tự nguyện của ông N, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Từ những nhận định như đã nêu trên, hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện C; không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ẩ; sửa một phần bản án sơ thẩm.
[9]. Xét đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà cho rằng hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa bà và ông N hiệu một phần nhưng sơ đồ đo vẽ
không thể hiện tứ cận nên đề nghị huỷ bản án sơ thẩm không có cơ sở, không
phù hợp với nhận định nêu trên nên không được hội đồng xét xử chấp nhận.
[10]. Về chi ptố tụng: Bao gồm chi phí thẩm định, đo đạc định giá tài
sản tranh chấp 4.692.400 đồng. đã tạm chi trước, do yêu cầu của
không được chấp nhận nên phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng (đã thực hiện xong).
[11]. Về án phí: người cao tuổi, đơn xin miễn nộp tạm ứng án
phí và án phí nên được miễn toàn bộ án phí theo quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thực hiện nghĩa
vụ cho bà Ẩ là 1.772.500 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
10
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309, Điều 296, Bộ luật Tố tụng
dân sự;
1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ẩ.
Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS ngày 24
tháng 01 năm 2025 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm s13/2025/DS-ST ngày 10 tháng 01
năm 2025 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ Điều 116, 117, 118, 146, 457, 459 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều
166, 167, 168 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị yêu cầu
tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân M
chứng thực ngày 20/10/2018 giữa Nguyễn Thị Ẩ, bà Thị T1, Nguyễn
Thị Kiều T2, bà Nguyễn Thị Oanh K với ông Nguyễn Văn Bé N đối với thửa đất
số 386, tờ bản đồ số 18, diện tích 2054m
2
(diện tích thực đo 1920,3m
2
) do Ủy
ban nhân dân huyện C cấp ngày 10/4/2008 cho hộ bà Nguyễn Thị Ẩ là vô hiệu.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Ẩ yêu cầu ông
Nguyễn Văn N trả lại quyền sử dụng thửa đất số 386, tờ bản đồ số 18, diện
tích 2049,9m
2
(diện tích thực đo 1920,3m
2
) do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh T cấp ngày 14/01/2019 cho ông Nguyễn Văn N theo Bản đồ địa chính
khu đất trích đo ngày 08/9/2004 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện C (có sơ đồ kèm theo).
1.3. Ghi nhận ông Nguyễn Văn N tự nguyện trả lại cho Nguyễn Thị
Ẩn S tiền 35.450.000 đồng (Ba mươi lăm triệu, bốn trăm năm mươi ngàn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Năm C1 thực hiện
nghĩa vtrả tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả. Lãi suất do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản
2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất, số vào sổ cấp GCN: CS02087, số thửa 386, tờ bản đồ số 18, diện tích
2049,9m
2
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp ngày 14/01/2019 cho ông
Nguyễn Văn Bé N.
2/- Về án phí: Ông Nguyễn Văn Bé N phải chịu 1.772.500 đồng (Một triệu,
bảy trăm bảy mươi hai ngàn, năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị Ẩ được miễn toàn bộ án phí
11
3/- Về chi phí tố tụng: Nguyễn Thị phải chịu 4.592.700 đồng (Bốn
triệu năm trăm chín mươi hai ngàn, bảy trăm đồng), đã thực hiện xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C;
- CCTHADS huyện C;
- Đăng cổng thông tin điện tử;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án (Thắm).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lưu Thị Thu Thủy
Tải về
Bản án số 384/2025/DS-PT Bản án số 384/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 384/2025/DS-PT Bản án số 384/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất